Làng tôi cũng như bao làng, có ngôi chùa nhỏ bốn mùa hương khói. Lối
vào có cái ao trồng hoa súng. Quanh chùa cây cối sum sê. Chùa rất rêu
phong cổ kính. Mái ngói cong cong. Nóc chùa có đắp rồng chầu nguyệt.
Trên đỉnh có bảng chữ nho ghi ba chữ: "Trúc Lâm Tự". Trong chùa ngoài
đức Phật, đức Ông, đức thánh Trần… còn có thờ một vị nữ thánh không nơi
nào có. Dân làng vẫn gọi là đức Thánh Bà. Trong chùa có đến hai tượng
đức Thánh Bà (nguyên nhân việc này sẽ nói ở dưới). Nhưng hỏi đấy là ai
thì không ai biết cả. Chỉ có truyền thuyết về đức Thánh Bà người người
đều nhớ.
Nguyên xưa kia trời làm lụt lội (quê tôi gần sông Hồng), sóng nước
mênh mông, có cây gỗ lớn trôi… ngược dòng! Một người đàn bà làng Sại
(tức làng tôi) và một người đàn ông làng Chiệc (cách làng tôi vài dặm)
vớt được, kéo vào bãi đất rộng, gọi là bãi Hạ Mã thì cây gỗ gãy làm
đôi. Người đàn ông làng Chiệc mang nửa gốc về làng tạc tượng đức Thánh
Ông, còn người đàn bà làng Sại mang nửa ngọn về tạc tượng đức Thánh Bà,
đều để thờ ở chùa làng mình. Vì cùng sinh ra từ một gốc, nên hai làng
là anh em. Trai gái hai làng không bao giờ lấy nhau. Cây gỗ ấy là gỗ
mít, vậy dân quê vẫn kiêng từ „mít”, quả mít thì gọi là quả „thơm”. Hai
tục lệ đến nay vẫn còn giữ được. Nhưng chuyện ấy xẩy ra tự bao giờ? Cha
tôi kể, ngày nhỏ có hỏi cụ tội. Cụ trả lời: „Không biết từ đời nào.
Tao xưa đã hỏi ông tao, nhưng ông tao cũng bảo thế”!
Đình chùa làng tôi tương đối cổ. Vữa xây vẫn còn làm theo phương
pháp cổ truyền, trộn đường mía với vôi, chứ chưa biết dùng xi măng. Tiếc
rằng ngày xưa chữ nghĩa chẳng có. Không ai ghi chép lại rõ ràng là xây
năm nào. Chỉ nghe các cụ kể, thời bấy giờ tiền nhân tôi làm lý trưởng.
Làng có một người họ Lê làm nghề buôn gỗ. Dân làng đặt mua gỗ của ông
xây đình. Xây đình xong vẫn thừa nhiều gỗ, họ Lê đem ra xây lại chùa.
Đến khi thanh toán, làng chỉ trả tiền gỗ xây đình, vì văn tự hợp đồng
chỉ viết thế. Họ Lê nhất định không chịu. "Muốn lấy lại gỗ thì ra mà
dỡ chùa" – dân làng lý sự. Nhưng chùa chiền xây rồi thì ai dám dỡ. Họ
Lê liền đi kiện. Thời xưa có câu "một đời kiện, ba đời thù". Họ Lê cuối
cùng thua kiện, phải bỏ làng mà chạy. Mãi đến tận đời cháu mới có một
chi hồi hương.
Tương truyền chùa làng tôi nổi tiếng là thiêng. Những năm hạn hán,
làng Chiệc và làng Sại anh em cầu mưa (thời ấy gọi là cầu đảo). Dân hai
làng rước Đức Thánh Ông và Đức Thánh Bà đến gò Hạ Mã ngày xưa cúng tế.
Sau đó thì trời bao giờ cũng đổ mưa. Các cụ kể rằng, có lần làng tôi
mưa như đổ nước, trong khi mấy làng vô phúc bên kia sông vẫn nắng chang
chang, được mỗi cái chân cầu vồng cắm xuống!
Một năm vỡ đường, nước ngập cả chùa. Có mấy đứa trẻ con đi mò cá, vào
chùa, trèo lên bệ ngồi nghỉ, rồi vô ý đánh đổ Đức Thánh Bà. Tượng trôi
ra sông, dạt vào làng bên. Thế là sinh ra tiếng đồn đại rằng làng Sại
có kẻ bê tượng quẳng ra sông. Thời ấy người Pháp đã sang ta. Đạo Thiên
Chúa đã tương đối thịnh hành. Làng Sại có một vài nhà nhà bỏ tín ngưỡng
của tổ tông, mang đức chúa Giê Xu về thờ. Người đứng đầu đạo gọi là
ông Trùm. Nhưng trên làng Chiệc có một người làm đến chức tuần phủ.
Được tin dưới "làng em" có kẻ bê bụt quẳng ra sông thì luận rằng: "Chỉ
có mấy thằng theo Giê Xu mới dám bê phật quẳng xuống sông, chứ ngoài ra
ai có gan làm việc đó". Liền nổi giận, dẫn lính tuần xuống làng Sại,
tìm ông Trùm đạo để đánh. Bắt được thủ phạm, trói lại, đánh gần chết rồi
thì hóa ra không phải thủ phạm. Quan tuần phủ bắt phải em ông Trùm.
Còn ông Trùm sợ quá, trốn biệt tăm tích. Sau này chết ở đâu cũng không
ai rõ. Làng từ đó hết đạo Thiên Chúa.
Lại kể đến việc tượng Đức Thánh Bà trôi sang làng bên cạnh. Dân ở đấy
vớt được thì không trả, mà mang ngay vào chùa làng mình thờ. Làng Sại
không đòi được, phải tạc tượng mới. Nhưng một thời gian sau, ở làng vớt
được tượng sinh ra toàn chuyện quái gở, người và súc vật chết dịch như
đổ tường, và tất nhiên cho rằng đấy là thánh vật. Liền đưa tượng đức
Thánh Bà vào khám rước trả. Họ sợ đến mức không dám lấy khám về, thành
thử đã không được thánh còn thiệt cả khám. Tham lam thần thánh đâu có
được. Chùa làng tôi có hai tượng đức Thánh Bà là vì thế.
Năm 1951, quê tôi gọi là Năm Cháy Làng. Bấy giờ Ta còn đánh nhau với
Tây. Cách làng tôi không xa, khoảng hơn một cây số theo đường chim bay,
có bốt của Tây. Một hôm có thằng lính dõng (người Việt thuộc quân đội
Pháp) lảng vảng vào làng. Các cụ kể rằng thực ra nó đi chim gái. Bấy
giờ có mấy ông Việt Minh phục kích bắn chết. Các ngài bắn chết kẻ địch
rồi rút chạy. Thế là một cuộc trả thù khủng khiếp giội xuống đầu lũ dân
đen vô tội. Đạn đại bác và súng cối bắn xối xả. Tiếp đó là quân Pháp
vào làng càn quét. Nhà cửa bị đốt sạch. Nhưng riêng đình chùa thì không
kẻ nào xâm phạm. Nhưng rất lạ lùng là không có ai chết. Và lạ nhất là
có một quả đạn súng cối đâm thủng tường sau chùa, găm vào bệ dưới chỗ
ông Bụt ngồi, nhưng không nổ. Dân chúng càng tin vào sự linh thiêng của
thần Phật.
Ảnh minh họa
Khi cách mạng thành công, nhân dân ta một lòng theo Đảng, Bác. Chính
quyền mới phát động phong trào chống mê tín dị đoan. Trong vùng đình
chùa miếu mạo bị phá hủy gần hết. Những ngôi còn lại biến thành kho
tàng, trường học, nhà mẫu giáo…. Chùa quê ngoại tôi bị đào đến tận chân
móng, tượng Phật lẳng cả xuống sông. Riêng đình chùa làng tôi vẫn trơ
trơ. Bởi vì thiêng như vậy thì mấy ông cách mạng theo chủ nghĩa vô thần
cũng khiếp sợ mà không dám động đến. Mãi sau này ngôi đình bị sụt mất
gian hậu cung. Được chính quyền bật đèn xanh, nhiều người ra phá lấy
gạch, ngói, gỗ, đá về dùng.
Năm phá đình ông nội tôi đã ốm nặng chỉ nằm trên giường, không đi lại
được. Nghe tin thì bảo con cháu rằng: "Đình chùa, nếu người ta bảo xây
thì xây, bảo đóng góp thì đóng góp. Còn bảo phá thì không đứa nào được
động đến". Vì thế gia đình tôi không ai can thiệp vào việc đó cả. Một
thời gian sau xảy ra nhiều việc lạ lùng. Mấy người tích cực nhất trong
việc phá đình đều chết bất đắc kỳ tử. Có người ung thư mà chết, có
người bị xe cán chết, có người tự nhiên mọc bướu ở cổ rồi chết, lại có
người vẫn khỏe mạnh, vừa sáng ra vẫn lừa vịt ngoài đồng, quá trưa đã
thấy bảo chết rồi, không rõ bệnh gì. Chẳng biết có phải họ bị thần thánh
vật hay không, nhưng người ta cứ nói thế. Những ai lấy của đình đều
khiếp đảm mà mang trả hết.
Năm 1982 nhà nước lại phát động phong trào chống mê tín dị đoan. Bọn
thày tướng, thày cúng, bói toán, nhẩy đồng… đều bị bắt giam hết. Chùa
làng Sại cũng trong danh sách phải phá. Cha tôi đi bộ đội về phục viên,
nhưng vì không có đảng viên, nên ở xã chỉ được làm đến trưởng ban văn
hóa (vẫn gọi đùa là ban "cờ đèn kèn trống"). Nhưng như vậy cũng là to
lắm rồi. Cha tôi là trưởng ban văn hóa duy nhất trong tỉnh không có
đảng. Là người trực tiếp chịu trách nhiệm phá chùa, nhưng cha tôi hết
lòng bảo vệ. Bọn cán bộ trên tỉnh, huyện về hạch sách thì cha tôi hoặc
tránh mặt, hoặc chống chế, hoặc tỏ cho họ hiểu sẽ làm việc này việc kia,
nhưng thực ra không làm…Chùa lại được tai qua nạn khỏi.
Thời thế thay đổi. Khoảng gần hai thập niên lại đây, nơi nơi đình
chùa miếu mạo đều được kiến thiết mở mang, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Đình làng tôi tất nhiên cũng được dân chúng góp công góp của khôi phục.
Bấy giờ tôi còn lưu lạc ở châu Âu, chưa thể về. Ông nội tôi đã mất.
Cha tôi vẫn còn hận với dân làng về việc phá đình, không nghe lời ông
tôi tham ra đóng góp. Dân chúng vì thế mà bàn tán. Cha tôi nghe tin, ra
đình tuyên bố: "Đình chùa làng này là do ông cha tôi xây nên. Các
người đã tự tiện phá đi thì phải tự xây lại. Không can hệ gì đến gia
đình tôi cả". Mọi người nghe nói đều im bặt. Đình xây lại có to hơn,
nhưng không được đẹp như xưa.
Tôi mãi vài năm sau mới được được hồi hương lần đầu. Ra chùa nhìn
cảnh vật vẫn như cũ thì lấy làm cảm động. Chỉ có đền Mẫu Liễu Hạnh mới
được xây thêm bên cạnh (nghe nói có nhẩy đồng). Trong chùa còn lập bàn
thờ chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa rất tiếc là đã quá ọp ẹp, rất cần được
tu sửa gấp. Tôi đã bàn với cha tôi: "Nhà mình nên công đức sửa sang lại
chùa". Cha tôi nói: "Việc ấy hãy thư thả". Lý do là vì chùa không có
sư. Những người trông nom chùa không được cả mười phần chu đáo. Ngoài
ra cha tôi không đồng ý với việc mang Mẫu Liễu Hạnh vào chùa. Muốn thờ
Mẫu Liễu Hạnh nên xây đền chỗ khác. Một là vì chùa làng từ xưa không bao
giờ có việc nhẩy đồng. Hai là theo truyền thuyết cũ - truyền thuyết
mới dường như đã bị bàn tay vô hình nào đó lược bớt – chúa Liễu Hạnh
thuộc loại giăng gió. Đem bà vào chùa ở với đức Phật Thích Ca sao cho
tiện? Thực ra việc ấy nhiều nơi đã làm, và không phải từ bây giờ. Âu
cũng là điểm kém tế nhị vậy.
Ngày tháng thoi đưa. Giả sử chùa được thần thánh linh thiêng che chở,
tránh được những cái ngu dốt của người đời thì cũng không cưỡng lại
được sự hủy hoại của thời gian. Cuối cùng thì chùa cũng sắp đổ. Kèo cột
bị mối mọt đục rỗng, phải lấy gỗ chống lại. Đương lúc dân làng lúng
túng thì đón được sư. Nữ thày là người tu hành từ Huế ra, gương mặt từ
bi hiền hậu, giọng nói dễ thương, tuổi còn rất trẻ. Bà con phấn khởi,
thi nhau đóng góp xây chùa. Cha tôi trong số ít người bách niên giai
lão nhất làng, lại còn cả hai ông bà, nên được mời ra đặt chân móng. Và
bắt đầu bằng việc xây lại ngôi nhà tổ đẹp đẽ khang trang. Nhưng dân quê
rất nghèo, đóng góp chỉ có hạn. Xây chưa xong, ngân quỹ đã cạn kiệt.
Đương tưởng phải bỏ công trình thì bỗng nhiên được một khoản tài trợ
đáng kể. Nguồn tài trợ ấy là do… gia đình tôi công đức.
Tết năm nay nhân dân phấn khởi. Nhà chùa làm lễ dâng sao giải hạn cho
cả làng. Tôi cũng về quê ăn Tết, nhưng hôm ấy không ra chùa. Chỉ nghe
nói sư phụ đặt gia đình tôi lên đầu danh sách. Không muốn thiên hạ nghị
dị, tôi bảo mẹ tôi phiền sư phụ đưa tên họ gia đình tôi xuống phía
dưới. "Nhà mình công đức không phải vì cái danh kiểu ấy. Công đức là
công đức chứ không cần cầu khẩn đổi lại bất cứ điều gì" – tôi nói. Mẹ
tôi lên chùa về, bảo đã nhờ sư phụ việc ấy. Sư phụ gật đầu đồng ý.
Nhưng hôm sau nghe nói sư phụ vẫn cứ đọc nhà tôi đầu tiên. Nếu vậy thì
cũng là hết nhẽ.
Tôi xa quê từ năm mười bốn tuổi và càng ngày càng xa. Giờ thì mái tóc
đã điểm sương. Thỉnh thoảng về thăm quê, lũ trẻ mới lớn không biết là
người làng. Quê hương đã hoàn toàn thay đổi. Cuộc sống khấm khá hơn.
Nhưng dòng sông quê hương ô nhiễm, cánh cò xưa không thấy, lũy tre xanh
cũng chẳng còn. Chỉ có cảnh chùa là còn vướng vất một chút ít hình
bóng quê hương của thời thơ ấu.
Trương Đình Toe