Tình thương thì ai cũng có, tuy nhiên quy mô, tính chất và hạn
lượng của tình thương thì không phải ai cũng như ai. Đặc thù đó đã làm nên một
thái tử Shidhartta luôn trầm tư về bản chất của cuộc đời, để rồi từ những chất
liệu đó đã mở ra một trang mới trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Với Phật giáo,
tình thương luôn đi đầu và mang tính cơ bản, vì
tình thương ấy luôn nội hàm ánh sáng của trí tuệ và gắn kết với liệu pháp chữa
trị, sẻ chia. Ở đây, một trong những biểu hiện của tình thương, đó chính là bảo
hộ sự sống cho chúng sanh ở nghĩa rộng nhất có thể. Thuật ngữ Phật học biểu đạt
về hiện thực sinh động này bằng hai chữ ngắn gọn: phóng sanh.
Phóng sanh tức là phóng thích, cứu mạng sống, ban cho sự
tự do, giúp một chúng sanh trở về với đời sống thực sự của chúng… là một trợ
hạnh trong các pháp môn tu tập của Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo khác. Nhận
thức đúng về trợ hạnh này giúp chúng ta có một thái độ ứng xử phù hợp, trong
bối cảnh đã và đang có nhiều bất cập nảy sanh xung quanh hiện tượng phóng sanh.
Những tiền đề lý
luận dẫn xuất hiện tượng phóng sanh
Thứ nhất, Phật giáo xem tình thương là chất liệu nền tảng.
Tình thương trong Phật giáo nội hàm nhiều cấp độ và tình thương rộng lớn, không
phân biệt nhân, ngã, bỉ thử… được xem là đỉnh cao của giác độ tình thương. Với
Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả
để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp để
cứu giúp chúng sanh. Nếu như sự xuất hiện của Đức Phật là vì lợi ích, vì
hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người(2)
thì mục tiêu thuyết pháp của Đức Phật cũng chính là vì lợi tha và do lòng
từ, Thế Tôn thuyết pháp(3). Cuộc đời
của Đức Phật là biểu thị sinh động của một tình thương lớn, chất ngất, vô biên.
Như vậy, từ cơ sở tình thương không phân biệt trong Phật giáo, từng bước dẫn
sinh ra quan điểm cứu người, thương vật mà thuật ngữ gọi tắt là phóng sanh.
Thứ hai, bản chất của chúng sanh nói chung là ham sống, sợ
chết, ghét khổ, ham vui. Vì sinh mệnh chỉ có một và là cái thiêng liêng, bất
khả xâm phạm. Ngay như con sâu, cái kiến cũng ý thức về điều đó. Trong kinh Tiểu
bộ, tiền thân của Đức Phật đã từng mua cá từ ngư phủ để phóng sanh(4). Có thể nói, dường như đây là lần đâu
tiên, việc mua cá phóng sanh được đề cập trong kinh điển nguyên thủy. Lý thuyết
về phóng sanh được củng cố thêm bằng câu chuyện sinh động về các thiếu niên
hành hạ các con cá và lấy đó làm vui, đã được Đức Phật khéo léo bảo lũ trẻ nên
phóng thích con cá, Ngài đã dẫn dụ bằng những vần kệ: Nếu con không ưa khổ/
Dầu bất cứ chỗ nào/ Chớ làm các nghiệp ác/ Trước mặt hay sau lưng/ Nếu con làm,
sẽ làm/ Các nghiệp ác, bất thiện/ Con không giải thoát khổ/ Dầu nhảy vọt và
chạy(5). Đúc kết từ nhiều trường hợp
tương tự như thế, Đức Phật đã khái quát tính chất chung này bằng bài kệ: Mọi
người sợ hình phạt/ Mọi người thích sống còn/ Lấy mình làm ví dụ/ Không giết,
không bảo giết(6). Trong những chuẩn
mực đạo đức cơ bản của một vị Tỳ-kheo, thì không những phải từ bỏ sát sanh,
tránh xa sát sanh(7) mà còn phải không
làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ. Ý thức sâu sắc về nỗi khổ của
tha nhân khi bị xâm hại mạng sống, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người
khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh(8) và đây cũng là một trong những cơ sở
để xuất sinh quan điểm bảo hộ mạng sống cho chúng sanh nói chung.
