Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam
truyền, thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ. Ở
đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt sơ lược nội dung bài kinh.
Evam me sutam: Ekam samayam Bhagavā Sāvatthiyam viharati Jetavane Anāthapindikassa ārāme.
Tôi được nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn Gần nơi thành Xá vệ, Tại Kỳ viên tinh xá Của ngài Cấp-Cô-Độc.
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavannā kevalakappam Jetavanam obhāsetvā yena Bhagavā tenupasankami upasankamitvā Bhagavantam abhivādetvā ekamantam atthāsi.
Vào hạ tuần canh đêm, Vị thiên tử hiện ra, Với hào quang rực rỡ, Chiếu sáng cả Kỳ viên, Đến nơi đức Phật ngự, Đảnh lễ đức Thế Tôn, Rồi đứng sang một bên.
Ekamantam thitā kho sā devatā Bhagavantam gāthāya ajjabhāsi:
Sau khi đã đứng yên, Vị ấy bạch Thế Tôn, Bằng lời kệ như sau:
Bahū devā manussā ca, Mangalāni acintayum, Ākankhamānā sotthānam, Brūhi mangalam uttamam.
Chư thiên nhân thao thức, Muốn biết về điềm lành, Ðể sống đời an lạc, Xin Thế Tôn chỉ dạy.
(Đức Phật trả lời:) Asevanā ca bālānam, Panditānañca sevanā, Pūjā ca pūjanīyānam, Etam mangalam uttamam.
Không gần kẻ ngu si, Thân cận người hiền trí, Cúng dường bậc xứng đáng, Là điềm lành tối thượng.
Đầu
tiên là 3 điềm lành: tránh xa kẻ ngu (bāla), thân cận người hiền trí,
thiện tri thức (pandita), cúng dường (pūjā) những bậc xứng đáng được
cúng dường. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Người ngu ở đây là người
không biết phân biệt thiện ác và có khuynh hướng theo các điều xấu ác.
Bậc trí hiền là những người có đạo đức, tinh cần học và hành trong giáo
pháp. Tôn kính và dâng tặng phẩm vật đến các bậc tôn túc, phẩm hạnh
thanh cao là một điều quý nên làm.
Patirūpadesavāso ca, Pubbe ca katapuññatā, Attasammāpanidhi ca, Etam mangalam uttamam.
Ở trú xứ thích hợp, Quá khứ tạo nhân lành, Hướng tâm theo lẽ chánh, Là điềm lành tối thượng.
Có 3 điềm lành:
-
Trú xứ (desa) thích hợp (patirūpa) là những nơi có môi trường văn hóa
xã hội tốt cho sự tu tập. Ở bầu thì dài, ở ống thì tròn. Chúng ta thường
bị tác động bởi hoàn cảnh xã hội. Ở những nơi chỉ chuộng hình thức hào
nhoáng bên ngoài, hưởng thụ vật chất, chạy theo nhu cầu dục lạc, lễ nghi
rườm rà, chuộng các lời hoa mỹ rỗng tuếch thì cũng khó tu tập.
-
Nếu trong quá khứ của đời này, hay trong các đời trước, đã tạo các công
đức (katapuññatā), nay, quả phước lành sẽ được gặt hái trong hiện tại.
Đây là một điềm lành. Bằng không, hãy nỗ lực làm việc thiện, để tạo nhân
lành cho tương lai.
- Một điềm lành khác là tâm ta có định hướng
chân chánh, đúng đắn (sammāpanidhi), hiệp theo lẽ đạo. Đây là điều quan
trọng, phải có tác ý đúng.
Bāhu-saccañca sippañca, Vinayo ca susikkhito, Subhāsitā ca yā vācā, Etam mangalam uttamam.
Học nhiều, nghề nghiệp giỏi, Giới luật biết tu tập, Có những lời khéo nói, Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành ở đây: được học và có nhiều hiểu biết (bāhu-saccam), có
nghề nghiệp tốt (sippam), biết hành trì các nguyên tắc giới luật đạo đức
(vinayo), và biết dùng ngôn từ hòa ái, chân thật.
Mātāpitu upatthānam, Puttadārassa sangaho, Anākulā ca kammatā, Etam mangalam uttamam.
Hiếu dưỡng mẹ và cha, Biết nuôi nấng vợ con. Việc làm không xung khắc, Là điềm lành tối thượng.
Có
3 điềm lành: phụng dưỡng cha mẹ (mātāpitu), nuôi nấng gia đình
(puttadārassa), có công việc làm không gây xung đột (anākulā) với người
khác.
Dānañca dhammacariyā ca, Ñātakānañca sangaho, Anavajjāni kammāni, Etam mangalam uttamam.
Bố thí, hành đúng pháp, Giúp quyến thuộc họ hàng, Hành xử không tỳ vết, Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành: có lòng bố thí rộng rãi (dānā), có phẩm hạnh trong sạch
theo giáo pháp (dhammacariyā), biết giúp đỡ bà con họ hàng (ñātakā), có
những hành động giao tiếp trong sạch, không bị chê trách (anavajjā).
Āratī viratī pāpā, Majjapānā ca saññamo, Appamādo ca dhammesu, Etam mangalam uttamam.
Ghê sợ, tránh điều ác Không nghiện ngập rượu chè, Tinh tấn hành thiện pháp, Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành: biết ghê sợ (āratī) tội lỗi, biết tránh xa (viratī) tội
lỗi (viratī pāpā), không rượu chè say sưa làm u mê (majjapānā), tinh tấn
(appamādo) làm các điều lành, thiện pháp (dhammesu).
