Dẫn nhập:
Tri thức, trí tuệ là sở hữu của con người, từ cơ bản được hình thành
do hai yếu tố ngoại tại là môi trường, điều kiện, phương tiện, nội dung
giáo dục; Yế u tố nội tại là bản chất tiềm năng. Bản chất tiềm năng do
sự đánh thức của yếu tố ngoại tại, từ đó hoàn thành tri thức trí tuệ, sở
hữu của con người toàn diện, hoàn thiện, đạt đỉnh cao về mặt tri thức
trí tuệ, để từ đó ấn định thành phần trong xã hội - thành phần trí thức,
nhất là trí tuệ giải thoát.
Trong những thập kỷ qua, hệ thống giáo dục con người, có thể nói đã
củng cố, phát triển và hệ thống hóa hoàn thiện, tùy theo điều kiện xã
hội, tập quán, phong tục, văn hóa, thể chế của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia
khác nhau. Nhất là, kể từ năm 1945, Liên Hiệp Quốc hình hành cơ quan
Unessco - Văn hóa, Giáo dục, Khoa học, Xã hội - Liên Hiệp Quốc thì vấn
đề giáo dục được củng cố, phát triển, hệ thống hóa có sự lãnh đạo chung,
lãnh đạo quốc tế, để nhằm mục đích củng cố , phát triển, hệ thống giáo
dục ngày càng đạt hiệu năng và kết quả hữu hiệu, mang tính khoa học hơn.
Đối với Phật giáo, từ khi Hội Liên Hữu Phật tử Thế giới hình thành
năm 1950, có một bộ phận phụ trách là Ủy ban Giáo dục, các tổ chức Phật
giáo mang tính quốc tế, đều có Ủy ban Giáo dục trong hệ thống giáo dục
mang tính quốc tế và địa phương, như chuyên môn về Phật học.
Đối với Phật giáo Việt Nam, từ năm 1930, công tác hình thành hệ thống
giáo dục cũng đã được thành lập, mang tính đặc thù của dân tộc và Phật
giáo Việt Nam. Như khái quát, có thể thấy: Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học, Hội An Nam Phật học, Hội Lưỡng xuyên Phật học, Hội Phật giáo Bắc
kỳ, Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Tăng già toàn quốc Việt Nam,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hội Phật giáo Thống nhất Việt
Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hơn 80 năm hình thành và phát triển,
có thể nói chương trình giáo dục Phật giáo đã đi đến mức độ hoàn chỉnh
và hệ thống hóa toàn diện từ hình thức đến nội dung, nhất là trong giai
đoạn tiếp cận, hội nhập quốc tế, hệ thống giáo dục Phật giáo cấp Cao
đẳng và Đại học luôn luôn tự hoàn thiện và tìm tòi, kết thân với các môi
trường giáo dục khác ngoài Việt Nam, nhất là lãnh vực Giáo dục Phật
học.
Thành quả Giáo dục:
Trong 30 năm qua, kể từ ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
thông qua Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, hệ thống Giáo dục Phật giáo
trong Giáo hội hiện nay gồm các Trường Phật học như sau:
- Có 04 Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Huế
và Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Tp. Cần Thơ. Trong đó, Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh chưa có chế độ nội trú, vì không
có cơ sở. Hiện nay, Chính phủ, UBND Thành phố đã giao cho GHPGVN
33hecta đất ở xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh để xây
dựng Học viện. Trong tương lai, Tăng Ni sinh của Học viện sẽ được nội
trú hoàn toàn khi cơ sở xây dựng xong.
+ Đã đào tạo 4.826 Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cử nhân Phật học.
+ Đang đào tạo 1.684 Tăng Ni sinh.
- Có 08 Lớp Cao đẳng Phật học: tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Huế, Tp.
Đà Nẵng, Lâm Đồng, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Nam, Bạc Liêu, Đồng Nai.
+ Đã đào tạo: 1.056 Tăng Ni sinh.
+ Đang đào tạo: 690 Tăng Ni sinh.
- Có 31 Trường Trung cấp Phật học trong cả nước. Trong đó, 30 trường
Tăng Ni sinh nội trú, chỉ có Tp. Hồ Chí Minh chưa có chế độ nội trú vì
không có cơ sở và Tăng Ni sinh còn học chung một cơ sở, chưa phân ra 02
phân hiệu như các Tỉnh, Thành hội Phật giáo khác.
+ Đã đào tạo: 7.315 Tăng Ni sinh.