Thứ ba, khát vọng tự do
và bình đẳng là khát vọng muôn thuở của con người và một số giống loài. Khát
vọng chính đáng đó không phải ai cũng may mắn có được, vì có một số giống loài
ngay từ lúc vừa sanh ra, chưa bao giờ nếm được hương vị của bình đẳng, của tự
do. Sự mô tả chân xác trong kinh Trường bộ là một thực tế cay nghiệt dù
ở bất cứ một thời đại nào: như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc
người khác, không được tự do đi lại(9). Đó
là tâm sự tự ti của Tôn giả Sunita, vốn con nhà hạ tiện, làm lao công quét
đường, được Phật độ vào dòng Thánh(10)
và cũng là tâm trạng chán nản của nàng thiếu nữ Prakriti khi dâng nước cho ngài
A Nan. Về phương diện nhân vị, Đức Phật luôn xác chứng sự bình đẳng giữa người
với người. Sự cao sang hay bần tiện của một con người không phải do thân thích,
dòng họ mà do chính bởi hành động của người đó. Bần tiện không vì sanh/ Phạm
chí không vì sanh/ Do hành, thành bần tiện/ Do hành, thành Phạm chí(11). Cho nên xác lập bản vị cho con người
cũng là một khát vọng mà Đức Phật và đệ tử của Ngài đã và đang thực hiện. Mặt
khác, với chúng sanh nói chung, do túc nghiệp oan khiên từ bản thân, dòng tộc,
cha mẹ nên một số giống loài khi hiện sinh ở kiếp này đã lâm vào cảnh bất bình
đẳng về phẩm vị và đôi khi rơi vào vòng tù hãm, lao lung. Đó là hoạt cảnh chim
lồng cá chậu, là sự dung dưỡng vật nuôi nhằm thỏa mãn sở dục vô hạn của con
người. Ở đây, đưa con người trở về với phẩm vị của chính họ, đưa các loại sinh
vật trở lại với môi trường sống thực sự của chúng, là một trong những phương
thức phóng sanh theo nghĩa hiện thực, cụ thể.
Phóng sanh, một pháp hành
hay chỉ là trợ hạnh?
Cần phải thấy rằng, quan điểm về phóng sanh không phải là
một giáo thuyết đặc thù của riêng Phật giáo. Trong những tôn giáo song hành với
Phật giáo tại Ấn Độ thì Kỳ Na giáo (Jain), hay còn gọi là Ni Kiền Tử
(Nigantha), là một tôn giáo thoát ly ảnh hưởng của hệ thống kinh điển đồ sộ
Veda và cực lực cổ xúy cho lý thuyết bảo hộ sinh mạng. Tư tưởng nền tảng của Kỳ
Na giáo là chủ thuyết bất hại (Ahimsa), không được phương hại bất cứ sinh vật
nào và nỗ lực bảo hộ sinh mạng của vạn vật đến mức có thể. Thậm chí, khi đi
lại, các hành giả của phái này phải sử dụng một cái chổi để quét trước mỗi bước
đi vì sợ giẫm chết các loài sinh vật nhỏ nhít. Trong kinh Ưu-ba-li(12), Đức Phật đã khéo léo minh giải sự bất
toàn từ luận điểm này của giáo phái Ni Kiền Tử, vì theo Đức Phật, dù nỗ lực hết
sức, cũng khó có thể tránh khỏi việc giẫm đạp lên vô số sinh linh nhỏ bé trong
nhịp sống hành hoạt đời thường. Với Đức Phật, lý lẽ nền tảng cho quan điểm sát
hại hay không sát hại chúng sanh căn cứ vào sự tác ý (Cetana) của con
người. Hơn thế nữa, trong kinh Tương ưng, Đức Phật còn khẳng định bổ
sung: Danh phải tương xứng người/ Người phải là bất hại!/ Ai với thân,
miệng, ý/ Không làm hại một ai/ Ai không hại người khác/ Người ấy thật bất hại(13).
