Tuy nhiên, để lý giải vì sao một bộ phận không nhỏ tu sĩ và
tín đồ Phật giáo nghiêng về xu hướng chùa to tượng lớn, lo xây chùa
không lo
“xây người”,
chúng ta cần đặt mình vào vị trí những người nghĩ như vậy và làm như
vậy, thì chúng ta mới hiểu được căn nguyên của vấn đề, từ đó, nghĩ đến
cách điều chỉnh nó.
Trực trạng lo xây chùa không lo “xây người” mà một số bài viết, ý
kiến trên mạng đề cập, tuy sơ nét, nhưng chúng ta đều có thể hình dung
ra ngay vấn đề, rất rõ ràng và đầy đủ, vì chúng ta đều trực diện cảm
nhận trong thực tế.
Đó không phải chỉ là thực trạng chỉ có ở Phật giáo Trung Quốc hay
Phật giáo Bắc Tông, vì ở nhiều nước Phật giáo Nam tông, không chỉ có
chùa to, tượng lớn, mà đã đi tới mức chùa vàng tượng vàng, và lớp vàng
kim loại quý đó ngày càng dầy lên theo thời gian với sự nhiệt thành của
Phật tử.
Tôi không phải là người theo chủ nghĩa thực dụng và giải thích mọi
việc theo con mắt của triết học thực dụng, nhưng cách nhìn của triết học
thực dụng, trong một số trường hợp có thể giúp chúng ta lý giải được
vấn đề.
Suy cho cùng, thì dù giới hạn, nhưng triết học thực dụng vẫn phảng
phất màu sắc nhân duyên của Phật giáo.Tôi muốn nói đến nhận định của W.
James được coi là kinh điển của triết học thực dụng: “… các căn cứ
thực tế duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra để nói rõ tại sao nói chung có
một cái gì xuất hiện trên thế giới, đó là có một người nào đó muốn rằng
cái ấy xuất hiện”.
Theo quan điểm ấy thì bất cứ một hành động nào, bất cứ một hành vi
nào, miễn là có ích ngay cho những cá nhân “tích cực hoạt động” thì đều
là chính đáng như nhau” (2).
Vậy, từ một thực trạng, muốn hiểu nó, thì phải tìm hiểu nguyên
nhân. Phật giáo, triết học Mác hay triết học thực dụng… cũng đều quan
tâm đến nguyên nhân, dù có khác nhau về cách nhìn.
Vậy, thực trạng chùa to tượng lớn, lo xây chùa hơn lo “xây người”…
có cái lý do tồn tại của nó, có ích lợi của nó, có những chủ thể tích
cực tạo tác theo xu hướng đó, có nguyên nhân hợp lý của nó.
Chúng ta hãy tìm hiểu những cái đó, vì nó hết sức cần thiết, khi muốn tìm cách điều chỉnh thực trạng.
Hiển nhiên, có không ít tu sĩ và tín đồ Phật giáo rất muốn xây dựng
chùa to tượng lớn, xem đó là ưu tiên hàng đầu, trên hết và họ “tích cực
hoạt động” cho điều đó, rất “muốn rằng” như thế… Điều đó dẫn tới hiện
trạng “Bỏ quá nhiều tiền xây chùa mà không xây người”, như một bài viết
đã đề cập.
Điều đó, phải từ số nhiều, hay nói dè dặt, một số không nhỏ, hay dè
dặt hơn nữa, số người có nhiều tiền. Lẽ đơn giản, vì phải chăng có
nhiều tiền nên một số đó mới có khả năng định hình thực trạng chùa to
tượng lớn trên phạm vi toàn thế giới như hiện nay.
Trước tiên, phải hiểu xây dựng chùa to, tượng lớn là điều dễ làm.
Vì dễ làm, nên đây là cách những người nhiều tiền, còn những người chỉ
có ít tiền cũng dễ lựa chọn khi muốn bày tỏ lòng tôn kính Phật, tâm
nguyện muốn phụng sự cho đạo Phật, dù với tài chính hiến cúng ít ỏi.
Trong “xây người” là một cái gì đó rất trừu tượng, xa xôi cả về
hình dung công việc lẫn kết quả. Còn “xây chùa” thì có thể thấy kết quả
cụ thể rõ ràng, trước mắt, bền vững (theo nghĩa vật chất), mau chóng kết
quả (chỉ sau vài tháng).
Những người đứng ra tổ chức chỉ đạo việc xây chùa dựng tượng hay
những người gửi gắm tiền của vào việc đó đều có thể dễ dàng thoả mãn kết
quả, mà họ có thể coi là sự thể hiện tâm đạo, của việc tích lũy công
đức của mình qua những vật thể rất cụ thể, nhìn thấy, sờ thấy, nghe
thấy… Họ khởi sự hỷ lạc dễ dàng đối với điều có thể rất đơn giản, mà
cũng rất chính đáng đó.
Sự hưởng thụ, hoan hỷ với kết quả rất cụ thể đó có thể là động lực,
sự thôi thúc, thuận duyên cho những việc làm tương tự tiếp theo… Cứ
thế, sự tôn kính Đức Phật, sự sùng mộ đạo Phật, sự hoan hỷ đối nối nhau
thể hiện bằng chùa to tượng lớn, có thể từ hàng ngàn năm trước, không
phải đến bây giờ mới có. Ngày xưa người ta hình dung công đức bằng vàng
thỏi, bạc nén. Ngày nay, người ta nói đến con số triệu đô la như trong
một vài bài viết.
Tuy nhiên, cũng cần thấy đây không phải là vấn đề của riêng của
Phật giáo, mà là của chung phần lớn các tôn giáo. Hầu như một số không
nhỏ nói chung tu sĩ và tín đồ các tôn giáo đều thể hiện lòng nhiệt thành
tôn giáo của mình cùng một cách như nhau, không riêng gì ở Đạo Phật.
Những ngôi nhà thờ còn hoành tráng hơn nhiều những ngôi chùa. Những
tượng chúa, tượng đức mẹ, thánh giá trên khắp thế giới, nhất là ở những
quốc gia như Ba Lan, Brasil… còn nhiều, còn lớn hơn tượng Phật nhiều.
Xu hướng như thế không chỉ có ở phía tôn giáo mà cũng có ngay cả từ
phía “không tôn giáo”. Chúng ta không xa lạ với cụm từ “bệnh tượng
đài”…
Đó là nhìn vấn đề trên bình diện rộng, còn thu hẹp giới hạn tìm
hiểu vấn đề ở chỉ riêng Phật giáo Việt Nam, thì chúng ta có thể thấy
nhiều nguyên nhân nữa để lý giải vấn đề.
Trong bối cảnh nước ta và có lẽ cũng ở nhiều nước khi xây chùa,
dựng tượng, người hiến cúng yên tâm hơn, vì số của cải mà mình đã bỏ ra
để làm việc công đức định hình chùa, tượng ngay. Còn như “xây người” thì
nó mơ hồ như dấu ngoặc kép phải đặt ở bên trên cụm từ.
Xây chùa dựng tượng thì chắc có chùa có tượng, theo cách nghĩ trước
tiên ở nhiều người, còn “xây người” thì chính là xây vào cái dễ dao
động nhất.
Trong không ít trường hợp, xây chùa dựng tượng cũng góp phần gia
tăng mức “Phật hoá” những bất động sản đã thuộc về Tam Bảo. Nói cách
khác, nó ngăn chận việc chiếm dụng của chung đàn na tín thí, biến thành
của tư. Mảnh đất có một tượng Phật, hay một ngôi chùa to thì nó đã đựơc
xác lập “sở hữu Phật”, điều mà những người cúng dường muốn thấy, hơn là
mảnh đất trên đó có một ngôi trường chẳng hạn. Vì vậy, dù trong thâm
tâm, có người cũng ý thức đựơc giá trị tầm quan trọng của việc “xây
người”, nhưng họ vẫn hướng đến việc xây chùa hơn là “xây người”.
Quán tính tập thể trên đã có từ truyền thống nhiều ngàn năm cũng là
những nguyên nhân cần kể đến. Phật giáo cả thế giới vẫn xây chùa to
tượng lớn, tổ tiên ông bà chúng ta cũng thế, nên để lại cho con cháu hôm
nay một số lượng lớn chùa chiền, mà thực lòng, chúng ta vẫn còn thấy
chưa phải là nhiều? Thế thì tại sao lại đặt vấn đề căn nhắc việc xây
chùa đúc tượng…?
Cũng có thể có vị cho rằng xây chùa to, dựng tượng lớn…, cũng là
những pháp môn tu, nói đến ở kinh này, kinh khác. Tu như thế, thì rõ
ràng là rất dễ…
Tựu trung lại, “Bỏ quá nhiều tiền xây chùa mà không xây người” có
những nguyên nhân hợp lý của nó. Rất khó để có thể điều chỉnh từ hướng
xây chùa sang định hướng “xây người”.
Ở đây, chúng tôi hướng tới việc vẫn xây chùa nhưng trong điều kiện
lồng ghép, kết nối chặt chẽ, gắn bó mật thiết việc xây chùa với việc
“xây người”.
Tức là làm sao không tách rời 2 mục tiêu xây chùa và xây người trong các hoạt động của Phật giáo.
Điều này thuộc trách nhiệm và cũng như trong khả năng của quý vị tôn đức, tăng ni.
Chúng ta có thể quan niệm xây chùa là phát triển phần cứng của Phật giáo, còn “xây người” là phát triển phần mềm của Phật giáo.
Nếu phần cứng và phần mềm phát triển không đồng bộ, thì ắt sẽ phát
sinh tình trạng bất hợp lý, việc phát triển bị trở ngại, phát sinh lãng
phí, hệ thống vận hành què quặt.
Vì vây, đương nhiên “phần cứng” và cả phần mềm phải phát triển song song đồng bộ.