+ Đang đào tạo: 2.611 Tăng Ni sinh.
+ Trung cấp Pali có 98 Lớp, gồm 03 Trường và 95 lớp. Có 5.197 Tăng
sinh theo học. Đã đào tạo 2.700 Tăng sinh, đang đào tạo 2.195 Tăng sinh.
- Có 50 Lớp Sơ cấp Phật học:
+ Đã đào tạo: 3.500 Tăng Ni sinh.
+ Đang đào tạo: 2.500 Tăng Ni sinh.
+ 36 Lớp Sơ cấp Pali Khmer, có 2.777 Tăng sinh theo học.
- Du học :
+ Hiện có 476 Tăng Ni sinh du học tại các nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật bản, Pháp, Miến Điện, Thái Lan, Srilanka…
+ Có trên 100 Tăng Ni tốt nghiệp chương trình Tiến sĩ, Thạc sĩ Phật học tại các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật bản.
Với thành quả giáo dục như hiện nay là một tín hiệu đáng mừng cho nền
giáo dục Phật giáo Việt Nam nói riêng, hệ thống giáo dục tại Việt Nam
nói chung trong hiện tại và chấp cánh cho mơ ước sự phát triển về ngành
Giáo dục Phật giáo trong tương lai.
Kế thừa và phát triển hoàn chỉnh:
Trên quan điểm sống là tiếp nối quá khứ, chấp nhận hiện tại và ước
vọng tương lai, đó là một vấn đề lịch sử không thể phủ nhận. Do đó,
trước năm 1975, Phật giáo Việt Nam về giáo dục phổ thông, có Viện Đại
học Vạn Hạnh với 3 cấp Cử nhân, Cao học, Tiến sĩ; nội dung giáo dục chia
làm 6 Khoa: Phân khoa Phật học, Phân khoa Văn khoa, Phân khoa Khoa học
xã hội, Phân khoa Giáo dục, Phân khóa Ứng dụng Khoa học xã hội và Trung
tâm Ngôn ngữ (xem như một Phân khoa ngoại ngữ), tất cả đều áp dụng thể
thức học trình Tín chỉ, không theo thể thức niên chế. Về Phật học, có
Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm; nội dung giáo dục chia làm 3 cấp: Cử
nhân, Cao học, Tiến sĩ; phân làm các Ban: Ban Kinh, Ban Luật, Ban Luận,
Ban Thiền… theo nội dung Tam tạng Kinh, Luật, Luận – Giới, Định, Tuệ và
áp dụng thể thức thi cử, niên chế với nội dung chương trình giảng dạy
hoàn chỉnh và có hệ thống phát bằng Tốt nghiệp theo quy định của Tổng vụ
Giáo dục.
Qua đó, hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông qua Ban Giáo dục
Tăng Ni, 30 năm hoạt động, hệ thống giáo dục đến nay tạm hoàn chỉnh và
có cơ chế, hệ thống tổ chức. Chúng ta có: Lớp Sơ cấp, Trường Trung cấp,
Lớp Cao đẳng (Trường), Học viện… Đặc biệt, vừa qua Chính phủ đã cho phép
GHPGVN mở thí điểm Cao học (M.A) tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại
Tp. Hồ Chí Minh; và từ đó sẽ mở rộng đến các Học viện khác ở ba miền đất
nước và tiến đến Tiến sĩ (hay Nghiên cứu sinh bậc Tiến sĩ).
Từ cơ sở nầy nhận thấy nội dung giảng dạy và thể thức Học viện Phật
giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh áp dụng thể chế Tín chỉ, chia làm 10
Khoa: Khoa Pali, Khoa Phạn Tạng, Khoa Triết học Phật giáo, Khoa Phật
giáo Trung Quốc, Khoa Phật giáo Việt Nam, Khoa Lịch sử Phật giáo, Khoa
Phật pháp Anh ngữ, Khoa Phật Pháp Hoa ngữ, Khoa Hoằng pháp, Khoa Đào tạo
từ xa; Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Huế, Cần Thơ chia làm
nhiều Khoa, nhiều Ban: Khoa Kinh, Khoa Luật, Khoa Luận, Khoa Sử, Khoa
Phật giáo Thế giới, Khoa Quản trị Hành chánh, Quản lý cơ sở v.v… đều áp
dụng thể chế thi cử, theo niên chế. Đặc biệt, Học viện Phật giáo Nam
tông Khmer Cần Thơ áp dụng thể chế Tín chỉ. Nội dung giảng dạy theo
truyền thống, có cập nhật và thích ứng nhu cầu giáo dục hiện tại. Như
vậy, chưa có sự đồng nhất, trên cơ sở hệ thống tổ chức và nội dung giảng
dạy. Do đó, cần có sự thống nhất về cơ chế tổ chức, giáo trình chung
cho 04 Học viện trừ Học viện Phật giáo Nam tông Khmer, để đồng nhất,
thống nhất về thể chế và cùng hợp tác, giao lưu trao đổi kinh nghiệm
giáo dục trong nước và quốc tế trãi đều cho 04 Học viện (ĐHPG) của
GHPGVN.