Gāravo ca nivāto ca, Santutthī ca kataññutā, Kālena dhammassavanam, Etam mangalam uttamam.
Sống lễ độ, khiêm cung, Tri túc và tri ân, Đúng thời, nghe giảng Pháp, Là điềm lành tối thượng.
Có
5 điềm lành: thái độ lễ phép có văn hóa (gāravo), tính khiêm hạ
(nivāto), biết sống đủ, tri túc (santutthī), biết nhớ ơn, tri ân
(kataññutā), và biết đến nghe Pháp (dhammassavanam) đúng thời, đúng lúc
(kālena).
Khantī ca sovacassatā, Samanānañca dassanam, Kālena dhammasākacchā, Etam mangalam uttamam.
Kham nhẫn, biết phục thiện, Thường đến gặp Sa-môn, Ðúng thời, đàm luận Pháp, Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành: biết kiên nhẫn (khantī) và chịu đựng, biết phục thiện dễ
dạy (sovacassatā), thường thân cận các bậc tu hành (samana), và đàm
luận, trao đổi học Pháp (dhammasākacchā).
Tapo ca brahmacariyañca, Ariyasaccāna dassanam, Nibbāna sacchikiriyā ca, Etam mangalam uttamam.
Tự chế, sống phạm hạnh, Thấy chân lý nhiệm mầu. Thực chứng quả Niết Bàn Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành: sống tinh cần tự chế (tapo), sống đời sống phạm hạnh
(brahmacariya), thẩm thấu chân lý nhiệm mầu (ariyasaccā) – tức là Tứ
thánh đế, thực chứng Niết bàn (nibbāna sacchikiriyā).
Phutthassa lokadhammehi, Cittam yassa na kampati, Asokam virajam khemam, Etam mangalam uttamam.
Khi xúc chạm việc đời, Tâm không động, không sầu, An nhiên, không uế não, Là điềm lành tối thượng.
Có
4 điềm lành: Tâm bất động, không lay chuyển khi bị gió đời hay pháp thế
gian (lokadhamma) – khen chê, được mất, vinh nhục, buồn vui – thổi đến.
Ba điềm lành khác: không còn sầu não (asoka), sống an nhiên (khema),
không còn uế nhiễm (virajam).
Etādisāni katvāna, Sabbatthamaparājitā, Sabbattha sotthim gacchanti, Tantesam mangalam uttaman’ti.
Ai sống được như thế, Đến đâu không thối thất, Đến đâu cũng an toàn, Những điềm lành tối thượng.
Được
như thế là đã nhập dòng thánh giải thoát. Khi ấy, cho dù sống trong
dòng đời, đi đến đâu cũng không bao giờ bị tham sân si đánh bại
(sabbattha aparājitā), đi đến đâu cũng bình an tự tại, an toàn
(sabbattha sotthim gacchanti). Đó là điềm lành cao quý nhất.
*
Trong 11 câu kệ trên, Đức Phật đã đưa ra
một bản hướng dẫn tổng quát cho người cư sĩ Phật tử, như là một cẩm
nang tu học. Đầu tiên, người ấy phải biết tránh xa người ngu ác, chỉ
biết chạy theo cám dỗ của ngũ dục. Phải biết thân cận bậc thiện tri thức
để học hỏi, phải biết cung kính bậc tôn kính. Người ấy phải biết chọn
nơi thích hợp để sinh sống, và biết tạo nhân lành để có phước báu tương
lai. Phải biết hướng tâm theo đường chánh, học rộng và có tay nghề giỏi,
có việc làm không gây tranh chấp, xung đột với người khác.
Trong
gia đình, người ấy phải biết phụng dưỡng cha mẹ, nuôi nấng vợ con, giúp
đỡ quyến thuộc. Người ấy phải có lòng bố thí rộng rãi, tinh tấn giữ
giới, không nghiện ngập say sưa, biết ghê sợ và tránh xa các điều tội
lỗi. Người ấy có những hành động thiện lành, không bị chê cười, có những
lời nói khéo léo, hòa ái.
Trong tiến trình tu học, người ấy
phải biết lễ độ, khiêm tốn, không cống cao ngã mạn. Phải biết sống tri
túc và lúc nào cũng có lòng biết ơn những người đã giúp, đã chỉ dạy
mình. Người ấy phải sẵn sàng nghe và sửa đổi tâm tánh mình. Lúc nào cũng
tinh tấn học và hành theo giáo pháp, gần gũi các bậc tu hành có đức
hạnh cao quý.
Sống tự chế, tỉnh giác, có giới đức tốt, người ấy
nỗ lực để thấu đạt và thực chứng chân lý nhiệm mầu – tức là Tứ Diệu Đế,
để nhập dòng thánh giải thoát, chứng đắc Niết bàn. Nếu được như thế,
người ấy sống an nhiên tự tại, không xao động bởi các pháp thế gian. Đi
đến đâu cũng an vui, ở nơi nào cũng không bao giờ bị tham sân si áp chế.
Đó là phước lành cao thượng nhất trên đời.
Theo lời Hòa thượng Narada trong quyển Đức Phật và Phật Pháp:
Bài
kinh nổi tiếng nầy, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là
một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho
cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phước đức trong bài đó là một hướng
dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là "lánh xa kẻ xấu ác" vốn căn bản
cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phước Ðức đưa đến thành
tựu một tâm ý vô tham, vô úy an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong
bài kệ là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ
của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại.
Bình Anson Perth, Tây Úc, tháng 08-2011 |