Từ điển Làng Mai
định nghĩa: Chánh niệm là năng lượng giúp ta có mặt thật sự trong giây
phút hiện tại và nhận diện được những gì đang xảy ra tại đây, trong giây
phút ấy. Năng lượng này nếu được duy trì sẽ làm phát sinh ra năng lượng
chuyên chú, tập trung của tâm ý vào một đối tượng được lựa chọn, gọi là
chánh định. Năng lượng chánh định nếu đủ hùng hậu sẽ giúp ta khám phá
được thực chất của đối tượng. Có được năng lượng chánh niệm ta thật sự
có mặt trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày và sống được sâu sắc
những giây phút ấy. Chánh niệm giúp ta tiếp xúc được với những gì mầu
nhiệm trong ta và xung quanh ta, những gì có khả năng nuôi dưỡng, trị
liệu và chuyển hóa tâm thức. Cho nên có thể nói, chánh niệm là trái tim
của thiền tập.
Hầu như ai cũng nhận thấy tình yêu và nỗi đau là
hai mặt của một thực thể. Ballev cho rằng: “Tình yêu là nguồn vui ngọt
ngào nhất và là sự thống khổ dã man nhất”. J. Chardonnes nhận thấy: “Chỉ
có người ta yêu nhất mới có thể làm ta đau khổ nhất”. Thậm chí, Homere
khẳng định: “Thương yêu càng nhiều thì thù oán càng sâu”. Phải chăng,
trong tình yêu, vẫn còn một cái gì đó “trục trặc”, một cái gì đó chưa
thực đúng để cả hai có thể nếm trải được trọn vẹn mật ngọt mà không nhằn
nhằm trái đắng? Và, câu trả lời có lẽ đã rõ ràng như trong câu nói của
Propertius và A.Camus: sự mù quáng - thiếu chánh niệm!
Yêu người hay yêu ta?
Sức
mạnh của sự cuốn hút, sự đắm say giữa người nam và người nữ là điều khó
cưỡng. Do đó, không lạ gì khi sự thiếu lý trí trong tình yêu trở nên
một hiện tượng phổ biến. J.F.Regnard cho rằng: “Khi tình yêu muốn lên
tiếng thì lý trí phải nín lặng”. Chính sự “nín lặng” của lý trí đã dẫn
đến những đau khổ, phiền toái trong tình yêu.
Thử tưởng tượng,
nếu bạn yêu thương một người nào đó song họ không yêu lại bạn mà đi yêu
một người khác, thì tình yêu đó có thực sự trọn vẹn? Khi yêu, người ta
luôn có ảo tưởng rằng người yêu phải thuộc về mình, là sở hữu của mình.
Do đó, nhiều người cảm thấy ngột ngạt, mất tự do, thậm chí phẫn hận bởi
chính tình yêu của mình.
Kinh A hàm thuật lại một câu chuyện
khiến chúng ta suy ngẫm. Lần nọ, vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi:
Trên đời này, ái khanh yêu ai nhất? Mạt Lợi đáp: Dĩ nhiên người đó chính
là bệ hạ! Vua hoan hỉ lắm, nhưng rồi bà ngập ngừng: Thưa, nếu bệ hạ cho
phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một chút, xác thực hơn. Rằng người mà
thần thiếp yêu nhất chính là… thần thiếp. Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên,
không hiểu. Mạt Lợi giải thích bằng những câu hỏi: Vậy trên đời này bệ
hạ yêu ai nhất? Thì là ái khanh, vua đáp. Vậy nếu thiếp lén bệ hạ đi yêu
một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì? Thì… thì… ta sẽ… Dù hơi khó
khăn, nhưng cuối cùng vua Ba Tư Nặc cũng thừa nhận là ông sẽ xử tử
hoàng hậu! Hôm sau, vua Ba Tư Nặc đến trình chuyện với đức Phật. Phật
xác nhận ý kiến của Mạt Lợi qua bài kệ: “Tâm ta đi cùng khắp. Tất cả mọi
phương trời. Cũng không tìm thấy được. Ai thân hơn tự ngã… Vậy ai yêu
tự ngã. Chớ hại tự ngã người”.
Như vậy, kẻ mà ta yêu nhất chính
là tự ngã của mình. Vì yêu tự ngã nên mới có chuyện ta đòi xử trảm người
ta yêu khi người đó không chịu yêu ta nữa. Nếu thực sự yêu người, thì
ta có thể chấp nhận việc họ không yêu ta. Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Yêu
mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào
cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau”, hay: “Yêu
thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê,
say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực”. Do đó,
không phải phi lý khi M. De Stael cho rằng: “Tình yêu thường chỉ là lòng
ích kỷ ác nghiệt đến nỗi tự mình hủy diệt hạnh phúc người mình yêu”.
Meilhan thì khẳng định: “Trên đời người nào yêu mà không mong được người
yêu lại, người đó mới là người yêu thật lòng”. Gandhi cũng thừa nhận:
“Tình yêu chân chính bao giờ cũng hiến tặng, không bao giờ đòi hỏi đáp
đền”. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương người như thể thương thân…”
Khi
ta thực yêu ai đó, thì ta không thể làm tổn hại người ta yêu. Ta phải
biết nâng niu người yêu, phải biết tôn trọng người yêu - tôn trọng cả
thể xác lẫn tâm hồn, và tôn trọng cả những ước mơ, chí nguyện chân chính
của người ấy nữa. Có lẽ ta còn nhớ câu chuyện của ngài A Nan - vị thị
giả Đức Phật. Ngài A Nan nổi tiếng học giỏi và đẹp trai. Một cô gái, do
tiếp xúc với ngài, đã bị lưỡi sét ái tình giáng trúng. Cô đau khổ vô
cùng. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ, cô quyết dùng bùa chú để chinh phục cho
bằng được vị tu sĩ đẹp trai ấy. Rất may, Đức Phật sớm quán biết sự việc
nên cho người đến giải cứu. Ngài A Nan thoát nạn, song cô gái lại hết
sức bất mãn. Cô quyết đến gặp Phật để “bắt đền”. Đức Phật khéo hỏi cô
gái: Con yêu A Nan vì cái gì? Cô lúng túng, cố gắng trả lời, rằng con
yêu A Nan vì ngài có đôi mắt đẹp, cái mũi cũng đẹp, cái miệng cũng đẹp…
Đức Phật lần lượt chỉ cho cô thấy rằng cặp mắt, cái mũi, cái miệng… hay
nói chung là cái thân tứ đại của ngài A Nan chỉ là tập hợp của nhiều yếu
tố, mà toàn là những yếu tố… bất tịnh. Sau cùng, ngài hỏi một câu quyết
định: Con nói con yêu A Nan, vậy con có yêu cái chí nguyện xuất gia của
A Nan không? Đến đây thì cô gái tỉnh ngộ, sau đó cô xuất gia và tu hành
chứng quả A La Hán!
Học cách yêu thương
Yêu
thương một ai và nuôi dưỡng được tình yêu đó là cả một nghệ thuật. Và
nghệ thuật đó cần phải học. Rất nhiều cặp tình nhân, sau một thời gian
yêu nhau mặn nồng, đã tuyên bố chia tay vì một lý do hết sức đơn giản:
không hiểu nhau. Ban đầu, trong cơn say nắng, tình yêu là một giấc mơ
hồng. Nhưng rồi, khi cơn choáng váng đi qua, họ chợt bừng tỉnh và nhận
thấy người yêu mình toàn những khiếm khuyết. Rằng anh hay em chỉ là một
kẻ ích kỷ hay anh hay em chỉ yêu công việc chứ không thực sự yêu người
thương của mình. Họ đã thiếu cẩn trọng khi đến với nhau, hay nói cách
khác, tình yêu của họ vắng bóng chánh niệm, và việc chia tay là một điều
dễ hiểu.
Chánh niệm giúp cho ta nhìn đúng bản chất của sự vật.
Em hay anh cũng là một con người, với đầy đủ tất cả những khiếm khuyết,
thậm chí những thói hư tật xấu. Không thể hời hợt, lầm lẫn khi nhìn nhận
về người mình yêu, cũng như không đeo cặp kính hồng để thấy người ấy
luôn luôn tuyệt vời. Cùng với từ bi và trí tuệ, ta có thể cùng với người
yêu chuyển hóa được những cái xấu, nuôi dưỡng những cái tốt. Ta và
người yêu không chỉ “cùng nhìn về một hướng”, mà còn biết “nhìn nhau”
nữa - nhìn nhau trong thương yêu và chánh niệm. Bằng chánh niệm, ta sẽ
có một cái nhìn mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn thông thường. Hàng ngày,
chúng ta do quá bận rộn chạy theo những tất bật của cuộc sống nên không
thể sống trọn vẹn với người mình thương. Chánh niệm giúp ta có được sự
chuyên chú, sâu sắc và bén nhạy. Nhờ đó mà ta biết người thương cần gì
nơi ta, ta có thể giúp được gì cho người ấy. Sự vô cảm, thờ ơ và thiếu
cảm thông là nguyên nhân làm cho tình yêu tàn lụi. Cho dù ta chỉ có một
giây phút bên người ta yêu, nhưng đó là giây phút trọn vẹn, hơn là sống
với nhau mấy chục năm mà không có sự lắng nghe, thấu hiểu, không thấy
được sự “có mặt” của người ấy. Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Khi nắm tay một
em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người
thương trong vòng tay cũng thế. Hãy quên tất cả. Hãy thực sự có mặt,
thực sự tỉnh thức trong khi nắm tay, trong khi ôm”. Sự chuyên chú đó
giúp ta hiểu được người yêu. Hiểu được người yêu, ta mới thực sự thương
người yêu của mình, không làm cho người yêu đau khổ.
Chánh niệm
cũng giúp cho ta nhận ra sự mong manh của vạn vật và trân trọng từng
phút giây hiện hữu. Chánh niệm cũng giúp cho ta có thêm yêu thương, lòng
từ bi đối với mọi người, mọi loài. Chánh niệm giúp cho tình yêu vững
hơn. Mặc dầu vậy, có thể do một nguyên nhân nào đó, ta không thể cùng
người ta yêu đi trọn con đường đời, thì ta vẫn có thể giữ được một mối
quan tâm đúng mực, một tình thương yêu trong sáng. Rất nhiều người, khi
yêu nhau thì rất đỗi mặn nồng, đến khi chia tay thì oán hận, lạ xa.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh có một bài thơ rất hay, nói về tính duyên khởi của
Phật giáo, nhưng ta cũng có thể soi thấu vào những tình cảm yêu thương
trai gái thế này: “Tác hữu trần sa hữu, vi không nhất thiết không” (Có
thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không) - khi yêu,
trong đôi mắt anh, em là tất cả; em hắt hơi là anh đã lo lắng, nói chi
khi em bệnh, em cần. Còn khi không yêu, thì thế giới của em chẳng thuộc
về anh, em có sống, có chết thì anh cũng không quan tâm, không còn chút
trách nhiệm nào nữa! Đó là thói thường của những người yêu nhau, người
thực tập chánh niệm không nên mắc phải!
Trong Phật giáo, có bốn
yếu tố quan trọng để xây đắp và nuôi dưỡng tình yêu. Đó là từ, bi, hỷ,
xả. Từ là khả năng ban tặng niềm vui. Yêu người, ta nhất định đem niềm
vui đến cho người chứ không đem đến dằn vặt, khổ đau. Và bi, ta xót xa
trước nỗi đau khổ của người ta yêu, tìm mọi cách để người ấy hết khổ.
Hỷ, ta vui cùng người - tình yêu nhất thiết phải vui, không vui không
phải là tình yêu đích thực. Nhiều người yêu nhau, sau một ngày làm việc
căng thẳng và nhiều muộn phiền, gặp nhau, họ chỉ có thể trao cho nhau
những bức bối, bực mình. Xả, ta không tìm mọi cách khiến người phải
thuộc về ta; ta không tôn bản ngã của mình, buộc người phải giống như ta
muốn - một khi người không theo ý ta, ta hờn, ta giận, thậm chí căm
thù. Với xả, ta và người ta yêu không hai; nỗi đau hay niềm vui của
người ấy cũng chính là của ta - một sự chia sẻ tột cùng!
Với bốn
yếu tố này làm hành trang, ta có thể đem đến cho tình yêu một sắc thái
mới: bao la, sâu sắc, trọn vẹn và vững bền. Đó mới chính là cuộc tình
“thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”.
Thiền tập nuôi dưỡng tình yêu
Thượng
tọa B. Seelawimala, sư trưởng của một tu viện tại London, là vị sư Phật
giáo đầu tiên được hoàng gia vương quốc Anh mời dự lễ cưới của hoàng tử
William và công nương K. Middleton. Thep tạp chí Shambhala Sun, nhân cơ
hội này, ngài đã có vài lời khuyên chân thành đến với những đôi vợ
chồng trẻ, rằng chìa khóa của hạnh phúc lứa đôi chính là thiền tập.
“Trao đổi những khó khăn với nhau và cùng nhau thực tập thiền để thanh
lọc những phiền não ra khỏi tâm thức”, ngài nói.
Thiền tập có
công năng nuôi dưỡng tình yêu. Trong đó, chánh niệm chính là trái tim
của thiền tập. Ai cũng biết chánh niệm sẽ đem đến niềm an lạc, hạnh
phúc, không chỉ cho tình cảm yêu thương, mà cho tất cả các hoạt động
sống. Dù vậy, để đạt được chánh niệm trong từng phút giây là điều không
dễ. Chúng ta cần phải thực tập chuyên cần theo thời khóa và trong bất kỳ
thời gian nào có thể. Bắt đầu từ hơi thở, chúng ta tập quan sát hơi thở
của mình. Thở vào ta biết ta thở vào, thở ra ta biết ta thở ra - chú
tâm vào hơi thở không xao lãng. Khi tâm xao lãng, chúng ta hãy kiên trì
đưa tâm trở lại, không bực mình, và cũng không tham cầu.
Hiện
nay, thiền trở nên phổ biến, và được biết đến như là một nghệ thuật
sống. Để hiểu rõ kỹ thuật và thấm nhuần thiền tập, lý tưởng nhất là
chúng ta hãy đến với những trung tâm thiền. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể
học tập từ sách vở, từ những vị thầy. Trong bài viết này, chúng tôi xin
được giới thiệu đến quý độc giả một vài hướng dẫn thực hành chánh niệm
nhằm nuôi dưỡng hạnh phúc, tình yêu. Những bài thực hành này được trích
dịch từ tập sách The Meditation Bible - A Definitive Guide to
Meditations for Every Purpose của Madonna Gauding - một tập sách hướng
dẫn thiết thực về thiền.
Thực hành 1: Tình yêu vô điều kiện
Hầu
hết tình yêu của chúng ta là tình yêu có điều kiện - chúng ta muốn
người mình yêu hành xử theo cách mình thích hoặc ủng hộ những định hướng
của mình. Nhưng một tình yêu đẹp sẽ là một tình yêu vô điều kiện - ta
yêu ai đó như chính bản thân họ là, bất kể họ làm gì đi nữa.
Tình
yêu vô điều kiện nghe rất hay, nhưng để thực hiện được thì không dễ.
Phương thức thiền này giúp bạn mở rộng con tim và từ bỏ những điều kiện
mà bạn có thể đặt để trong tình yêu. Nếu bạn gặp rắc rối trong mối tương
tác với người yêu, hay bạn đang cố gắng kiểm soát tình yêu của mình,
phương pháp thiền này sẽ ít nhiều giúp bạn có được nhiều niềm vui và sự
thăng hoa, giải phóng khỏi tự ngã để yêu thương mọi người, và giúp bạn
tiến xa trên con đường tâm linh.
Chuẩn bị: Hãy
nghĩ về những mối quan hệ tình cảm gần gũi nhất đối với bạn. Tự hỏi
rằng liệu bạn có đặt những điều kiện trong tình cảm của mình hay không?
Ví dụ, bạn có thấy tình yêu của bạn phụ thuộc vào việc người ấy có yêu
lại bạn theo cách bạn muốn hay không. Nhận rõ rằng đây là điều kiện làm
cho tình yêu bị tù túng, giới hạn.
Thực tập:
1.
Hãy ngồi xuống, trên ghế hay trên bồ đoàn, trong không gian thiền. Chắc
rằng bạn đang rất riêng tư. Bắt đầu bằng việc quán sát hơi thở và để
cho thân, tâm thật tĩnh lặng.