Hiện nay, rất nhiều Tăng Ni đã tốt nghiệp trong nước cũng như từ nước
ngoài trở về Việt Nam và đã tham gia công tác giảng dạy tại các cơ sở
giáo dục Phật giáo. Nhất là Ban Giáo dục Tăng Ni đã có Văn phòng và
khuôn dấu riêng, do đó để có môi trường, mở rộng sự hoạt động và đóng
góp cho sự nghiệp giáo dục Phật giáo của Tăng Ni sinh, Ban Giáo dục Tăng
Ni cần phải cơ cấu nhân sự, phân công trách nhiệm và cụ thể hóa chức
năng làm việc cho nhiều Tiểu ban, như Tiểu ban phụ trách chương trình
Đại học, Tiểu ban phụ trách chương trình Cao đẳng, Tiểu ban phụ trách
chương trình Trung đẳng, Tiểu học, Tiểu ban phụ trách khảo thí, Tiểu ban
Tư liệu, Tiểu ban Giao lưu, hợp tác và phát triển quốc tế, Tiểu ban
Thanh tra Giáo dục và Tiểu ban Bảo trợ Học đường v.v… do Trưởng ban Giáo
dục Tăng Ni ký quyết định bổ nhiệm nhân sự các Tiểu ban. Từ đó, các
Tiểu ban hoạt động theo từng chức năng, lãnh vực đương nhiệm và phát
triển theo chiều sâu, chiều rộng và chiều cao ngang tầm với xã hội và
giáo dục quốc tế trong thời kỳ hội nhập và phát triển của thế kỷ 21 và
những thế kỷ tiếp theo.
Chương trì nh giáo dục:
- Chương trình Sơ cấp Phật học như đã ban hành. Chú trọng các môn học
căn bản, dồn năm thứ nhất Trung cấp xuống năm thứ hai Sơ cấp. thời gian
học là 02 năm. Nếu cần có thể thêm 01 năm học nâng cao, gồm 10 môn, 18
tiết/tuần, với các môn học như Kinh, Luật, Luận, Văn, Sử, Cổ ngữ, khái
quát về Nghi lễ.
- Chương trình Trung cấp Phật học, để tiết kiệm thời gian, nhất là
trình độ của Tăng Ni Phật giáo Việt Nam đã được nâng cao, do đó, thời
gian học là 03 năm và cần giảm bớt những môn không quan trọng và chú
trọng đến những phần mang tính Trung cấp Phật học chuyên sâu. Tối thiểu
học 10 môn, gồm: 04 môn Kinh, Luật, Luận, 02 môn Văn, Sử và Sinh ngữ, Cổ
ngữ, Tin học, Lịch sử Việt Nam, luật pháp (Sinh hoạt ngoại khóa) = 10
môn = 22 tiết/tuần.
- Chương trình Cao đẳng Phật học nên mở chuyên ngành, năm đầu học đại
cương tổng quát Kinh, Luật, Luận, Sử v.v…, nâng cao trình độ chuyển
tiếp từ Trung cấp, sang năm thứ hai, ba học chuyên ngành = Giáo dục,
Hoằng pháp, Nghi lễ, Hành chánh Quản trị, Trụ trì v.v…
Nếu chương trình Cao đẳng Phật học tương đương Đại học và trên Trung
học, thì chương trình các môn học không cho trùng lập với Học viện và
Đại học Phật giáo. Có như thế, khi vào Học viện, Tăng Ni sinh không phải
học lại các môn học cũ, mà được học những môn học hoàn toàn mới trên
tinh thần và thể thức liên thông tín chỉ với Học viện. Chương trình này
hoàn toàn độc lập với hệ thống Trường Cao đẳng Phật học khu vực như Hải
Phòng, Huế, Tp. Hồ Chí Minh và Miền Tây (Bạc Liêu), và tại Cần Thơ đã có
Phân viện Học viện của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh.
