nhưng cạnh tranh để
bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải
đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô
toàn cầu.
Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị
bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được
chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính
quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành
trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên
lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ
nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến
tranh văn hóa”.
Trước tình hình đó hàng ngũ tăng-ni, một mình không đủ sức đảm đương
mọi chuyện mà cần có sự trợ giúp của mọi tầng lớp Phật tử và cư sĩ tại
gia, không ngoài mục đích gìn giữ tín đồ và sự trường tồn của đạo pháp
và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không có bản sắc chỉ là khối “ngoại kiều”
tạp chủng sống trên cùng một đất nước. Khi đất nước không có bản sắc –
tức không có một dòng chính văn hóa và tâm linh (mainstream) thì dân
tộc khó đoàn kết. Khi đó lực lượng chính trị sẽ “vọng ngoại” để tìm chỗ dựa, nói khác đi đất nước sẽ bị ngoại bang khuynh loát.
Nói về cư sĩ tu tại gia, họ không phải ai xa lạ - trước hết họ là
Phật tử - nhưng là một Phật tử không bình thường. Người cư sĩ Phật tử
có những đặc điểm như sau:
- Người cư sĩ tại gia, ngoài việc tụng kinh niệm Phật, hành thiền như
các Phật tử bình thường, họ còn có khả năng nghiên cứu kinh điển. Rất
nhiều vị là các nhà học Phật uyên thâm có khả năng luận giải kinh điển,
giảng dạy, hành lễ và thuyết pháp. Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư
sĩ trong quá khứ phải kể tới Vua A Dục của Ấn Độ, Lương Vũ Đế của
Trung Hoa, Vua Lý Thái Tổ của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại
phải ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi
Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An Ninh, học giả Đoàn Trung Còn, Giáo Sư
Nguyễn Đăng Thục mới đây có Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện,
các dịch giả như Trúc Thiên, Phạm Kim Khánh và nhà soạn Từ Điện Phật
Học Anh-Việt-Pali Thiện Phúc v.v…
- Dù không có khả năng nghiên cứu Phật học thâm sâu, một số cư sĩ do
tu hành tinh tấn hoặc đáp ứng được nhu cầu thiết thực của đời sống đã
quy tụ được một số đông Phật tử qua công tác hộ niệm, ủy lạo, thiện
nguyện…từ đó góp phần quan trọng vào việc gìn giữ tín đồ và xoa dịu
phần nào những khổ đau của xã hội mà không một nhà cầm quyền nào có thể
chu toàn trách nhiệm. Trong và ngoài nước hiện nay hình thành rất
nhiều nhóm cư sĩ Phật tử như thế này.
- Cư sĩ Phật tử có thể là các thương gia giàu có chẳng hạn như Ông
Cấp Cô Độc năm xưa là đại phú thương. Khi các đại phú thương phát Bồ Đề
Tâm thì họ có thể để lại những di sản rất lớn. Chẳng hạn như nhờ Ông
Cấp Cô Độc dám trải vàng mua vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà thỉnh
Phật thuyết pháp mà ngày nay chúng ta mới có bộ Kinh A Di Đà. Hiện nay
trong nước có rất nhiều đại phú thương phát Bồ Đề Tâm bằng cách bỏ ra
cả triệu Mỹ Kim để sưu tầm ngọc quý sau đó tôn tạo tượng như: tượng
Phật ngọc, tượng Phật Bà Quan Ấm và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Chắc chắn những pho tượng này sẽ cùng trường tồn với dân tộc.
- Người cư sĩ Phật tử có thể là những nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ lớn,
tác phẩm của họ có thể trở nên bất tử , lưu truyền rộng rãi trong dân
chúng chẳng hạn như bài thơ Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm
trong Pháp Nạn 1963 cách đây 50 năm. Hiện nay trong nước nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn được rất đông Phật tử ngưỡng mộ vì một số bài hát có tư tưởng
Thiền. Còn nhạc sĩ Phạm Duy lại được ngưỡng mộ vì những bài Thiền Ca
và Đạo Ca. Còn nhà thơ Phạm Thiên Thư được tôn vinh vì những bài thơ
đượm mùi Thiền của ông trong thi tập nổi tiếng Đưa Em Tìm Động Hoa
Vàng. Chúng ta nên - nhớ đối với bậc tu hành giải thoát thì thi ca có
khi chỉ là phiền não nhưng đối với quần chúng Phật tử thì thi ca, phim
ảnh, giải trí lại là phương tiện truyền đạt hữu hiệu nhất. Chúng ta có
thể nói mà không sợ sai lầm rằng chỉ cần nhìn vào số lượng thiền ca,
Phật nhạc, đạo ca, phim ảnh, truyện Phật giáo được phổ biến trong quần
chúng, chúng ta có thể nói đạo pháp thịnh hay suy.
- Người cư sĩ Phật tử có thể là quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, công
chúa, đại thần hoặc những vị nắm giữ những vai trò quan trọng trong
chính phủ. Hầu hết các ngôi cổ tự của Việt Nam mà ngày nay đã trở
thành di tích lịch sử đều do các vị này lập ra. Tôi có đọc một bài nghị
luận trong nước nói rằng nếu Thiền Sư Vạn Hạnh và Thiền Sư Lý Khánh
Vân cho Lý Công Uẩn xuất gia thì bất quá Lý Công Uẩn chỉ trở thành môt
danh tăng chứ không thể đưa dân tộc Đại Việt vào một thời kỳ huy hoàng
như vậy. Do đó, trong bất kỳ thời đại nào, nếu lãnh đạo đất nước lại là
những vị có lòng với Dân Tộc và Đạo Pháp thì chắc chắn Đạo Pháp sẽ
hưng thịnh.