Theo hình mẫu của sự phát triển công nghệ thông tin, chúng ta có thể nghĩ đến 3 cách:
1. Phát triển có kế hoạch song song phần mềm và phần cứng. Đối
với Phật giáo tức là “xây người” song song với xây chùa, trong sự gắn
kết, phối hợp. Điều này không khả thi lắm, vì Phật giáo Việt Nam nói
riêng, Phật giáo thế giới nói chung có những biểu hiện nghiêng hẳn về
phía xây chùa riêng biệt, tức là phát triển phần cứng” tách rời với
“phần mềm”, ít tính đến yêu cầu phát triển phần mềm hơn , nên có thể có
chùa to, nhưng là chùa “rỗng”, tượng lớn, nhưng là tượng lạnh, vì thiếu
người chăm sóc, lễ bái, hương khói trường kỳ (thậm chí rồi muốn phá là
phá được ngay như 2 pho tượng khổng lồ ở Afghanistan, chùa chiền tượng
Phật ở Trung Quốc trong bão táp của cuộc Đại Cách mạng Văn hoá…).
2. Phát triển phần mềm và lấy phần mềm thúc đẩy việc phát
triển, phổ biến phần cứng tương ứng, như cách làm của công nghệ thông
tin. Cách làm này đương nhiên không thích hợp với Phật giáo, đang chỉ có
xu hướng chạy theo xu hướng phần cứng (chỉ lo chùa to, tượng lớn).
3. Vẫn phát triển phần cứng, nhưng có dụng ý đòi hỏi phần mềm tương ứng. Cách này được hiểu trong hoàn cảnh Phật giáo là cũng ưu
tiên lo xây chùa, nhưng ghép yếu tố “xây người” vào đó một cách có tính
toán. Mục tiêu chính là “xây người”, mượn xây chùa để “xây người”.
Ba phương cách nói trên, Phật giáo Việt Nam đều có thể vận dụng
nhưng như đã trình bày, cách thứ ba là cách thuận tiện, phù hợp hơn cả.
Ở cách thứ nhất, có thể lấy ví dụ là các chùa Phật học ở miền Nam
trước 1975. Một số Phật tử hành đạo theo xu hướng xây chùa to tượng lớn,
không chú trọng nhiều đến Tăng Bảo.
Nên buổi đầu các chùa Phật học do Hội Phật học lúc đó sở hữu thường
là không có tăng, quyền điều hành phần lớn nằm trong tay các vị cư sĩ
hội viên. Thế là phát sinh vấn đề “phần cứng” cần “phần mềm”. Quý vị cư
sĩ lập chùa phải tìm quý tôn đức, tăng ni đạo cao đức trọng, nhất là có
trình độ Phật học uyên bác về để góp phần điều hành chùa, trụ trì chùa.
Đã là chùa “Phật học” thì không thể rước thầy cúng. Điều này gián
tiếp đưa tới kết quả là một số chùa Phật học trước đây nay đã được điều
hành bởi nhiều vị tăng ni Phật học uyên bác.
Tiêu biểu cho cách thứ hai là trường hợp của Phật học đường Nam
Việt, tức chùa Ấn Quang ngày nay. Với cơ sở này, quý vị tôn đức lúc đó
lo việc “xây người” hơn là xây chùa, xác định rõ trong tên gọi Phật học
đường Nam Việt, tức là cơ sở đào tạo tăng ni cho khu vực mà bây giờ
chúng ta gọi là Nam Bộ. Kết quả là khi đã đào tạo được một số vị tăng
tài, thì việc kiến tạo chùa chiền cũng theo đó mà phát triển hình thành
một hệ thống chùa thuộc Tổ đình Ấn Quang. Đó là phần mềm thúc đẩy phần
cứng.
Còn cách thứ ba thì có lẽ thích hợp hơn cả với hoàn cảnh Phật giáo
Việt Nam hiện nay, và nằm trong khả năng của chư tôn đức, chư vị chủ trì
việc xây chùa, nhưng lồng ghép vào đó mục tiêu xây dựng cơ sở đào tạo
tăng tài, tức “xây người”. Cơ sở vật chất của việc “xây người” đã được
lo trước, tức là đã đi được nửa đoạn đường “xây người”. Cơ sở chùa
chiền sẵn có sẽ là một áp lực để tăng ni Phật tử chú trong hơn việc “xây
người”.
Có thể coi tiêu biểu cho cách thứ ba này các “thiền viện” do Hoà
thượng Thanh Từ tạo dựng. Xây thiền viện là xây chùa, mà cũng chính là
xây cơ sở chất cho việc “xây người”. Dạng thiền viện như vậy, như chúng
ta thường thấy, có chính điện không lớn lắm, vừa đủ cho thiền sinh hành
lễ. Nhưng tăng xá khá quy mô, phục vụ hiệu quả việc tu học cho đông đảo
tăng ni. Đó là một dạng trường Phật học không có chữ trường, mà là thiền viện, tức là chùa. Đã có cơ sở vật chất, thì công việc còn lại sẽ là trách nhiệm của chư tôn đức.
Ở thiền viện, chúng ta ít thấy tượng Phật lớn. Có lẽ đó cũng là một cách điều chỉnh theo phương án 3, mượn xây chùa để “xây người”, có thể ví von là phát triển “phần cứng” có tính toán để thúc đẩy phát triển “phần mềm”.
MT