Chương trình Học viện cấp Cử nhân là 04 năm, như Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh áp dụng thể chế tín chỉ cấp Cử nhân; mỗi
khoa là 131 tín chỉ, mỗi tín chỉ là 15 tiết. Các Học viện khác còn tùy
thuộc vào thời gian và điều kiện cho phép, do đó nội dung giảng dạy chưa
đồng nhất và số tiết dạy cũng chưa được phân điều theo quy định. Vì
vậy, cần có sự thống nhất về số tiết, chương trình, nội dung giảng dạy
tại các Học viện khi điều kiện cho phép.
Gi áo dục hướng nội :
Để quân bình tư tưởng, tạo điều kiện cho Tăng Ni sinh sống có quán
chiếu, xoay về nội tâm, có an lạc, giải thoát trong lộ trình tu học của
người con Phật, trước năm 1975, Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm có một
Thiền đường, Đại học Vạn Hạnh có một Thiền đường để Tăng Ni sinh, Sinh
viên tọa thiền chỉ quán từ 30 phút đến 01 tiếng. Sau năm 1975, nhất là
khi thống nhất Phật giáo Việt Nam cả nước năm 1981, tại Trường Trung cấp
Phật học, Học viện từ khóa 1 đến khóa 4, Hòa thượng Hiệu trưởng, Hòa
thượng Viện trưởng cho Tăng Ni sinh tọa thiền 30 phút tại Chánh điện
Thiền viện Vạn Hạnh.
Do đó, các Trường Trung cấp Phật học, Học viện Phật gi áo phải có cơ
sở nội trú và có Thiền đường cho Tăng Ni sinh tọa thiền và tĩnh tâm, như
Hương Hải Thiền Sư nói: “Hằng ngày nên quán sát lại mình. Xét nét cho
cùng chớ dễ khinh. Không tìm tri thức ở trong mộng. Thầy sẽ thấy trên
mặt mình”. Muốn đạt được mục đích ấy, các cơ sở Trường, Viện phải có
Thiền đường để Tăng Ni sinh tịnh tâm Niệm Phật, quán chiếu v.v….
Bằng tinh thần kế thừa truyền thống giáo dục từ giáo lý Đức Phật ngàn
xưa, Liệt vị Tổ sư cận đại và các nhà giáo dục đương đại, chắc chắn tầm
vóc và nội dung, môi trường giáo dục Phật giáo luôn luôn khởi sắc, sinh
động và phát triển theo hướng đi lên và mở rộng mọi mặt thuộc các lĩnh
vực giáo dục Phật học, khoa học xã hội, khoa học nhân văn, công nghệ
thông tin, ngôn ngữ, thư pháp học cũng như nhiều lĩnh vực khác của xã
hội và thế giới đặt ra, mà giáo dục Phật giáo phải quan tâm theo dõi,
nắm bắt kịp thời để điều chỉnh hợp lý và sáng tạo theo từng khu vực,
quốc gia và Tông phái Phật giáo Việt Nam và thế giới theo chiều hướng
chuyển hóa nội tâm, khai thô ng tâm trí, phát huy tuệ lực, năng lượng
giải thoát cho chính mình và cho con người, cho chúng sanh và nhân loại
bằng con đường giáo dục – Giới, Định, Tuệ, đó là mục đích cứu cánh của
Giáo dục Phật giáo từ xưa đến nay và mãi mãi về sau.
Kính thưa Hội thảo,
Trên đây là một số vấn đề góp ý cho công tác củng cố và phát triển
ngành Giáo dục Phật giáo của nhiệm kỳ mới, nhằm kế thừa ngọn đèn trí tuệ
là tiêu chí của nền Giáo dục Phật giáo, của người làm công tác giáo dục
và đối tượng được đào tạo. Để từ đó mở ra một chân trời giải thoát,
giác ngộ tự thân, cho con người và cho chúng sinh. Có thể nói, tất cả
đều được thiết lập và khởi động từ công tác giáo dục Phật giáo, sẽ góp
phần thực hiện có hiệu quả chương trình hoạt động Phật sự nhiệm kỳ VII
(2012 - 2017) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam trong tương lai.
Thành thật tri ân toàn thể quý Đại biểu. Kính chúc Hội thảo thành công tốt đẹp./.
HT. THÍCH THIỆN NHƠN
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN