30/12/2011 15:16 (GMT+7)
Số lượt xem: 232702
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Để được thâu nhiếp tâm đừng cho sa ngã vào trong hành vi ô trược, nên quán niệm đến điều tai hại là sự tiêu hoại cõi đời, kể như cái nhà, như cái hang hoặc như cái vực sâu của chúng ta phải sanh, phải nương gá, không thể trốn tránh khỏi điều tai hại ấy được.

LỜI TỰA

Trong khi nhân loại trầm, thì các đạo giáo phải thăng. Do đó Phật giáo khắp năm châu cũng vương mình lên bằng một cách tự động, tự cường, không dựa vào sức mạnh chính trị hoặc vũ lực nào; hơn nữa Phật giáo chẳng bao giờ đem tiền tài ra mua chuộc ai cả. Trái lại, làn sóng Phật giáo đang tiến rất cao và lãnh một phần trách nhiệm tối trọng về sự cứu khổ hoặc diệt khổ cho nhân loại. Song vai tuồng ấy muốn được thực hiện đầy đủ chỉ cần một điều là khi nào toàn cả nhân loại nhận thức rõ rệt sự tồn vong tiến thối trong kiếp sống hằng ngày. Với sự cảm nghĩ rằng: văn minh vật chất Âu-Mỹ đã đến thời kỹ nghệ hóa cực thịnh, sáng chế ra nhiều đồ đạc tối tân, khiến cho bao người trên hoàn-vũ ưa chuộng và tận tụy hy sinh để mưu cầu, song song với sự ham thích. Cơ khí hóa lại còn đem đến cho nhân loại lắm nỗi đe dọa rất rùng rợn đó là nguyên-tử, khinh-khí, hỏa-tiển v.v... Tóm lại con người ở giữa bị dày xéo nặng nề, bởi bên nầy vật chất cám dỗ, đàng kia bị vật chất hiểm họa.

Than ôi! Tinh thần nhân loại phải bối rối, mình và người cả một đám bối rối, khi toàn xã hội đang mơ màng trong giấc mộng vừa lòng và trái ý đối với tài tình, danh lợi, đến đỗi không còn chút lương tâm hoặc đạo đức cá nhân, buộc lòng các xã hội phải tạo thêm nhiều tụng-đình, ngục-thất v.v...

May mắn thay! Nhờ có các nhà đạo tâm trí-thức, đã cảm thông cả hai phương diện là:

- Văn minh cơ khí sẽ đem con người đến chỗ đắm say tội lỗi trong vòng sanh tử luân hồi.

- Văn minh đạo đức sẽ đem cho con người đến chỗ tiến hóa, tạo cho họ những đức tánh, giảm bớt hoặc diệt hẳn tham, sân, si, không mê đời và không làm khổ cho đời, trái lại gội nhuần từ bi, hỹ xã đến mọi loài.

Thật vậy, các nhà đạo tâm sau khi thông cảm rồi cố gắng xây đắp bảo tháp và chánh điện Tam-Bảo. Tự đây cũng như các ngôi tháp hoặc chùa trên khắp thế giới.

Ngược lại giòng lịch sử, lúc đức Thế Tôn còn hiện tiền, vua Tần-Bà-Sa dâng chùa Trúc Lâm (Veluvana), ông bá hộ Cấp-Cô-Độc dâng chùa Kỳ Viên (Jetavana), đây là những trụ sở chính đào tạo con người hung tàn, bạo ngược trở nên nhân vật hiền lương, đức hạnh, người phàm đắc thành thánh nhân. Cụ thể như: Thành Xá-Vệ (Savatthi) tổng số dân cư 70 triệu đắc quả thánh nhơn hết 50 triệu, còn lại 20 triệu, đa số cũng nhờ ảnh hưởng tốt do Phật an ngự trước sau kể cả là 25 hạ tại Kỳ-Viên Tịnh xá, hầu hết nhiệt thành tín mộ, qui y Tam-Bảo, chung hưởng một đời sống hạnh phúc. Luôn cả vua A-Dục bên Ấn Độ, cũng như các nhà vua nhà Lý, nhà Trần xứ ta, đã đem Phật pháp phổ hóa cho muôn dân, khiến cả vua tôi chung hưởng cảnh thái bình thạnh trị.

Hạnh phúc thay cho nhân loại khi thấy một ngôi chùa tu đúng chánh pháp được xây cất, sẽ giảm đi ít nhiều những nhà hòa giải, nhà cải hối v.v...

Lợi lộc rất nhiều cho chúng sanh, vì chùa là cơ sở biểu dương chân lý, cũng là nơi đào luyện cán bộ đắc lực để phục vụ nhân loại sống theo đúng chơn lý vậy.

 

LỜI HỒI HƯỚNG

Pháp thí có quả báo thắng tất cả sự thí, tôi xin thành tâm hồi hướng đến các bậc ân nhân nhất là:

Cha mẹ - Thầy tổ - Quốc chủ - Chúng sanh.

Đồng tâm hoan hỷ, thọ hưởng phước báu nầy.

Mong thay!

Tỳ khưu GIỚI NGHIÊM

THITASĪLO BHIKKHU

...............................................................

NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMĀSAMBUDDHASSA

 

GIẢI VỀ KIẾP
(KAPPAKATHĀ)

 

PHƯƠNG PHÁP THƯỜNG TRỰC SANH MẠNG

Để được thâu nhiếp tâm đừng cho sa ngã vào trong hành vi ô trược, nên quán niệm đến điều tai hại là sự tiêu hoại cõi đời, kể như cái nhà, như cái hang hoặc như cái vực sâu của chúng ta phải sanh, phải nương gá, không thể trốn tránh khỏi điều tai hại ấy được.

Lẽ thường người ở trong cái nhà cửa khóa gài chắc chắn, rồi dễ duôi không nghĩ ngợi gì đến điều tai hại, chỉ tính việc ngủ cho đã, lơ đễnh bỏ mất chìa khoá, đến khi bị lửa cháy nhà, bỗng nhiên khiếp sợ rung rẫy mất hồn, chạy la kêu và chịu sự khổ nặng nề, cho đến khi bị thiêu đốt cháy tiêu toái trong đống lửa ấy. Có ý nghĩa ví dụ thế nào, tất cả chúng sanh trong thế gian, đang mê-sa đảng trí theo mọi trần cảnh, chẳng hề nghĩ tưởng gì về điều tai hại thường trực của sanh mạng, chỉ tính việc vui chơi thái quá, sái với hành trình của bậc trí thức, cũng như thế ấy.

Lẽ thường các hàng trí tuệ là những người có trí lự, thường lo thực hành trước khi dứt sanh mạng, hằng lo kiếm phương pháp, đặng lánh xa điều tai hại thường trực của sanh mạng luôn khi, không thả trôi cho sanh mạng luống qua và chạm phải tai hại ấy đâu.

Phương pháp để lánh khỏi điều tai hại ấy chỉ có một pháp thôi là: THANH HẠNH PHÁP (Sucarita Dhamma).

Thân thanh hạnh là:

- Không lấn hiếp và sát sanh hại mạng của mình hoặc chúng sanh khác.

- Không trộm cắp tài sản của người.

- Không gian đoạt vợ, chồng, con của kẻ khác.

Khẩu thanh hạnh là:

- Nói lời chơn thật, không giả dối.

- Nói lời hòa nhã, không đâm thọc.

- Nói lời hiền lành, không chưởi rủa, mắng nhiếc.

- Nói lời hữu ích và không uống rượu.

Ý thanh hạnh là:

- Không tham lam san đoạt của người đem về phần mình.

- Không cưu thù hủy hại kẻ khác.

- Không cứng rắn chống lại với chân lý, là biết tin cái nghiệp và quả của nghiệp v.v...

Nếu kẻ nào có pháp Sucarita nầy rồi, thì người ấy sẽ thành bậc trí thức, có tri kiến tốt, không để cho sanh mạng vấp phải điều tai hại vậy.

Nói về điều tai hại vắn tắt có hai cách:

- Tai hại không cố định thời.

- Tai hại phải cố định thời.

Tai hại không cố định thời là nói đến sự tai hại của chúng sanh trong hiện tại nầy. Trong mỗi quốc độ, xóm, làng chung sống cùng nhau, song chúng sanh có kẻ bị tai hại, có kẻ an vui tiến hóa, có khi ngày, tháng, năm nay kẻ kia bị tai hại, trái lại ngày, tháng, năm kia chúng sanh nầy có sự tai hại, v.v... không quyết định thì giờ, không quyết định chúng sanh, như thế gọi là tai hại không cố định thời.

Tai hại cố định thời la nói về tai hại thường trực tuổi thọ quả đất, lâu lắm mới có một lần; sự tai hại nầy vô cùng to lớn, nên cỗ nhân hằng nói rằng: "Phát khởi điều tiêu hoại, lửa cháy nước, cháy đất, cháy hoại kiếp (kappa)". Trong khi lửa cháy kappa ấy, tất cả chúng sanh ở trên quả địa cầu nầy bao nhiêu và ở trên sáu tầng trời Dục-Giới, luôn đến sắc giới gần Tịnh-Cư thiên (Suddhāvāsa), đều phải chịu điều tai hại ấy cả.