2. Hướng tâm đến đối tượng mà bạn
thương yêu. Liệt kê tất cả những điều kiện nào mà bạn đòi hỏi có thể làm
cho tình yêu bị giới hạn. Ví dụ, có thể bạn thấy bạn yêu người ta bởi
người ta làm ra nhiều tiền, người ta mua hoa tặng bạn vào những dịp đặt
biệt hay người ta phục trang theo một kiểu nào đó. Lưu ý những điều kiện
đó, trong khi có vẻ như là thiết thực và hợp lý, lại khép kín trái tim
của bạn. Lưu ý rằng đó không phải là tình yêu, nhưng sao ta lại đòi hỏi
nó phải có mặt?
3. Bây giờ bạn hãy hình dung rằng bạn đang trao
cho người bạn yêu thương một sự tự do hoàn toàn và người ấy có thể làm
bất kỳ điều gì mà người ấy muốn. Điều này liệu có làm cho bạn lo sợ, có
khiến cho bạn buồn hay có thay đổi cảm xúc của bạn về người ấy? Hướng
tâm bạn đến những phẩm tính của người ấy khiến bạn yêu thương. Có lẽ là
bạn yêu cái nghị lực, khí phách và năng lực của người ấy khi người ấy
đáp lại với tha nhân.
4. Tưởng tượng rằng người ấy không bên bạn
hay sẵn sàng gặp bạn những khi bạn cần và bạn yêu thương họ bất kể thế
nào. Cảm thấy trái tim bạn rộng mở vì bạn chấp nhận và thương yêu người
ấy hết lòng, bất kể người ấy có làm hay không làm gì cho bạn.
Thực hành 2: Tình yêu và ái nhiễm
Như
đã tìm hiểu trong phần thực hành trên, tình yêu chân thực sẽ không đặt
ra bất kỳ điều kiện nào đối với người khác hay yêu cầu người khác phải
làm gì đó để có được tình yêu của mình. Phương pháp thiền này giúp cho
chúng ta khám phá đề tài như trên, song với đôi chút khác biệt, giúp
chúng ta hình dung sự khác nhau giữa tình yêu và ái nhiễm, nhằm cải
thiện mối quan hệ giữa ta và người ta thương yêu.
Ở đây, bạn sẽ
tập phát hiện mối quan tâm chân thành từ một đối tượng không có thật.
Trong tình yêu, chúng ta thường nhầm lẫn giữa sức cuốn hút tính giới và
sự phụ thuộc trong tình yêu. Ta cũng thường tơ tưởng đến ai đó, thổi
phồng những phẩm chất của họ và lầm lẫn nó với tình yêu. Trong trường
hợp này, người mà bạn yêu không thực sự tồn tại và bạn thấy bạn đang
luyến ái một ảo tượng.
Pháp thiền hành dưới đây sẽ hữu ích cho những người đang yêu.
Chuẩn bị: Viết về người mới ấy trong cuộc đời bạn, chú ý đến lý do tại sao bạn cảm thấy yêu người ấy.
Thực tập:
1.
Ngồi xuống bồ đoàn hay trên ghế trong không gian thiền. Hít thở sâu
trong vài phút. Bây giờ hãy nằm duỗi dài xuống nền trong tư thế thoải
mái nhất.
2. Tưởng tượng rằng bạn đang nằm trên một bãi cỏ trong
công viên. Chợt một con chim rất đẹp đậu xuống cạnh bạn. Thật tuyệt
vời. Bạn chưa từng thấy con chim nào như thế bao giờ. Tim bạn tràn ngập
nỗi hân hoan vì bạn thấy con chim đậu thật gần, nhìn bạn đầy vẻ tò mò.
Bạn hiểu rằng con chim cũng hân hoan khi bên bạn. Nó ở với bạn trong một
khoảng thời gian rất lâu. Bạn thấy giữa bạn với nó có một sự kết nối
diệu kỳ. Chợt, một làn gió khuấy động và con chim biến mất vào lùm cây.
Bạn thầm biết ơn rằng bạn đã có một sự đối diện ngẫu nhiên với một sinh
linh tuyệt vời đến thế, và bạn hạnh phúc bởi nó đã hiện diện. Bạn cảm ơn
khoảng thời gian mà cả hai đã cùng trải qua.
3. Đó là một trải
nghiệm về tình yêu vô ái nhiễm. Hãy cố gắng gìn giữ điều này trong tâm
khi bạn bắt đầu mối quan hệ mới với người mà mình yêu thương…
Chúc quý vị thực nghiệm để cùng nhau chánh niệm trong tình yêu!
* ĐỖ THIỀN ĐĂNG