Tôn tượng khai tổ Ni Kiền Tử tại Sarnath, Varanasi, Ấn độ. Ảnh: Chúc Phú
Đọc lại sự khẳng định của giáo trưởng Ni Kiền Tử (Nigantha
Nataputta) được ghi lại trong kinh Trường bộ, đủ thấy thiết chế đó khắc
nghiệt như thế nào: “Một người Nigantha (Ni Kiền Tử) sống chế ngự bởi bốn loại
cấm giới. Này Ðại vương, thế nào là một người Nigantha sống chế ngự bởi bốn
loại cấm giới? Này Ðại vương, một Nigantha sống gìn giữ đối với tất cả loại
nước, gìn giữ đối với mọi ác pháp, sống tẩy sạch tất cả ác pháp và sống với ý
chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp”(14).
Theo chủ thuyết của giáo phái này, chỉ có hành khổ hạnh đến mức khốc liệt, hoàn
toàn vô sở hữu, ngửa tay xin ăn, hạn chế hoặc thậm chí không mặc gì cả và ngưng
tạo nghiệp ác trong hiện tại, mới có thể đem
đến hạnh phúc, giải thoát (moksa) cho người. Theo kinh Sa môn quả, chủ
thuyết của giáo phái này vẫn không thỏa mãn thú hướng tâm linh của vua
Ajatasattu, để cuối cùng nhà vua đã đến với Đức Phật và được khai thị.
Có thể nói, về phương diện đạo đức thực hành, cùng với tư
tưởng bất hại (Ahimsa), quan điểm ăn chay được Kỳ Na giáo đẩy lên ở mức cao
nhất. Và như vậy, cả hai điều này đã đồng thời xác tín việc bảo hộ sinh linh mà
nghĩa tích cực là phóng sanh, là một pháp hành chính yếu trong phương pháp tu
tập của trường phái mình.
Theo quan điểm của Phật giáo, trong phẩm hạnh của một vị
Tỳ-kheo hành trì giới luật thì nguyên tắc không sát sanh chủ yếu nhấn
mạnh về cấm giới: không sát hại, không làm thương tổn người (thuộc nhóm
Parajika). Việc thực thi nguyên tắc này còn được bổ sung thêm chuẩn mực tôn trọng
sự sống đến mức có thể như: Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống và các
loại cây cỏ(15), thậm chí ngay như
phải hủy bỏ thức ăn thì cũng phải để ở nơi không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống
chỗ nước không có chúng sanh trong ấy(16).
Trong giáo điển nguyên thủy, Đức Phật chưa từng nhấn mạnh
cấm giới này quan trọng hơn các cấm giới khác ở trong nhóm Parajika. Vì sự
thành tựu giới hạnh nói chung là vị Thánh đệ tử có giới hạnh, sống chế ngự
với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy
hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học các học pháp. Này Mahanama,
như vậy là vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh(17).
Cho nên việc bảo hộ sinh mạng chúng sanh, hoặc nghiêng về nghĩa phóng sanh,
cũng chỉ là trợ hạnh, là một thiện pháp cũng như bao thiện pháp khác, cần phải
kiện toàn trên bước đường tu tập.
Trên bước đường phát
triển, đã có nhiều phân phái Phật giáo xuất hiện, định hình. Tùy theo chủ
thuyết khai tông lập phái mà có sự khinh trọng về pháp môn tu cũng như các pháp
hành, ứng xử đạo đức. Trong các kinh điển phát triển đề cập chi tiết đến hạnh
phóng sanh, đó là kinh Kim Quang Minh(18)
kinh Phạm Võng(19), kinh Dược
Sư(20) và một vài kinh, luận khác.
Chi tiết Trưởng giả Tử Lưu Thủy cứu đàn cá trong kinh Kim Quang Minh(21) đã trở thành biểu tượng phổ biến cho hạnh
phóng sanh theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Đặc biệt, truyền thống này
được cổ vũ bởi những vị vua thâm tín và ủng hộ Phật giáo như các sắc dụ trên
những trụ đá của vua Ashoka(22), các
biến văn của Lương Vũ Đế(23), các Phóng
sanh trì của Tống Chân Tông… để cuối cùng hạnh phóng sanh trong Phật giáo
nói chung và Phật giáo Bắc truyền nói riêng, phần lớn khu biệt vào công cuộc
giải cứu các loài thủy tộc, chim muông và mục đích phóng sanh nghiêng về xu thế
cầu phước, trường thọ(24), giải nghiệp,
cầu an.
Mối quan hệ giữa
phóng sanh và nghiệp quả
Sự vận hành của dòng chảy nghiệp lực rối rắm như một tổ
kén. Tính chất đặc thù này được Đức Phật khái quát như sau: Này
Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh
hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja
và lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh
tử(25). Hình ảnh sinh động đó được Đức Phật nêu dẫn
nhiều lần trong kinh để nhằm minh giải rằng, khó có thể nhận ra đâu là điểm
khởi đầu hay kết thúc của một chu trình sinh mệnh. Do vậy, tất cả mọi sự tác
động, ảnh hưởng đến chu trình sinh mệnh đều phải có sự cân nhắc và cẩn trọng
đến mức tối đa. Phóng sanh là hành động can thiệp trực tiếp đến chu trình này.
Mặt khác, xuất phát từ
quan điểm mỗi chúng sanh đều bình đẳng trên phương diện nghiệp lực của chính
họ, đã cho thấy rằng, mọi sự tác động nhằm thay đổi nghiệp nhân căn bản đã gây
tạo trước đó là bế tắc, là bất khả. Đó cũng là nỗi khắc khoải của ngài Mục Kiền
Liên khi đã cố sức thi triển thần thông để bảo hộ dòng tộc Thích Ca(26); và đây cũng là tâm niệm khi ngài Mục
Kiền Liên phó mặc thân thể để cho tên cướp đập nát xương Tôn giả ra, bắt
chịu thứ cực hình gọi là “rơm và bột”(27),
và cuối cùng, ngài an nhiên xả báo thân trước lẽ công minh của ân đền, oán
trả. Ngay cả bậc đại dũng mãnh như Angulimala, nhưng khi nhận ra oan nợ tiền
khiên đến thời đã chín thì cũng phải bị lỗ đầu, chảy máu, bình bát bị bể,
ngoại y bị rách (28). Câu chuyện về “Trư
hòa thượng”(29) mà Ni sư Trí Hải
phỏng dịch là một mô tả sinh động về trường hợp này. Chuyện kể rằng, chùa có
nuôi một con heo, trước lúc đi xa, Hòa thượng trụ trì - là người đắc đạo - đã
dặn dò đại chúng khi heo chết thì cứ cho dân làng xử lý như lệ thường. Thế
nhưng, do tình thương của những người chưa liễu ngộ nên đem heo đi chôn, để
cuối cùng sinh thể đó phải thác sanh thêm một lần nữa để trả định nghiệp(30) “loạn đao phanh thây”. Có thể nói,
sự nghiêm minh và sáng tỏ của luật Nhân quả đã cho thấy rằng những cố gắng nhằm
thay đổi nghiệp quả được thể hiện ở việc bảo hộ sinh mạng, là hành động phóng
sinh, chỉ là những nỗ lực ở phần ngọn, chưa mang tính căn cơ.
Đức Phật không thể tự
tay mình đưa ai lên thiên giới cũng như đày ai xuống địa ngục khổ đau. Sự thanh
cao hay đọa lạc của một cá nhân đều do chính bởi sự nỗ lực của mỗi cá nhân đó.
Một hành động can thiệp thô bạo đến hoàn cảnh sống, đến mục tiêu chuyển hóa
nghiệp lực của một chúng sanh, nhưng nếu như không có một sự cân nhắc của lý
trí, của trí tuệ thì đôi khi đem đến một kết cục thảm hại. Hành động đó ví như
nỗ lực phá tan lồng sắt để giải thoát cho những con chim. Ý nghĩa giải thoát
đâu chưa thấy, chỉ thấy những con chim bị giam hãm lâu ngày nên không thể bay
được, đã trở thành miếng mồi ngon cho chú mèo hoang dại. Do bởi lẽ đó, Đức Phật
luôn cân nhắc về hành xứ của các loài hữu tình(31). Trong hành xứ của mình, bao giờ cũng
bình an và an toàn cả, kể cả người xuất gia. Phóng sanh, tức phải đưa chúng
sanh về đúng hành xứ của chúng. Cần phải nhận thức đúng và đầy đủ về điều này
trước khi chuẩn bị thực hiện hạnh nguyện phóng sanh.
Trầm tư về vấn đề
phóng sanh trong thời đại ngày nay
Với những thành tựu vượt bậc của các ngành khoa học kỹ
thuật được áp dụng trong một số lãnh vực như gieo trồng và chăn nuôi, hơn bao
giờ hết, đã có nhiều giống, loài được sản sinh, gia tăng về quy mô và chất
lượng nhằm mục đích phục vụ cho sở dục đa dạng của con người. Bên cạnh đó, sự
thu hẹp môi trường tự nhiên đã làm cho một số giống loài khác có nguy cơ tuyệt
chủng. Sự mất cân bằng sinh thái mà nguyên nhân chính yếu cũng do bởi sự can
thiệp mạnh bạo của con người.
Từ đây có thể thấy, đã có một số giống loài xuất hiện,
sinh sôi trong môi trường nhân tạo và có một số giống loài khác có nguy cơ
tuyệt chủng trong môi trường tự nhiên. Nhận thức đúng về thực trạng này không
chỉ là yêu cầu bắt buộc của những nhà làm công tác nghiên cứu khoa học mà còn
là việc cần làm của những ai mang tâm nguyện chia sẻ thương yêu, mở rộng sự
sống. Từ thực trạng này, soi rọi vào hạnh phóng sanh, thì yêu cầu trước tiên là
phải xác định rõ về bản chất của các chủng loại sinh vật và môi trường sống
thích hợp của chúng, để từ đó có thái độ ứng xử phù hợp.
Cụ thể, với các loại thủy tộc và gia cầm được
nuôi cấy và chăm sóc theo phương sách của khoa học kỹ thuật hiện nay thì không
thể tồn tại trong môi trường tự nhiên. Đưa chúng ra môi trường tự nhiên cũng
đồng nghĩa với hành động chấm dứt mạng sống trước kỳ hạn của chúng. Cũng cần
nói thêm rằng, kỳ hạn thọ mạng của một số giống loài hoàn toàn khác biệt nhau.
Một ngày được sống thêm của cua cá, gia cầm, chim muông có thể là vài tháng,
vài năm so với tuổi thọ của con người. Được sống thêm một ngày quả là khát vọng
cháy bỏng không chỉ dành riêng cho con người. Có thể, chặng cuối của con đường
được con người nuôi dưỡng trong các trang trại vẫn là bất lạc, là khổ đau;
nhưng ít ra trong khoảng thời gian được sống trong sự chăm sóc đó, sinh vật vẫn
được bảo đảm an toàn về tất cả các mặt. Với sinh vật nói chung, theo thiển kiến
của người viết, có thể khát vọng giữa tự do và được cung cấp vật thực không
giống như thụ cảm chủ quan của con người. Cho nên, việc phóng sanh đúng nghĩa ở
đây cần được hiểu là phải bảo đảm các điều kiện sống cho các giống loài được
phóng sanh. Đơn cử một ví dụ, mua cá từ trang trại để phóng sanh thì nên mua
tất cả những trang thiết bị, vật thực, người chăm sóc, môi trường nước… cùng
những điều kiện sống liên quan. Vì chỉ có như vậy thì sinh mạng của chúng sanh
được phóng thích được đảm bào và hạnh phóng sanh mới đúng và đủ nghĩa hoàn
toàn.
Từ thực tế việc phóng sanh hiện nay phần lớn chỉ chú trọng
vào việc phóng thích sinh mạng của chúng sanh, đôi khi, người phóng sanh chỉ
quan tâm đến số lượng sinh mạng mà không đảm bảo các điều kiện sống kèm theo,
nên đã tạo ra những thảm trạng đau khổ cho một số giống loài. Theo cảnh báo của
Hiệp hội Môi trường và Động vật tại Đài Loan, hàng năm có hàng chục
triệu loài sinh vật bị chết, môi trường sống của sinh vật bị đảo lộn do hoạt
động phóng sanh đang được khuyến khích và diễn ra rầm rộ tại khu vực nảy. Dự
kiến, họ sẽ đề nghị chính phủ ban hành đạo luật cấm phóng sanh(32). Nếu nói theo kinh điển, thì sở dĩ thảm
trạng này diễn ra là do người phóng sanh nhận thức sai về hành xứ của các
loài hữu tình(33). Hành xứ ở
đây cần được hiểu là điều kiện sống. Phóng sanh không đảm bảo hành xứ
đồng nghĩa với việc sát hại chúng sanh.
Chư Tăng và phật tử Hoa kỳ phóng thích tôm hùm. Ảnh Reuters
Trên bình diện
ngược lại, sự cạnh tranh khốc liệt của các giống loài trong môi trường tự nhiên
biểu hiện ở chỗ: sự hiện hữu của một giống loài này đôi khi kéo theo sự chấm
dứt sinh mạng của một vài giống loài khác. Đôi khi phóng thích một sinh vật ra
môi trường tự nhiên nhưng không có sự thẩm sát cần thiết của kiến thức chuyên
môn thì dễ dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái nhân tạo, mà nghĩa đen được
hiểu ở đây, là sự chấm dứt mạng sống của chính nó hoặc của nhiều giống loài có
ích khác. Câu chuyện siết chặt quản lý về ốc bươu vàng, về rùa tai đỏ(34) không chỉ liên quan đến việc giữ cân
bằng cho môi trường sinh thái mà còn có liên hệ sâu xa đến ý nghĩa bảo hộ sinh
linh. Trong liên hệ so sánh thì hành động phóng thích những sinh vật gây nguy
hiểm cho những sinh vật khác cũng giống như hành động phóng thích các loài hổ,
báo vào chỗ đông người. Làm bất cứ việc gì mà việc đó có khả năng gây nguy hại
kẻ khác là điều mà giáo điển nhà Phật khuyến khích không nên làm.
Trên một bình diện khác, câu chuyện từ hãng Reuters ngày
4-8-2011 tường thuật, một nhóm Phật tử người Mỹ ở Massachusetts đã phóng thích
534 con tôm hùm ra biển khơi(35); gần
hơn là chuyện Đại đức Thích Thiện Quý, trụ trì chùa Tâm Thành, Đồng Tháp, đã tổ
chức phóng sanh động vật hoang dã ở Tràm Chim trên GNO(36), là những thông tin thiết thực về việc
phóng sanh có cân nhắc về hành xứ của loài hữu tình. Đây là những dạng
thức phóng sanh đúng nghĩa và cần được nhân rộng.
Căn cứ theo kinh
điển Phật dạy, một tư duy không đúng dễ dàng kéo theo một nghiệp bất thiện. Từ
nghiệp bất thiện ban đầu này làm cơ sở để xuất sanh nhiều nghiệp bất thiện khác
là việc không xa. Đó là lý do để hiểu tại sao ngày càng có nhiều nghề nghiệp
liên quan đến việc phóng sanh của con người. Bắt chim để chờ đợi kẻ phóng sanh,
nuôi cá để chờ người phóng thích… là những bất thiện nghiệp mới được nảy sinh
khi trợ hạnh phóng sanh được nâng lên thành xu thế, thành phong trào và thậm
chí một vài cá thể còn xem đó là hạnh tu. Trong liên hệ sâu xa của tương quan
nhân quả, do vì một thiện niệm vắng mặt tuệ giác mà cái ác, cái xấu phát khởi,
thì khổ quả là điều tất định mà cá nhân đó phải gánh chịu ở tương lai.
Cần phải thấy, cuộc đời cần lắm tình thương và hạnh phóng
sanh chỉ là một trong những cách thức làm cho tình thương hiện hữu trong cuộc
đời. Tình thương không thôi thì vẫn chưa đủ mà đòi hỏi phải có nhận thức đúng
về hiện thực, về chuyên môn để định hướng cho tình thương.
Đến với chân lý không phải
chỉ có một con đường. Cần phải vận dụng nhiều con đường, nhiều phương tiện phù
hợp với sức lực, hoàn cảnh, điều kiện… để hành trình đi đến chân lý không tiêu
tốn quá nhiều thời gian, sức lực, đau khổ và hy sinh.
Chú thích
(1)
Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Lõa thể, kinh Sát sanh.
(2)
Kinh Trung bộ, tập 1, Đại kinh sư tử hống, số 12.
(3)
Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Nghĩ như thế nào, số 103.
(4)
Kinh Tiểu bộ, tập 4, Chuyện tiền thân Đức Phật, chuyện Con cá, số
34
(5)
Kinh Tiểu bộ, Kinh Phật tự thuyết, chương Năm, phẩm Trưởng lão
Sona.
(6)
Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Hình phạt, câu 130.
(7)
Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Sa môn quả, số 2.
(8)
Kinh Tương ưng, tập V, tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh
Những người ở Veludvara.
(9)
Kinh Trường bộ, kinh Sa môn quả, số 2.
(10)
Kinh Tiểu bộ, Trưởng lão Tăng kệ, chương XII, phẩm XII kệ, ngài
Sunita.
(11)
Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Kẻ bần tiện.
(12)
Kinh Trung bộ, kinh Ưu-ba-li, số 56.
(13)
Kinh Tương ưng, tập 1, chương 7, tương ưng bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ
nhất, kinh Bất hại - Ahimsaka.
(14)
Kinh Trường bộ, kinh Sa môn quả, số 2.
(15)
Kinh đã dẫn.
(16)
Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Thừa tự pháp, số 3.
(17)
Kinh Trung bộ, kinh Hữu học, số 53.
(18)
Kim quang minh kinh tối thắng vương kinh, Đại chính tân tu Đại tạng
kinh, tập 16, từ trang 403 - 456.
(19)
Xem thêm: Bồ-tát giới Phạm võng, Hòa thượng Trí Quang, dịch, tiết 2, Nói về
giới điều của Bồ-tát giới Phạm võng.
(20)
Nguyên văn: Này
A Nan,… phóng sanh các loài vật, rải hoa đủ sắc, đốt các
thứ danh hương để cúng dường Đức Phật Dược Sư, sẽ được lành bệnh và thoát khỏi
các tai nạn.
(21)
Kinh Ánh sáng hoàng kim, Tỳ-kheo Trí Quang, dịch, NXB.
Tổng Hợp TP. HCM, 2011, từ trang 738 - 760
(22)
Bi ký số 4, Nguyên văn: Vua Piyadasi cổ xúy việc khống chế sát hại sinh thú,
Bia ký Girnar, ban vào năm 257 TTL, bản dịch của Trần Trúc Lâm.
(23)
Xem thêm, Vương Chí Bình, Các đế vương với Phật giáo, Đào Nam Thắng,
dịch, Lê Đức Niệm hiệu đính, phần 2, Lương Vũ Đế bỏ đạo theo Phật, Đoạn tửu
nhục văn.
(24)
Xem thêm, Kinh Ánh sáng hoàng kim, Tỳ-kheo Trí Quang, dịch, NXB. Tổng
Hợp TP. HCM, 2011, tr.78. Xem thêm kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân
biệt, Nguyên văn: Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức
là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng
từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
(25)
Kinh Trường bộ, Kinh Đại duyên,
số 15.
(26)
Kinh Tăng nhất a hàm, phẩm Đẳng kiến. Bản dich của Hòa thượng Thích
Thanh Từ.
(27)
Kinh Tiểu bộ, tập 9, Chuyện tiền thân Đức Phật, phẩm Bốn mươi bài kệ,
chuyện số 522, chuyện Đại nhân thiện xạ Sarabhanga. Câu chuyện
này bậc Đạo Sư trong lúc trú tại Trúc Lâm về sự diệt độ của Tôn giả Trưởng lão
Mahàmoggallàna (Đại Mục Kiền Liên).
(28)
Kinh Trung bộ, kinh Angulimala, số 86.
(29)
Thích nữ Trí Hải, Đường vào nội tâm, phần VII, Trư hòa thượng.
(30)
Xem thêm, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Định nghiệp trong Phật giáo.
(31)
Kinh Tương ưng, tập V, Thiên đại phẩm, chương 3, Tương ưng niệm xứ, phần
a, phẩm Ambapali, kinh Con chim ưng.
(32)
Xem thêm, Đài Loan sắp ban hành luật phóng sanh.
GNO, ngày 14.5.2012.
(33)
Kinh Tương ưng, tập V, Thiên đại phẩm, chương 3, Tương ưng niệm xứ, phần
a, phẩm Ambapali, kinh Con chim ưng
(34)
Những sinh vật gây nguy hại về môi trường sống cho những sinh vật khác.
(35)
http://www.reuters.com/article/2011/08/04/us-buddhists-lobsters-idUSTRE7734L520110804
(36)http://www.giacngo.vn/bandoctoasoan/bandoc/2012/06/02/12C21B/