- Sau hết, cư sĩ có thể là các cơ quan truyền thông. Nếu họ có lòng,
có trình độ thì truyền thông sẽ là phương tiện mạnh mẽ nhất để hộ pháp
và hoằng pháp.
Hiện nay tại Âu Châu, Hoa Kỳ các tôn giáo cổ truyền đang suy thoái
trầm trọng và có khả năng đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ thay đổi diện
mạo trong vài chục năm tới.
Theo www.youtube.com/watch?v=Rfx4glTU5JQ mỗi năm có 20,000 người
Hoa Kỳ và 70,000 người Pháp cải đạo sang Hồi Giáo. Theo
www.independent.co.uk mỗi năm có 5000 người Anh cải đạo sang Hồi Giáo.
Trước thực tế đó họ phải “mở một đường máu” sang Châu Á để để
bù đắp lại số tín đồ đã mất trong khi Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh đã
bão hòa. Trong khi chúng ta ngồi đây thì từng đoàn gọi là “thiện nguyện”
đang tiến sâu vào các vùng xa xôi của Mông Cổ, Miến Điện, Tích Lan,
Tây Tạng, Tây Nguyên v.v... nói là để giúp đỡ nhưng thực chất là để dụ
dỗ cải đạo ngay tại chỗ. Các vùng đồng bằng mà đời sống dân chúng còn
khó khăn, các vùng cao nguyên, rừng núi hoang vu bao gồm nhiều sắc dân
thiểu số là mảnh đất màu mỡ để thi hành kế hoạch này. Chỉ cần phái đoàn
gọi là “thiện nguyện” đó tới phát quà, khám bệnh, phát thuốc và hứa
hẹn một đời sống huy hoàng kiểu Mỹ thì cả một buôn làng có thể tân tòng
theo đạo mới. Thủ đoạn dùng “chiếc bánh ở trên trời” luôn luôn thành
công đối với tầng lớp nghèo khổ, túng quẫn. Họ cần bất cứ cái phao nào,
dù là một cọng rơm để bám. Chúng ta không trách họ được. Họ là nạn
nhân.
Tuy vấn đề cấp bách như thế nhưng trong hàng cư sĩ Phật tử tôi thấy
không có nhiều vị quan tâm. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc hàng cư sĩ Phật tử
chúng ta phải có can đảm nhìn vào vấn đề này. Trong gia đình, chúng ta
phải thẳng thắn giáo dục con cái về nạn cải đạo qua hôn nhân. Những
Phật tử trên giường bệnh trước giờ phút lâm chung vì không có ni sư hộ
niệm hoặc hộ niệm các chùa tính đắt quá đã bị cướp đi linh hồn.
Những Phật tử túng thiếu cũng chỉ vì sự giúp đỡ nhỏ mà nỡ vứt đi đạo
ông bà. Giới trẻ gia đình gốc Phật Giáo nhưng không am hiểu giáo lý,
tham dự những cuộc vui chơi có mục đích “dụ đạo” cũng dễ dàng
bỏ đạo. Con gái lấy chồng Đại Hàn tân tòng theo đạo mới, trở về nước
cải đạo ngay ông bà cha mẹ mình. Người Việt tại Mỹ theo đạo Tin Lành du
lịch Việt Nam, tới đền thờ Đức Trần Hưng Đạo họ không chịu bước vào vì
họ không thờ ngẫu tượng. Trong nước đã có một số đề nghị chống lại
sách lược cải đạo, nhưng hải ngoại thì chưa thấy. Tôi chưa hình dung
được kế hoạch “phản cải đạo” phải bao gồm những bước như thế nào. Nhưng theo tôi có hai bước quan trọng:
- Thứ nhất: Bản thân chúng ta là một Phật tử phải ý thức được giá
trị cao cả của Đạo Phật. Đạo Phật đang từng bước trở thành lương tri
của nhân loại cho nên dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng phải giữ tâm Bồ Đề
cho kiên cố, tức không bao giờ bỏ đạo. Để minh chứng cho sự cao thượng
của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử
người Mỹ tên John vừa được được Phật tử Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và
đưa lên mạng lưới toàn cầu, ”Suốt mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến
thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy y làm người Phật tử. Tôi
rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con Phật. Tuy nhiên
điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là sự kiện
2 thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô
biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù
hay phỉ báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi
bàng hoàng, rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất
mát không thể bù đắp này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi
chiêm nghiệm thành qủa của một tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không
phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể hiện qua một người, vài
người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định quy y để chính
thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người này.”
- Thứ hai: Đối với tập thể, phải có kế hoạch hoạt động xã hội, thiện
nguyện bao gồm luôn cả công tác văn hóa theo tinh thần thực tiễn “Có thực mới vực được đạo” để hoằng dương chánh pháp và giữ gìn tín đồ. Chúng ta không thể mơ màng sống với hào quang “đạo Phật là đạo tốt lành nhất” để rồi năm mười năm nữa, bừng mắt dậy thấy Đạo Phật trở thành thiểu số trên chính quê hương mình mình./.
Đào Văn Bình
(Tham luận đọc trong buổi thảo luận về “Vai trò của Phật tử trong
thời đại mới” ngày 11/5/2013 tại Chùa Bảo Phước San Jose, California)