Đặc biệt chúng sanh nào dễ duôi không lưu tâm với pháp Sucarita, trong lúc ấy, theo lẽ thường thiện ác nghiệp và Sankhara phải chia chẻ phân biệt chúng sanh ra, nghĩa là chúng sanh nào tham lam, hành động ác nghiệp, chúng sanh đó bị họp thọ sanh trong thời kỳ ấy.

Chúng sanh nào hành động thiện pháp đứng đắn tốt đẹp, chúng sanh ấy được đi sanh trong chỗ thái bình an lạc, nhất là được sanh trong cõi Tịnh-Cư Phạm-Thiên v.v... chẳng bị lẫn lộn sanh chung với các chúng sanh đã tạo ác nghiệp đó đâu.

Như thế gọi là điều tai hại cố định thời.

Sự tai hại này càng tiến gần lại rồi, bởi vì mảnh đất mà ta và mọi người nương gá hằng ngày đây, có tên theo tuổi thọ là tiến hóa kiếp (bhadda kappa), được 5 vị Phật tổ ra đời trong một thời khoảng của tuổi thọ trái đất này, nay đã Niết-Bàn mất 4 vị rồi là:

- Đức Phật Câu-Lu-Tôn (Kakusandho)

- Đức Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni (Konāgamano)

- Đức Phật Ka-Diếp (Kaksapo)

- Đức Phật Cồ-Đàm (Gotamo)

Chỉ còn có 1 vị Phật tổ nữa là đức Di-Lặc (Ariya-metreyya) thôi, khi ấy thì đến thời kỳ lửa sẽ cháy kappa và chúng sanh sẽ bị tai hại.

Tiếng gọi là kappa và vấn đề lửa cháy kappa ấy sẽ giải như sau đây:

 

GIẢI VỀ TIẾNG KAPPA

Khoảng thời gian trụ rất lâu gọi là kappa (kiếp), là tên của tuổi thọ trái đất, hoặc là tên tuổi thọ cõi không gian (okāsa loka).

Tiếng gọi là không gian ấy trong bộ kinh Visuddhi magga (Thanh-Tịnh-Đạo) giải rằng: đặc chỉ về chỗ ở của chúng sanh, hằng có sự tiêu hại là thường.

Trong cõi không gian đó có nhiều cõi sa-bà thế giới (cakkavāla).

Cõi sa-bà ta đang ở nầy có bề ngang và bề dọc đến một triệu hai ức ba ngàn bốn trăm năm chục do tuần (1.203.450 do tuần).

Bề chu vi đến ba triệu sáu ức một vạn ba trăm năm chục do tuần (3.610.350 do tuần).

Bề dài trái đất trong sa-bà thế giới nầy chừng hai ức bốn vạn do tuần (240.000 do tuần).

- Nước nâng đỡ trái đất dày đến bốn ức tám vạn do tuần (480.000 do tuần).

- Có quả núi gọi là Tu-Di sơn (Sineru), chân ăn sâu xuống trong biển đến tám muôn bốn ngàn do tuần (84.000 do tuần) chót núi cao lên cũng tám vạn bốn ngàn do tuần giống nhau.

- Kế cận núi Tu-Di sơn ấy lại có Thất-Trùng sơn (Satta Paribhada) nữa là:

1. Núi Yugandhara cao 42.000 do tuần.
2. Núi Isindhara cao 21.000 do tuần.
3. Núi Karavīka cao 10.500 do tuần.
4. Núi Sudassana cao 5.250 do tuần.
5. Núi Nemindhara cao 2.625 do tuần.
6. Núi Vinataka cao 1.312 do tuần.
7. Núi Assakaṇṇacao 656 do tuần.

Cả Thất-Trùng sơn nầy toàn là núi kết thành bằng bảo vật (ratana), nhất là vàng, bạc v.v... có chân ăn sâu vào dưới biển cũng đồng như trên vậy, ở bọc quanh núi Tu-Di, cách khoảng xa nhau cũng bằng với bề cao của các núi ấy. Nơi khoảng cách những núi ấy toàn là biển gọi tên là Sīdantara.

Cả bảy lớp núi nầy là nơi trú của Tứ-Đại Thiên-Vương:

1. Dhata Raṭṭha.i
2. Virūpakkha
3. Virullahaka.
4. Kuvera.

Và là nơi trú, nơi đi lại của chư thiên, và dạ-xoa cả thảy. Chẳng phải trình độ của người thường đi đến và xem thấy hoặc nghĩ ngợi được đâu, chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới đi đến và xem thấy biết rõ đầy đủ.

Núi lớn Sineru, có ba hòn núi lớn dở phía dưới, gọi là núi Trayakua.

Phía trên đỉnh núi Tu-Di sơn là địa phận của đức vua trời Đế-Thích (Sakka), gọi là cõi trời Đạo-Lợi, kế phía trên là cõi Dạ-Ma, Đâu-Suất-Đà, Hóa-Lạc, Tha-Hóa-Tự-Tại. Tất cả các cõi nầy là nơi trú của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của loài người đâu. Kế phía trên các cõi trời nữa là cõi của chư Phạm-Thiên Hữu-sắc và Phạm-Thiên Vô-sắc.

Phạm-Thiên Hữu sắc có 16 tuần là:

1. Phạm-Chúng thiên.
2. Phạm-Phụ thiên.
3. Đại-Phạm.
4. Thiếu-Quan thiên.
5. Vô-Lượng quang thiên.
6. Quang-Âm thiên.
7. Thiếu-Tịnh thiên.
8. Vô-Lượng tịnh thiên.
9. Biến-tịnh thiên.
10. Quản-quả thiên.
11. Vô-Tưởng thiên.
12. Vô-Phiền thiên.
13. Vô-Nhiệt thiên.
14. Thiện-Hiện thiên.
15. Thiện-Kiến thiên.
16. Vô-thiểu thiên.

Phạm-thiên vô sắc có bốn tầng là:

1. Không vô biên xứ thiên.
2. Thức vô biên xứ thiên.
3. Vô-sở hữu xứ thiên.
4. Phi-Tưởng Phi-Phi tưởng thiên.

Cõi trời Phi-Tưởng phi phi tưởng xứ này là nơi cao nhất hơn cả của Tam-Giới, trong cõi hư không thế giới khoảng cách xa cõi cuối cùng Tam-Giới ấy xuống đến cõi người nầy không thể đếm được bao nhiêu do tuần cả.

Trong bộ kinh Loka Dīpaka có giảng giải so sánh rằng: Sabba bhavaggo thatvaca kutāgarasamāsalā pātitā tīhi vassedhivimā māsehi ca atthahi rattindivehi v.v...

Nghĩa là: Chư thiên có thần lực nhiều, ở trong cõi cuối cùng (của Tam-Giới) thả một tảng đá to bằng cái nhà cho rơi xuống tới cõi người mất một thời gian rất lâu chừng ba năm hai tháng tám ngày và 14 phút mới đến cõi người, cục đá ấy chỉ là chạm bởi gió, mà mòn hết chỉ còn dư lại bằng trái cam thôi.

Kế sau đây chỉ giảng giải theo bộ kinh Visuddhi magga như vầy: Theo sự chỉ dẫn rằng: Núi Tu-Di (Sineru) ở giữa cõi Sa-bà, núi Thất-Trùng sơn bao quanh núi Sineru, phía bên ngoài núi Thất-Trùng sơn ấy, toàn là nước cả thảy, trong bốn hướng có Tứ-Đại châu cách xa hẳn với núi ấy.

TỨ ĐẠI CHÂU

1. Jambūdvīpa: Nam-Thiện-Bộ châu, ở phía Nam núi Tu-Di, có cây Jambū (cây trâm) thường trực của cõi, người trong châu ấy nuôi mạng bằng nông nghiệp, thương nghiệp v.v... phụ nữ thụ thai phải 9 hoặc 10 tháng mới sanh ra con trai, con gái.

2. Uttara kurudvīpa: Bắc-Câu-Lư châu, ở phía bắc núi Tu-Di có cây kappa (Như-ý- thọ) thường trực của cõi. Người ở trong châu ấy khỏi bận làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... muốn vật chi, muốn ưng ăn món gì, thực phẩm cách nào thì đi đến cây kappa thì được như ý nguyện. Phụ nữ thụ thai 7 tháng thì sanh con, hài nhi trai hoặc gái sanh ra 7 ngày là biết đi biết chạy.

3. Aparagoyānīdvīpa: Tây-Ngưu-Hóa châu ở phía tây núi Tu-Di có Kadumba (ngọc như-ý châu) thường trực của cõi. Người ở trong châu ấy không bận với nghề nghiệp nông-tang đâu, bởi vì có viên ngọc làm cho thành tựu như ý.

4. Pubbavidehadvīpa: Đông-Thắng-Thần châu ở phía đông núi Tu-Di, có cây Sirīsa thường trực của cõi. Người ở trong châu nầy không cực nhọc phải làm nông nghiệp, thương nghiệp v.v... bởi vì có một cây tức là cái bảo diện kết thành bằng bảy thứ ngọc, cao 15 do tuần, làm cho thành tựu ý như tất cả ý nguyện của mọi người.

Trong bốn châu ấy, tất cả chư Phật không khi nào giáng sanh ba châu kia, mà chỉ đản sanh trong Nam-Thiện Bộ châu thôi, bởi vì cả ba châu ấy là nơi để cho chúng sanh thọ hưởng quả thanh-hạnh pháp, không phải là nơi để tạo thanh-hạnh pháp, như Nam châu nầy đâu.

Trong châu Jambu có núi Hy-Mã-Lạp-Sơn (Himalaya) cao 500 do tuần, bề ngang và bề dọc tới 3.000 do tuần;

Bề cao, to của Đại-Thọ thường trực bốn châu và các cõi như vầy:

- Cây Jambū (cây trâm) trong Nam-Thiện-Bộ Châu.
- Cây Kappa (cây như ý thọ) trong Bắc-Câu-Lư châu.
- Cây Kadamba trong Tây-Ngưu-Hóa châu.
- Cây Sirīsa trong Đông-Thắng-Thần châu.
- Cây Paricchitta trên cõi Đạo-Lợi Thiên.
- Cây Pātalī của nhóm A-Tu-La.
- Cây Simbalī (cây chông) của Đại Bàng (Garuda).

Tất cả cây đó toàn là đại thọ chúa của loài cây, vẫn sống trọn một kappa (kiếp của trái đất).

Sự to và cao bằng nhau cả, là thân cây chung quanh chừng 15 do tuần, bề dài của cây và bề dài của nhánh chừng 50 do tuần, thế là toàn cây từ gốc đến ngọn 100 do tuần.

Chuvi của bốn châu như vầy:

- Nam-Thiện-Bộ châu, cõi trời Đao-Lợi, cõi A-Tu-La, cõi địa ngục A-Tỳ, chu vi một vạn do tuần giống nhau.

- Tây-Ngưu-Hóa châu và Đông-Thắng-Thần châu, chu vi hai ngàn do tuần.

- Bắc-Câu-Lư châu, chu vi tám ngàn do tuần.

Cả Tứ-Đại châu nầy mỗi cái đều có 5 trăm châu nhỏ phụ tùng, chung ở trong một cõi sa-bà thế giới. Chung quanh cõi sa-bà có núi lớn dài bao bọc. Núi ấy mọc chân sâu vào trong biển cả, đến tám vạn hai ngàn do tuần. Cao lên trên cũng 8 vạn 2 ngày do tuần vậy.

Giải rõ tiếng Lokadhātu (Thế-giới) và tiếng Cakkavāla (Sa-bà) là tiếng chỉ khác nghĩa đó thôi nhưng có thể gọi chung là thế giới sa-bà.

Trong mỗi một cõi thế giới sa-bà, có Tứ-Đại châu và 500 châu nhỏ, có một quả núi Tu-Di, có Thất-Trùng sơn, có 6 tầng trời Dục-giới, có 16 tầng Phạm-thiên hữu-sắc và 4 tầng Phạm-thiên vô-sắc, có cõi người và cõi địa ngục, ngạ-quỉ, súc sanh, A-tu-la, có mặt trời và mặt trăng.

Mặt trời chu vi 50 do tuần, mặt trăng chu vi 49 do tuần, là bảo điện của vị trời Suriya và vị trời Canda. Pháp hành thế gian cấu tạo lên để soi sáng cho cõi đời, theo thường lệ là đi quanh núi Tu-Di. Mặt trời trong một ngày một đêm đi quanh một vòng giáp núi Tu-Di. Mặt trăng đi một tháng mới giáp một vòng núi Tu-Di sơn.

Gồm các vật phụ tùng như đã kể, gọi là một cõi Lokadhātu hoặc Cakkavāla thế giới sa-bà ấy có nhiều vô số chẳng phải chỉ có một cõi đâu.

Gồm tất cả cõi thế hoặc sa-bà thế giới, gọi là hư-không thế giới (Okāsaloka).

Hư không thế giới sẽ chia theo quốc độ của Phật thấu triệt nữa như sau đây.

BuddhakkhettaPhật quốc độ có 3 là:

1) Jātikhetta: Sanh quốc độ, nghĩa là một vị Bồ-Tát sắp thành Phật trong kiếp chót, khi giáng sanh vào lòng mẹ, hoặc giờ phút đản sanh ra đời v.v... sẽ do phước đức phi thường của Ngài, khiến cho một vạn cõi sa-bà thế giới thảy đều rung động.

2) Ānākhetta: Oai lực quốc độ, nghĩa là một vị Phật Chánh-Đẳng Chánh-Giác thuyết về lời cầu nguyện Ratana paritta, Khandha paritta, Dhayagga paritta, Ātānatiya parittaMara paritta... do năng lực kinh Paritta sẽ có phước đức phi thường tức là lời cầu nguyện của Đức Phật khiến cho một ức koti thế giới sa-bà (100 ngàn koti cõi sa-bà), thảy đều rung động.

3) Visayakhetta: Trình độ quốc độ, nghĩa là năng lực về trí tuệ của một vị Phật Toàn-Giác sẽ chiếu khắp đến vô số sa-bà thế giới luôn cả vô hư không thế giới, tuệ-giác của Ngài thông suốt chẳng có nơi cùng tận, cần rõ điều gì, nguyên nhân nào, thì hiểu trọn vẹn y như ý nguyện, không bị một vật chi ngăn ngại.

Trong ba Phật quốc độ nầy trừ điều trình độ quốc độ ra bởi vì theo thường lệ với cái trình độ tuệ-giác của mỗi vị Phật tổ.

Riêng về sinh quốc độ và oai lực quốc độ thì có một ức koti cõi sa-bà thế giới ấy, là quốc độ của một vị Phật toàn-giác, bởi Ngài sẽ hóa độ chúng sanh trong đó.

Cả một ức koti sa-bà thế giới ấy, pháp hành của vũ trụ (Sankhāra loka) cấu tạo lên một thời kỳ, an trụ cũng giống nhau, tiến hóa cũng đồng thời với nhau, như có giải trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo ở đoạn Abhinnaniddesa rằng:

- Evametesu tisu Buddhakkhattesu ekam anakhettam vinassati. Tasmipana vinassente jatikke tampivīnaṭṭha-meva hotu. Vinassantañca ekatevavinassanti sathahantam-pīikato vasanthahati. Tassavavināse ca sathahanañca veditabba.

Nghĩa là trong cả ba Phật quốc độ đó, thì oai lực quốc độ bị hoại, hễ khi oai lực quốc độ bị hoại, thì sanh quốc độ cũng bị hư hoại giống nhau vậy.

Sinh quốc độ, khi hoại cũng đồng hoại với oai lực quốc độ, khi trụ cũng giống như oai lực quốc độ vậy.

Thế là sự trụ kiếp hoặc sự trụ kiếp của jāti khettaanākhetta, các thức giả nên hiểu như thế ấy.

Ngay nơi Duddhakkhetta nầy, phần nhiều có ý hiểu khác nhau.

Có kẻ hiểu rằng: Trong cõi hư không thế giới mà có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, chỉ có một ức koti cõi sa-bà thế giới thôi. Lâu lâu mới có vị Phật tổ ra đời, không có luôn luôn mỗi ngày mỗi tháng, mỗi năm đâu, bởi vì không có cõi sa-bà thế giới, nhiều hơn con số một ức koti ấy nữa đâu.

Có kẻ khác hiểu rằng: Trong cõi hư không thế giới có bầu không khí to rộng thênh thang nầy, không phải chỉ có một ức koti cõi sa-bà thế giới thôi, nghĩa là có vô số ức koti cõi, kể không hết, có Phật đắc đạo hằng ngày không hở, là nếu trong một ức koti cõi thế nầy, Đức Phật Niếp-Bàn, thì có một ức koti cõi thế nọ có Đức Phật đang giác ngộ, một ức koti cõi thế kia có Bồ-Tát đang đầu thai (gần thành Phật) hoặc nhiều ức koti cõi thế khác, có các vị Phật đang đắc đạo, đang độ sanh, đang nhập Niết-Bàn v.v... lại cũng có một ức koti cõi thế khác đang tiêu hoại, hoặc có một ức koti cõi thế khác đang thời tiến hóa.

Cả hai lẽ hiểu nầy khỏi phải phân biệt bên nào trúng bên nào trật, chỉ là đem đủ nhân và quả chỉ dẫn giúp cho tri kiến, rồi tùy nơi Phật tử khi xem qua quyển kinh nầy tự phân biệt lấy, nếu thấy bên nào nói đúng nhân quả hơn thì bên ấy đúng chắc chắn.

GIÚP CHO TRI KIẾN

Phật quốc độ có ba là: Jātikhetta, Ānākhetta, Visaya-khetta.

Khettalà tiếng Magadha, nghĩa là: ruộng, tỉnh, vị trí, biên cương, quốc độ, nghĩa là phần cõi đất, phần cõi thế, mà người ta phân chia từng khoảng, có biên giới do ấn định quốc độ hoặc do ấn định thế giới, để phân biệt đừng cho lẫn lộn nhau, bởi vì có nhiều chứ không phải chỉ một cõi.

- Phật quốc độ thứ nhất là Jātikhetta chỉ có nhất định một vạn cõi thế. Khi Đức Phật mới đản sanh, thành đạo v.v... ngay trong cõi thế gian nào, thì trọn một vạn cõi gần đây thảy đều rung động mà thôi, không rung động đến các thế giới khác ngoài số ấy.

- Phật quốc độ thứ hai là Ānākhetta, chỉ có nhứt định ức koti cõi thế. Đức Phật thuyết kinh cầu an về Ratana parittaKhandha parita v.v... trong thế giới nào, thì trọn một ức koti những cõi ấy thảy đều rung động mà thôi, không rung động đến các thế giới khác ngoài số ấy.

Bởi thế nào cho nên Phật quốc độ thứ hai là Ānākhetta có sự nhất định vị trí một ức koti cõi như thế, có nhiều cõi thế hơn số ấy nữa sao? Hay là không có? Nếu không có thì tại sao lại có số nhất định, có biên cương (khetta) mà không nói cả thảy đi một cái cho khỏe. Bởi cớ Ānākhetta nầy nói ngay về những cõi thế giới hiện tại, chẳng phải nói đến các thế giới đã qua đâu.

- Okāsa loka: Hư không thế giới, cái bầu không khí to rộng thênh thang vô cùng vô tận, kiếm chỗ cuối cùng không thấy. Dù cho Phật tuệ cũng không thấy vậy. Nếu đã to rộng như thế nầy thì nhiều ức koti thế giới cũng không chật bầu không khí kia được. Cả ba điều nầy là giúp cho tri kiến, hãy nhận định theo cách nầy đi.

Sự diễn giải đến đây là phân tách cho thấy rõ tiếng kappa (kiếp) bởi tiếng kiếp nầy là tên của tuổi thọ quả đất, tên của tuổi thọ cõi sa-bà thế giới hoặc của hư không thế giới. Mỗi ức koti cõi sa-bà thế giới là quốc độ của mỗi vị Phật tổ, Sankhāra cấu tạo lên trong một thời với nhau, bị tiêu hoại cũng đồng thời với nhau, nếu tính từ khi cấu sanh lên cho đến khi tiêu hoại thì nhiều năm lắm, đến một, mười, một trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, luôn đến A-tăng-kỳ cũng không hết, bởi vì cõi sa-bà thế giới nầy có tuổi thọ dài lắm, cho nên các hạng trí tuệ, nhất là Đức Phật định danh là kiếp (kappa) nghĩa là cõi sa-bà có tuổi thọ một kappa mới tiêu hoại.

Trong bộ Samyutta nikāya ngay nơi phẩm Tina kattha có ý nghĩa dạy rằng: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự gần thành Savatthī, có một vị Tỳ khưu vào hầu và phục bạch hỏi như vầy: Bạch Đức Thế Tôn, Kappa có thời gian bao lâu?

Đức Thế Tôn đáp rằng: Dīgho kho bhikkhu kappa so na sukaro sankhatuettakani vassani iti vā ettakanivassatani iti va ettakani vassasahassāni iti va ettakani vassasatasahassāhi iti:

Nầy Tỳ khưu, kappa có thời hạn lâu lắm. Kappa không dễ gì đếm rằng: bao nhiêu năm, bao nhiên ngàn năm, hoặc bao nhiêu ức năm, bao nhiêu triệu năm v.v... được đâu.

Thầy Tỳ khưu bạch hỏi nữa rằng: vậy Đức Thế Tôn ví dụ được không?

Phật phán rằng: Có thể ví dụ được, rồi Ngài thuyết kệ ngôn như vầy:

Seyyathāpi bhikkhu mahāseho pabbato yojana, āyā-mena yojanavithārena yojanaubbedhena, acchiddo asusiroekaghano tamenapuriso, vassasatassa, vassasa-tassa accayena kasikena,va’thena sakisakiparimajjeyya khippatarakhoso, bhikkhu mahāseso pabbatoimina upakkamena parikkhaya, payādānagaccheyya na tveva kappo evadīgho khobhikkhu kappo.

Nầy Tỳ khưu! Ví như một tảng đá to bề dọc một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao một do tuần, không lủng, không bộng, là đá đặc ruột, trải qua mỗi một trăm năm, có một người cầm vải Kasika (mỏng) lại lau cái núi đá một lần: nầy Tỳ khưu! Hòn núi đá lớn kia, mãi cho đến khi mòn hết, do sự cố gắng nầy, còn mau hơn, song kiếp (kappa) vẫn chưa hết. Nầy Tỳ khưu, kappa có thời gian lâu như thế đó.

Trong khoảng thời gian sau có một vị Tỳ khưu vào hầu và bạch hỏi như trước nữa.

Đức Thế Tôn đáp như vầy:

Seyyathāpi bhikkhu āyasanagara, yojanaāyā-mena yojanavittharena yojanaubbedhena puṇṇa,sāsapānagulikā bandhatato puriso vassasatassa, vassa-satassa accayenaekametasasapauddhareyya khippa-tarakho so bhikkhu mahāsāsaparāsi iminā, upakkamena parikkhayapariyādānagaccheyya na tveva, evadīgho kho bhikkhukappo.

Nầy Tỳ khưu! Ví dường như cái thành trì, bao bằng thành lủy, bề dài một do tuần, bề ngang một do tuần, bề cao cũng một do tuần, đựng đầy những hột cải, là cái thành trì mà họ đậy bằng đất sét, trải qua mỗi một trăm năm, có một người đến lấy bỏ ra một hột cải khỏi đống ấy, nầy Tỳ khưu, cái đống hột cải kia mãi cho đến khi hết sạch, do sự cố gắng này còn mau hơn, song kappa vẫn chưa hết, nầy Tỳ khưu, kappa có một thời gian lâu như thế đó.

Kappanầy chia ra làm nhiều cách nữa, như chia làm hai, làm ba, làm bốn, làm sáu.

Chia làm hai là:

- Savaṭṭa kappa: Hoại kiếp.

- Vivaṭṭa kappa: Kiếp trước hóa thành.

Chia làm bốn là:

- Tejo savaṭṭa kappa: Kiếp hoại do lửa.

- Antarā kappa: Nhất định theo tuổi thọ tăng và giảm của nhân loại, nghĩa là tuổi thọ tăng lên một A-tăng-kỳ, rồi giảm xuống còn 10 tuổi là thượng thọ. Xuống rồi tăng lên mỗi lần như thế gọi là một Antarā kiếp.

- Asakheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp, là nhất định lấy 64 kiếp Antara gọi là một A-tăng-kỳ kiếp.

- Mahā kappa: Đại kiếp, nhất định dùng một kiếp A-tăng-kỳ gọi là một đại kiếp.

Chia làm bốn nữa là:

- Savaṭṭa kappa: Hoại kiếp, là tính từ khi trái đất bị hoại cho đến ngày tiêu hết.

- Savaṭṭatthāyi kappa: Không kiếp là bắt đầu từ khi tiêu hoại hết, cho đến khi cơ cấu lại nữa.

- Vivaṭṭa kappa: Thành kiếp, là kể từ khi kiếp sanh lên cho đến khi có mặt trời, mặt trăng:

- Vivaṭṭatthayi kappa: Trụ kiếp, kể từ khi có mặt trời, mặt trăng phát hiện cho đến khi bắt đầu bị tiêu hoại.

Chia làm sáu là:

- Sāra kappa: Kiếp có một vị Phật tổ giác ngộ.

- Maṇḍa kappa: Kiếp có hai vị Phật tổ giác ngộ.

- Vara kappa: Kiếp có ba vị Phật tổ giác ngộ.

- Sāramada kappa: Kiếp có bốn vị Phật tổ giác ngộ.

- Bhadda kappa: Kiếp có năm vị Phật tổ giác ngộ.

- Suñña kappa: Kiếp không có Phật tổ giác ngộ.

Giảng giải về kiếp hoại:

Kiếp hoại theo ba cách là:

1) Hoại bằng lửa cháy. Khi cả một ức koti cõi sa-bà thế giới đủ tuổi một kiếp rồi, thì lửa cháy tiêu hoại tất cả thế giới ấy.

Trước khi lửa cháy có mưa to rơi xuống, trong khắp một ức koti thế giới, tất cả mọi người rủ nhau vải, gieo các thứ giống, đến khi mọc lên chừng bò ăn được thì không sa mưa xuống nữa, cả hằng nhiều vạn năm, chúng sanh có nghiệp nhẹ nhàng, chết rồi được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên cả thảy, chỉ còn chúng sanh nào có ác nghiệp thì vẫn bị đọa đày, đến một thời gian lâu, các chỗ nước đọng cũng khô hết, mọi loài như cá, tôm, cua, rùa đều chết sạch. Chúng sanh địa ngục (chúng sanh địa ngục chết trong khi 7 mặt trời mọc lên)và loài bàn-sanh hoặc loài người, sau khi chết, được sanh lên cõi trời Dục-Giới, cố tinh tấn tham-thiền trong cõi trời cho đắc định, khi chết được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên Sắc-Giới cả.

Thật ra một ức năm trước khi lửa bắt đầu cháy, có một vị trời tên Loka Byūhā, từ cung trời giáng xuống, biến thành ra người mặc y phục đỏ, thả tóc xả, cái mặt tràn trề cả nước mắt, lau nước mắt và đi theo các nẽo đường phố cáo rằng: các người chỉ còn một ức năm nữa cõi trời sẽ bị tiêu hoại, nước biển sẽ khô, quả đất, núi Tu-Di, cõi trời, cõi Phạm-Thiên (thấp) đều phải tiêu hoại. Các ngươi hãy cố tham-thiền, rãi tâm từ-bi và cố gắng hầu hạ phụng dưỡng cha mẹ bằng cách cung kính.

Trong khi ấy các người thiện trí thức nghe lời chư thiên rồi thì phát sanh kinh cảm trước, vội vã cố tinh tấn lo làm phước bố thí, phụng dưỡng cha mẹ, không dám dễ duôi, khi chết đều được sanh lên cõi trời, rán tham thiền trong cõi trời đắc định, đến khi chết được sanh lên cõi trời Phạm-Thiên, khỏi thọ khổ lâu dài như các người Phi-tịnh giả.

Trong bộ Visuddhi magga dạy rằng:

Vassupacchedate pana uddhadīghassa addhuno accayena dutiyo suriyo pātu bhavati...

Nghĩa: Kể từ khi dứt mưa, trải qua một thời gian lâu, có mặt trời thứ hai mọc lên rõ rệt. Khi trong thế gian có hai mặt trời thì ngày và đêm không phân biệt. Một mặt trời mọc thì mặt kia lặng, trong thế gian có sự nóng nãy do mặt trời luôn khi.

Trong thời kỳ trước khi mặt trời chưa làm cho kappa tiêu hoại đó, vị trời Suriya hằng ở trong cái bảo điện, đến khi mặt trời làm cho cõi thế bị tiêu hoại, thí cái bảo điện ấy không có chư thiên ở nữa.

Mặt trời mới, mọc có sắc nóng thái quá, mây mù gì trên hư không đều tiêu mất hết, nên hư-không chẳng có chi ngăn ngại.

Khi cả hai mặt trời đua nhau mọc thì nước ở trong các ngòi, rãnh nhỏ đều khô hết.

Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ ba mọc lên thì nước trong các sông khô hết.

Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ tư mọc lên thì nước trong cả hồ lớn, nhất là hồ Anotattā cũng khô hết.

Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ năm mọc lên thì nước ở trong đại-hãi cũng khô hết, trong cả toàn cõi thế-gian không có một nhiễu nước.

Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ sáu mọc lên, cả một ức koti cõi sa-bà có bụi trần phải phủi lên và có nhựa của trái đất chảy ra.

Một thời gian lâu nữa, mặt trời thứ bảy mọc lên, cả một ức koti trong cõi sa-bà có một ngọn lửa cháy hỏa-hào, cháy tiêu các núi bề cao chừng một do tuần, rồi lần đến núi Tu-Di làm cho tiêu hoại mất hết. Ngọn lửa ấy nhập lại cháy cõi Tứ-Đại-Thiên-Vương, cõi trời Đao-Lợi, cõi Dạ-Ma, cõi Đâu-Suất-Đà, cõi Hóa-Lạc, cõi Tha-Hóa-Tự-Tại và cháy các tầng trời Phạm-Thiên dưới, đến cõi Quan-Âm thiên (Abhassata).

Sa yava au mattampisakhāragataatthi tāvana nibbā yati:Ngọn lửa ấy nếu các vật bị cháy hãy còn thì cũng chưa tắt, cháy cho đến không còn dư tro, bụi mới tắt, ví như lửa cháy dầu ở phía dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau cả thành một khối tối thênh thang mờ mịt.

2) Tiêu hoại do nước. Khi Lokadhātu hoặc là sa-bà thế giới, đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu hoại bằng nước, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như thế nầy: Bầu trời làm cho mưa toàn thủy, rơi xuống trong cả một ức koti cõi sa-bà thế giới, các vật liệu như núi, đồi v.v... khi đụng phải nước rồi, thì bị rả tan cả, nước toan ấy có gió thổi nâng đở chung quanh, làm tan rả các núi đồi ở dưới xong rồi, làm tan sáu tầng trời Dục-Giới, và nhiều tầng trời Phạm-Thiên nữa, đến cõi gọi là Biến-Tịnh-Thiên (Subhakinhā).

Nước toan ấy khô đi, các vật liệu như núi rừng bị tiêu tan theo nước... cũng ví như muối mà người ta bỏ vào nước vậy. Tiêu mất không còn dư chút ít gì cả.

Ở dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau, thành một khối tối mênh mông.

3) Tiêu hoại do gió. Khi Lokathātu trong cõi thế giới sa-bà đủ tuổi thọ một kappa, thì bị tiêu hoại. Sự tiêu hoại bằng gió, hành trình cũng giống như hoại bằng lửa vậy, chỉ khác nhau như thế nầy: Bầu trời làm cho gió bảo lớn phát khỏi lên, thổi bụi lên cho bay lên hư-không mất cả, rồi thổi bưng cả cát, đất, sạn, sỏi, đá, cây, núi va chạm nhau và bay lên trên không hư hoại cả, không dư sót một món gì, kế thổi tan quả đất, cõi trời Dục-Giới, cõi trời Phạm-Thiên, luôn đến tầng gọi là Quản-Quả Thiên (Vehapphalā), làm cho tiêu tan hết, chẳng còn dư sót tí nào cả. Gió hết trơn rồi ở dưới là không khí, phía trên cũng là không khí giống nhau, thành một khối thênh thang.

Kiếp hoại do ba thể cách như đã giãi đây, cả ba thể cách nầy không phải thay đổi nhau mà tiêu hoại mỗi lần một món đâu, nghĩa là hoại bằng cách thức như vầy:

Hoại do lửa 7 lần, hoại do nước một lần, hoại do lửa và nước như thế nầy đến 63 lần mới hoại do gió một lần.

Đây là lệ thường của sự hoại kiếp.

Trong bộ Visuddhi magga có nói về nhân khiến cho hoại như vầy Akusala Mūlesu hi ussannesu evalokovinassati.

So ca kho rāge ussannatare agginā vinassati dose ussannatare udakena vinassanti. Keci pana dese ussan-natare. Āgginā rāge ussanatare udākenāti vadanti. Mohe ussannatare vatena vinassati.

Nghĩa là: Kế khi cả ba ác căn là: Tham-luyến, sân-hận, si-mê dày (nhiều) lên rồi, thì cõi thế sẽ hoại bằng ba cách trên: cõi thế gian nào có sự tham luyến dày hơn, thì bị hoại bằng lửa, nếu sân hận dày hơn, thì bị hoại bằng nước, nếu ai si-mê dày hơn, thì bị hoại bằng gió.

Riêng về Keci Ākāriya giải rằng: Nếu có sân nhiều hơn thì bị hoại bằng lửa, nếu có tham luyến nhiều hơn thì hoại bằng nước, nếu có ai si-mê nhiều hơn, thì bị hoại bằng gió.

Dứt kiếp hoại vắn tắt.

GIẢI VỀ KIẾP THÀNH

Lẽ thường pháp tạo tác thế gian, (Saṅkhāraloka), hễ một khi cõi trước hoại rồi thì pháp tạo tác thế-gian phải cấu tạo cõi mới lên nữa. Sự cấu tạo thế giới mới, trước nhứt trời mưa đầy cả một ức koti cõi thế, khi đầu có từ nhiểu nước nhỏ như mù sương, lâu lâu mưa to giọt nước bằng cây sen, bằng cán chổi, bằng cái chày tay, bằng cây thốt nốt hoặc cây dừa, cho đến từ giọt nước lớn bằng trái núi, gió thổi nước ấy cho đông đặc, nước đó có hình thái như nước đọng lên lá sen, mới kẹo đặc sệt xuống theo tuần tự. Đám mưa đó lâu lắm, không từng lạnh ráo một lần nào, lâu chừng một kappa dứt hột mưa, khối nước đọng cao đến cõi trời Phạm-Thiên. Hễ chi gió thổi cho nước rặc xuống tới chỗ Phạm-Thiên thì thành cõi Phạm-Thiên, rặc tới chỗ Lục-Dục thiên thì thành cõi Lục-Dục thiên, rặc hạ xuống đến chỗ nào núi, châu, cồn, biển thì thành núi châu, cồn, biển v.v... pháp tạo tác thế gian trong khi trước có trạng thái thế nào, pháp tạo tác sau cũng như thế ấy, không sai khác mấy.

Khi nước rặc xuống tới chỗ vừa thành châu, thì bọt nước đó có vi ngọt đóng thành đất, đất được thành lên đó nỗi trên mặt nước, như lá sen nỗi trên mặt nước vậy, hoặc như sũa nóng chảy trên mặt nước.

Trái đất trong buổi đầu có vị ngon và màu sắc tốt tươi, mùi thơm lạ thường, ngon ngọt như sữa trong trộn lẫn với mật ong hoặc cơm sữa (Madhupāyāsa).

Sự cấu khởi quả đất, thì chỗ Bồ-Đoàn sanh trước, có một cụm sen mọc lên làm hiện tượng đầu tiên (Pubba nimitta).

Chỗ Bồ-Đoàn nếu có một vị Phật thành đạo trong kappa ấy thì sen chỉ trổ một cái hoa thôi (1), kiếp như thế gọi là Sāra kappa. Nếu có hai vị Phật thành đạo trong kiếp ấy thì sen trổ hai cánh hoa, kiếp như thế gọi là Maṇḍa kappa.

Nếu có ba vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ ba cái hoa, kiếp như thế gọi là Vara kappa.

Nếu có bốn vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ bốn cái hoa, kiếp như thế gọi là Sara maṇḍa kappa.

Nếu có năm vị Phật thành đạo trong kiếp ấy, thì sen trổ năm cái hoa, kiếp như thế gọi là Bhadda kappa.

Nếu không có vị Phật nào thành đạo trong kiếp ấy, thì chẳng có sen mọc làm tiền hiện tượng, kiếp như thế gọi là Suñña kappa.

Hoa sen trổ một, hai, ba, bốn hoặc năm cái cũng đều mọc chung một cuống như chùm bông Kaṇṇikā vậy.

Thời ấy có lắm trời Phạm-Thiên giáng xuống, nhiều kẻ lẹ tính thấy đất có vị ngon, bèn nghĩ rằng: ở cái nầy là gì ư? Liền lấy tay quẹt lấy đất ấy rồi nếm thử xem, vị đất liền vào các thần kinh dành để hưởng thọ vị vật thực, sự mong mỏi trong vị ngon đã phát sanh đến chúng sanh ấy, các chúng sanh khác bắc chước theo rủ nhau đưa ngón tay trỏ vệt đất nếm thử xem, vị ngon của đất cũng thấm nhuần khắp thân thể của những chúng sanh ấy.

Kế đó các sanh vật ấy cứ cạy đất, vắt từ vắt mà ăn. Khi các vị Phạm-Thiên ham ăn đất có vị ngon thì ánh sáng chiếu diệu nơi thân tiền tiêu mất đi, sự tối mờ phát sanh lên, các sanh vật ấy khi thấy tối thì khiếp sợ cả.

Liền đó vừng mặt trời có chu vi 50 do-tuần, tức thì phát sanh lên, đặng tiêu trừ sự sợ hãi về đêm tối của chúng sanh, khi các sanh vật ấy thấy vừng mặt trời thì vui mừng cùng nhau gọi: Mặt trời! Mặt trời (Suriya)!

Mặt trời chói sáng trong ban ngày rồi lại mất, chúng sanh ấy cũng phát sanh sự kinh hải lên nữa, nói với nhau rằng chúng mình được ánh sáng rồi lại bị mất đi, chúng mình sẽ được ánh sáng gì nữa ư?

Liền đó vừng mặt trăng có chu-vi 49 do-tuần tức thì phát sanh lên, chúng sanh ấy thấy mặt trăng thì vui mừng cùng nhau gọi mặt trăng (Canda).

Khi có mặt trời, mặt trăng rõ rệt rồi, các tinh tú cũng sanh lên, thì giờ, ngày và đêm cũng phân định, một tháng và nữa tháng cũng phát sanh, mùa và năm cũng phát sanh, núi Tu-di, núi-Hy-Mã, núi Sa-Bà, Tứ-Đại châu sông biển cũng phát sanh rõ rệt trong ngày trăng tròn tháng Phagguṇa không trước không sau, như có Pāli chỉ rõ trong bộ Visuddhi magga ở đoạn núi Abhiññā rằng:

Te ca kho apubbam acarimaṃ phagguṃa puṇṇa mī divaseyena pātubbavanti.

Khi chúng sanh ấy ăn đất có vị ngon, lấy đất làm vật thực, thì ở yên một thời gian khá lâu, sự mập mạnh trong thân thể của chúng sanh ấy cũng phát sanh đầy đủ, màu da cũng phát sanh, rõ rệt, có nhóm màu da tốt, có nhóm màu da xấu, các chúng sanh có màu sắc tốt chê chúng sanh có màu sắc xấu rằng: Chúng mình có sắc thân xinh đẹp hơn chúng nó, chúng ta khá hơn và cao thượng hơn, chúng sanh ấy có màu sắc xấu hơn chúng ta, vậy chúng ta chẳng nên tôn trọng lễ độ với chúng sanh ấy? Khi những chúng sanh đó có ngã chấp và có sự khinh bỉ làm trợ nhân, thì đất có vị ngon để ăn cũng bị tiêu họai hết, đến khi vị ngon của đất mất rồi, thì Pappa taka cái mày của đất liền phát sanh lên, cái mày của đất có hình dạng như một thứ nấm, màu sắc như toàn sữa hoặc bơ (Sappi) cũng giống như sữa cục (Navanīta) có vị ngon như mật ong trộn lẫn vơi con ong non.

Kế đó dây Padā mọc lên có vị ngon, chúng sanh ấy cùng nhau lấy dây Padā làm vật thực, ở yên một thời gian lâu, khi chúng sanh ăn dây Padā thì sự tráng kiện thân thể cũng phát sanh tột độ, màu sắc càng khác nhau, chúng sanh ấy lại ngã chấp và khinh rẽ nhau nhiều hơn trước nữa, dây Padā cũng tiêu hoại mất hết.

Lúa Sālī tự chín và lúa không trấu, không cám, trắng tốt, có mùi thơm, trỗ trái ra từng chùm, phát sanh dầy đẫy, chúng sanh rũ nhau lấy lúa Sālī ngay chỗ nào mà ăn buổi sáng, đến buổi chiều, lúa cũng mọc lên ngay chỗ ấy, cùng nhau lấy ăn nữa khỏi khổ nhọc phải đi kiếm nơi khác, từ đấy chúng sanh dùng lúa Sālī tự chín làm vật thực, ở yên một thời gian khác lâu, chúng sanh nhờ ăn lúa ấy nên sự tráng kiện của thân thể cũng phát sanh tột độ, cả màu sắc cũng sai biệt nhau càng rõ rệt. Các mục ghẻ cũng bể ra thành khiếu nhỏ, khiếu lớn đặng bài tiết nước, xác và nam tướng mạo, nữ tướng mạo cũng phát sanh rõ rệt, nhóm nữ nhìn xem nhóm nam, nhóm nam nhìn xem nhóm nữ luôn khi, lòng luyến ái bèn phát khởi lên, sự nóng nảy bởi lòng luyến ái cũng tập trung trong thân thể. Kể từ khi đó chúng sanh bắt đầu gieo dâm với nhau, bởi có tâm luyến ái (Rāga) là trợ nhân. Thời ấy các chúng sanh đang giao cấu, thì lấy đất hoặc các vật khác mà ném, có kẻ khác lại chưởi mắng các chúng sanh đang dâm-dục đó. Khi chúng sanh đã nặng tình trong sự dâm-dục rồi, thì rũ nhau làm nhà để che dấu sự giao hiệp từ lúc ấy.

Trong thời gian sau lại có chúng sanh lười biếng mới nghĩ như vầy: Ôi! ta lấy lúa sáng thì ăn trong buổi sáng, đi lấy buổi chiều thì ăn trong buổi chiều, thật đấy là cả một sự khó khăn lắm vậy. Thôi ta hãy đi lấy lúa để dành ăn trong buổi sáng, và lấy luôn để dành ăn chiều nữa mới tiện.

Có một chúng sanh vào gặp người ấy rũ rằng: Nầy bạn, hãy cùng tôi đi lấy lúa Sālī về ăn.

Chúng sanh đó đáp: Thôi khỏi, tôi lấy về ăn đầy đủ rồi.

Người ầy khi nghe thì cảm thấy có phần giản tiện, nên cũng bắt chước theo, đi lấy lúa Sālī về để dành ăn hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày hoặc nhiều hơn nữa.

Đến khi chúng sanh cùng nhau bắt đầu ăn lúa Sālī đã lấy về cắt như thế, thì võ trấu và cám bao bọc hột gạo cũng phát sanh đến đỗi chổ lấy lúa đó nó cũng thôi mọc nữa.

Khi ấy những chúng sanh hội họp và than thở rằng: Nầy chúng mình ơi! pháp thấp hèn đã phát sanh đến chúng ta rồi, pháp thấp-thỏi xấu xa đã phát sanh đến chúng ta rồi. Lúc trước kia chúng ta sanh do tâm thiền định, có phỉ lạc là vật thực hào quang chói từ trong thân túa ra phi hành theo hằng không được dễ dàng như ý muốn, ngày nay đến đổi lúa Sālī cũng có trấu và các chỗ lấy lúa nó cũng thôi mọc lại nữa, bởi cớ ác pháp đã phát sanh đến ta rồi, nếu thế thì chúng ta nên chia lúa Sālī và chia phần đất để trồng lúa; kể từ đó chúng sanh rũ nhau chia lúa Sālī, đóng cọc phân ranh riêng cho mỗi người; thời ấy có một chúng sanh là hạng thấp kém, xấu xa lén dấu phần lúa phát sanh của mình, đi trộm cắp của kẻ khác về ăn, chúng sanh khác bắt người ấy và rầy mắng rằng: Ô! người làm nghiệp xấu xa lắm, người chẳng nên dấu phần lợi của mình, rồi trộm phần của kẻ khác về mà ăn, người đừng làm như thế nầy nữa. Về sau người ấy cũng cứ trộm hai, ba lần như cũ, các kẻ khác cũng bắt được và mắng rầy đủ điều, có kẻ tát tay bằng bàn tay hoặc đánh bằng cây.

Trong khi ấy sự trộm cắp phát rõ rệt, sự chê bai cũng phát sanh rõ rệt, trong sự nói dối, sự thiết lập uy thế cũng phát sanh rõ rệt thế gian nầy.

Kinh Dīgha nikaya ở bài tụng Aggañña dạy rằng: Lúc Đức Thượng-Sư A-La-Hán Chánh-Đẳng Chánh-Giác an ngự trong chùa Kiến-Sơ (Pubba rama), có diễn giải cho hai ông sadi như vầy: Athakho te vāsettho sattā sanni patimsu sannipatitvā anuthanimsu pāpaka bho dhammā sattesu pātubhūtā yatra hi nāma adinnādānaṃ. Paññāyissati garaha Paññāyissati musāvādo paññāyissati dandā dānaṃ Paññāyissati yannūna mayaṃ ekaṃ sattaṃ sammaneyy āma yo no sammākhīyitabbaṃ khīyeyya sammāgarahi-tabbaṃ garaheyya sammā pabbā jetabbaṃ pabbājeyya mayaṃ panassa sālīnaṃ bhagaṃ anuppadassāmāti athakho te vāsettho sattā v.v...

Nghĩa là: Nầy VāsetthaBhūra Dvāja, khi ấy những chúng sanh tập họp lại mới than thở rằng: Ô! ác pháp cả thảy đã phát sanh đến chúng ta rõ rệt rồi, bởi sự trộm cắp, sự hủy báng cũng phát sanh rõ rệt, nói lời giã dối cũng phát sanh rõ rệt, sự thiết lập uy thế cũng phát sanh rõ rệt, nếu vậy chúng ta nên đề cử một chúng sanh cho làm người khiển trách, những chúng sanh đáng khiển trách, hiệp theo duyên cớ, cho hủy báng, những kẻ đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, cho tẩn xuất những người đáng đuổi ra đúng theo duyên cớ, làm giúp việc cho chúng ta; về phần chúng ta thì nên hiến số lúa Sālī cho người ấy.

Nầy VāsetthaBhurā Dvāja, chúng sanh ấy vào kiếm người có sắc thân xinh đẹp, đáng nhìn xem, đáng ngưỡng mộ, có chức quyền to lớn, tức là đức Bồ-Tát.

Khi vào đến nói như vầy: Thưa Ngài, Ngài hãy khiển trách chúng sanh đáng khiển trách hiệp theo duyên cớ, hãy hủy báng chúng sanh đáng hủy báng hiệp theo duyên cớ, hãy tẩn xuất chúng sanh đáng đuổi ra theo duyên cớ, thì chúng tôi sẽ hiến phần lúa Sālī cho Ngài. Đức Bồ-Tát nhận lời với chúng sanh ấy rằng: Tốt! Rồi kể từ đó Ngài khiển trách các chúng sanh đáng khiển trách, hủy báng các chúng sanh đáng hủy báng, hoặc đuổi ra theo duyên cớ. Tất cả chúng sanh ấy đều hiến phần lúa Sālī cho Bồ-Tát.

Toàn chúng sanh tôn xưng Đức Bồ-Tát đó là: "Mahā sammatā" vậy, bởi có câu trích giải rằng: Mahājana sammatoti: Mahā sammato (chúng sanh nào) mà đại-chúng tôn xưng rồi (chúng sanh ấy) gọi là Mahā Sammati: Đại-Tôn hoặc Đại-vương, nghĩa là người mà phần đông tôn vương được phát sanh từ lúc ấy.

Có nhóm chúng sanh gọi đức Bồ-Tát bằng Hattiya: Vua bởi Đức Bồ-Tát là chủ của tất cả ruộng, do có câu trích giải rằng: Khettānaṃ adhipatīti Hattiyo (chúng sanh nào) là chủ của tất cả ruộng (chúng sanh ấy) gọi là khattiya vua, là đấng làm chủ đất nước có từ khi đó.

Có nhóm chúng sanh khác gọi Bồ-Tát là Rājā: Vương, thủ lãnh trong quốc-độ, bởi vì Bồ-Tát làm cho chúng sanh được mãn nguyện, đúng theo pháp, có câu trích giải rằng: Dhammenaparesam ranjetīti: Raja (chúng sanh nào) làm cho tất cả người khác mãn nguyện bằng pháp (chúng sanh ấy) gọi là Rājā: Người làm cho các chúng sanh khác được mãn nguyện bằng pháp, riêng rājā có từ lúc ấy.

Câu chuyện nầy dứt vắn tắt chỉ có thế.

Kể từ lúc ấy, cõi thế cứ có sự tiến triển và không tiến triển, xoay vần lên xuống nhiều lần nhiều lượt. Đây sẽ dẫn sự xoay vần lên xuống đó lại giảng giải theo trong bộ Dīgha nikaya ở bài kinh Cakka vatti như đây: Thuở nọ Đức Phật Chánh-Giác an ngự trong rừng Mātulā nơi xứ Māgadha.

Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết dạy chư Tỳ-khưu rằng: Bhūta pubbam bhikkhave rājā dalhanemi nāma ahosi cakkavatti dhammiko dhammarājā chāturanto vijjitāvī janapadatthā vavikayappatto sattaratana sammannāgato. Tassimāni satta ratanāmi v.v...

Nghĩa là: Nầy chư Tỳ-khưu! thưở đời quá khứ có một đức vua tên Dalhanemi làm vua Chuyển-Luân-Vương, ngài là vị vua hợp pháp làm lớn trên quả đất có bốn biển là nơi biên cương cuối cùng là vua thắng trận, ngài có thần dân hùng mạnh, ngài đầy đủ 7 thứ châu báu, đức vua Dalhanemi cai trị đất nước có bốn biển làm ranh giới, hợp pháp luôn khi, không cần dùng uy-quyền, chẳng cần dùng khí giới.

Đến thời gian trôi qua nhiều năm, nhiều ngàn năm, vua Dalhanemi mới phán với người cận thần rằng: Nếu người thấy bánh xe báu mất khỏi chỗ giờ nào, thì hãy báo tin cho trẫm trong giờ ấy, đến thời gian lâu hàng ngàn năm về sau người ấy thấy cái xe báu lìa khỏi chỗ bèn vào tâu cho đức vua rõ.

Thời ấy đức vua Dalhanemi hoàng tử lớn lại phán như vầy: Nầy con yêu quí của cha, nghe nói ngọc luân quí của mình đã mất rồi, điều nầy theo cha nghe rằng: Nếu bánh xe quí báu của vua chuyển-luân nào biến mất khỏi chỗ rồi thì kế đó vị vua ấy không sống lâu nữa đâu, còn về dục-lạc của nhơn gian cha đã thọ dụng no chán rồi, giờ nầy là giờ cha cần sưu tầm an lạc cao quí. Nầy con yêu dấu của cha, con hãy cai trị đất nước mà có biển là biên cương ấy đi.

Còn cha sẽ cạo đầu, cạo râu, mặc y cà-sa xuất gia tu hành. Đức vua phải phủ dụ đông cung trưởng tử cho thỏa thích trong ngôi vị đế vương xong rồi, ngài ra khỏi hoàng cung, ngự vào rừng tu đạo-sĩ. Trong khi đức đạo-sĩ mới tu được 7 ngày thì cái ngọc-luân quí ấy cũng mất luôn.

Kế sau đó thị-thần vào hầu đức Tân-Quân vừa mới tức vị và tâu cho lãm tướng rằng: Kính tâu lịnh thiên-tử, xin ngài tường, cái ngọc-luân quí báu biến mất đi rồi.

Đức vua nghe xong thì có lòng buồn rầu vô hạn, mới ngự đến hầu Đức Đạo Sĩ phụ hoàng và bạch rằng: Kính bạch phụ vương rõ, cái bảo luân đã mất rồi.

Đức đạo-sĩ phán dạy con như vầy: Nầy con, nếu xe báu mất đi thì con đừng buồn, đừng tủi gì cả, con hãy thực hành chuyển-luân pháp (Cakkabatti vatta) cho con thượng đi, nếu con thiệt hành chơn chánh rồi, ngọc-luân có một ngàn cái căm đầy đủ bằng mọi thể cách sẽ phát sanh rõ rệt đến cho con, hãy dọn mình cho thanh tịnh để thọ trì trai-tịnh-giới, nên ở yên trên bảo-điện trong những ngày trai tịnh.

Đức vua con bạch hỏi về pháp hành của chuyển-luân-vương được đạo-sĩ là phụ hoàng dạy rằng: Nầy con, nếu thế con chỉ nương theo pháp thôi, và làm lợi cho pháp, con cung kính pháp, trang trọng pháp, cúng dường pháp, kính nễ pháp, lấy pháp làm cớ, lấy pháp làm cầu, lấy pháp làm trọng, tổ chức về sự thống trị cho hiệp pháp đối với người bên trong là vợ, con, hoàng gia thân tộc, đối với toàn dân, hoặc số người quy thuận, các bậc trưởng giả trong xóm trong thôn, sa-môn, bà-la-môn và loài phi-cầm tẩu thú.

Nầy con, chẳng nên làm điều ác trong xứ của con nếu người nào trong xứ của con không có tài sản, con cần cho của cải đến người ấy.

Nếu có chư sa-môn, bà-la-môn nào, ở trong xứ của con là các bậc không dễ duôi, an trú trong pháp nhẫn nhục (Khanti) và pháp dễ dạy (Soracca) con hãy nên vào kiếm các sa-môn, bà-la-môn ấy luôn khi; nên học hỏi cho thông rõ về những nghiệp nào tội lỗi và không tội lỗi, nghiệp nào thiện và ác, khi con nghe lời chỉ dạy của các sa-môn, bà-la-môn rồi, con cần lánh xa nghiệp ác, và tu trì thiện nghiệp.

Nầy con, đây là pháp hành cao thượng của vua chuyển-luân-thánh-vương.

Đức vua con nghe lời giáo huấn của đạo-sĩ cha rồi, cố gắng thực hành pháp chuyển-luân-vương cao thượng ấy, dọn mình thanh-khiết để thọ trì bát-quan-trai giới, ngài an ngự trên bảo điện trong những ngày trai tịnh.

Khi ấy cái bánh xe báu có cả ngàn cái căm cũng phát sanh lên, vua thấy rõ rệt bèn nghĩ rằng: Bánh xe báu phát sanh đến vua nào, thì vua ấy là chuyển-luân-vương. Ồ! vậy ta là vua chuyển-luân-vương rồi đây!

Khi ấy đức vua rời khỏi chỗ ngự, choàng y phục chỉnh tề, tay trái cầm cái bình bằng vàng, tay mặt phủ lên bánh xe báu và chú nguyện rằng: Xin cho xe báu tiến hành vĩnh-cữu, xin cho xe báu có sự toàn thắng, khi ấy xe báu bay nổi đi đến hướng đông, vua chuyển-luân cũng nỗi bỗng theo bánh xe báu ấy, luôn cả quân binh. Nếu bánh xe báu để trú nơi quốc độ nào thì vua đóng đô tại đó.

Còn về các ông nghịch vướng ở trong hướng đông, thảy đều vào hầu đức vua chuyển-luân và tâu rằng: Tâu Đại-vương, đất nước của hạ thần là đất nước của Đại-vương, xin Đại-vương nhận và dạy dỗ cho.

Vua chuyển-luân bèn dạy rằng: Các người chẳng nên sát sanh, chẳng nên trộm cắp, chẳng nên tà dâm, chẳng nên nói dối, chẳng nên uống rượu và các chất say, trái lại hãy dùng các vật nên dùng.

Kế sau đó xe báu bỗng lên, bay đi đến các hướng Nam, Tây và Bắc, đức vua cũng bay bỗng theo như hành trình trước, ngài thắng kẻ nghịch trên toàn cõi, có biển làm ranh giới cho an trú trong ngũ giới cả, rồi ngài ngự trở về hoàng cung, xe báu đến trú trong chỗ tòa phân xử gần hoàng-thành, xe trú yên dường như gảy trục không chạy nữa và chiếu sáng làm cho cả hoàng thành rực rỡ.

Đức vua Chuyển-Luân nầy, đến già cũng trao ngôi cho hoàng tử đông cung theo hành trình phong tục của cha, được 6 vị vua sau cũng làm theo qui cũ ấy.

Đến đời vua thứ 7, không làm theo phong qui ấy cho nên xe báu chẳng phát sanh đến đức vua đó, vì ngài dạy dân theo tri kiến kém cõi của mình, trong đất nước vạn-dân không được an vui, tiến hóa như chư Tiên-Đế ngày xưa. Lúc đó các quan Đại-thần khâm thiên, kinh-tượng thủ hộ và các ngươi nuôi mạng bằng phù phép (Manta) đều hội họp nhau và phục tấu với vua rằng: Kính tâu Đại-vương, bá tánh không được tiến hóa như trong thời minh trị của chư Tiên-Đế là bậc thực hành chuyển-luân-vương pháp cao thượng.

Tâu Đại-vương, quần thần toàn là người thông-thuộc chuyển-luân-vương pháp, xin Đại-vương hỏi chúng hạ thần đi, chúng hạ thần sẽ giàu đáp dâng cho ngài.

Khi ấy đức vua hỏi pháp hành của Chuyển-Luân-Vương.

Họ cũng giải đáp hiến cho.

Khi đức vua nghe lời của các vị ấy giải bày, thì ngài chuẩn bị tổ chức thống trị hợp theo vương-pháp trở lại, song ngài lại không bố thí của cải đến cho mọi người nghèo, thế nên sự nghèo túng càng thêm lên. Khi sự túng thiếu nhiều thì có người lấy tài sản của người khác, gọi là trộm cắp, quân lính bắt được người ấy dẫn đến vua và tâu rõ việc.

Đức vua phán hỏi: Ngươi trộm của người ta phải không?

- Tâu Đại-vương, hạ thần có trộm thiệt.

- Bởi sao mà ngươi trộm?

- Sở dĩ hạ thần phải trộm là bởi không có vật chi để nuôi mạng sống.

Liền đó đức vua bố thí của cải đến người ấy và ngài dặn rằng: Người hãy lấy của cải đi tiêu dùng và phụng dưỡng cha mẹ, vơ con và hãy làm phước cúng dường đến sa-môn, bà-la-môn.

Người ấy tuân làm theo lời vua.

Về sau lại, phần đông người nghe tin vua bố thí cho kẻ trộm như thế bèn rủ nhau ăn trộm của người ta, càng nhiều thêm lên (ác nghiệp cũng khởi sanh trong thế gian càng nhiều thêm kể từ đó).

Kế sau có kẻ trộm, quân lính bắt nạp cho vua, đức vua phán hỏi nó trình bày như kẻ trộm trước. Khi ấy đức vua nghĩ rằng: Nếu ta cứ cho của cải đến kẻ trộm nầy nữa về sau chắc hẵn sự trộm cắp sẽ đầy dẫy trong thế gian, chi bằng ta phải răn trị bằng lối cắt đầu bọn trộm cướp. Đức vua bèn phán thị thần rằng: Các khanh hãy trói xếp cánh người nầy cho chặt, rồi cạo đầu cho sạch, đánh trống dẫn đi khắp các nẽo đường, xong đem ra cửa nam môn mà cắt đầu đi. Quân lính làm theo lệnh nhà vua, nhiều người nghe tin rằng: Đức vua cho cắt đầu kẻ trộm như thế thì rủ nhau tạo khí cụ rất bén, rồi dẫn nhau đi cướp của, giết người trong thôn xóm, châu thành, người qua đường v.v... đọat lấy của cải, rồi chém giết tài gia nữa, sự sát sanh khởi đầu trong thế gian từ lúc đó.

Trong khi đức vua không bố thí tài sản cho dân nghèo thì sự trộm cắp có nhiều, sự sát sanh cũng thêm nhiều nữa.

Kế đó lại có một người trộm, quân lính bắt đem nạp cho vua, đức vua phán hỏi như trước, nó không dám khai thật vì sợ vua giết, nên nói dối không trộm cắp bao giờ cả, sự nói dối đã khởi đầu phát sanh trong thế gian, hể khi sự nói dối có rồi thì bốn điều hạnh phúc là: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh của chúng sanh phải sụt xuống, còn tám vạn năm, qua một thời gian lâu, bị giảm xuống còn bốn vạn năm, con cháu của các người bốn vạn tuổi đó lại có người trộm cắp, nhiều người ghét kẻ gian nên đi tâu vua bằng lời đâm thọc cho vua nghe đặng bắt kẻ trộm ấy, lời nói lưỡng thiệt cũng phát sanh rõ rệt trong thế gian, con cháu của nhóm người hai vạn tuổi do đó phải bị giảm xuống còn một vạn năm.

Trong số người tuổi thọ một vạn, có kẻ sắc thân đẹp, có kẻ sắc thân xấu xí, người thân hình xấu lại thương kẻ có sắc thân xinh đẹp, cho nên hành động tà với con vợ kẻ khác. Sự tà dâm phát khởi lên trong thế gian, kể từ đó.

Con cháu của người một vạn tuổi, cũng bị giảm xuống còn năm ngàn năm, trong khi nhơn loại còn năm ngàn tuổi, thì có hai ác pháp là: ác ngữ (Pharusavācā) và vô ích ngữ (Samphappalāpa) cũng phát sanh lên. Con cháu của những năm ngàn tuổi cũng bị giảm xuống còn hai ngàn năm trăm năm, có hai ác pháp là: Liếc xem của người hoặc tham (Abhijjhā) và hủy hoại kẻ khác hoặc sân (Abyā pāda) cũng phát sanh lên trong thế gian, kể từ đó.

Con cháu của người hai ngàn năm trăm tuổi cũng bị giảm xuống còn một ngàn năm, có một ác pháp là: Tà-kiến (Micchā diṭṭhi) cũng phát sanh lên trong cõi người từ khi đó.

 

GIẢI RÕ THẬP ÁC

Thập ác nghiệp phát sanh trong thế gian, không phải sanh theo thứ tự giống như thập thiện nghiệp mà trái lại sanh như thế nầy:

1) Adinnādānā: Trộm cắp.

2) Pānātipātā: Sát sanh.

3) Musāvāda: Nói dối.

4) Pisunāvādā: Nói hai lưỡi.

5) Kāmesumicchācāra: Tà dâm.

6) Pharusavācā: Nói lời độc ác.

7) Samphappalapa: Nói lời vô ích.

8) Abhijjhā: Liếc xem của kẻ khác, muốn đem về phần mình.

9) Byāpāda: Cố ý hủy hại kẻ khác.

10) Micchā diṭṭhi: Tà kiến, hiểu lầm, quấy cho là phải, phải cho là quấy.

Về thập thiện nghiệp pháp sanh như vầy:

1) Lánh xa sự sát sanh.

2) Lánh xa sự trộm cắp.

3) Lánh xa sự tà dâm.

4) Lánh xa sự nói dối.

5) Lánh xa sự nói hai lưỡi.

6) Lánh xa sự nói độc ác.

7) Lánh xa sự nói lời vô ích.

8) Lánh xa sự liếc xem của kẻ khác, mong đem về phần mình.

9) Lánh xa sự cố ý hủy-hoại kẻ khác.

10) Lánh xa sự tà kiến.

Hễ khi thập ác nghiệp phát sanh nhiều trong thế gian, thì con cháu của người một ngàn tuổi cũng bị giảm xuống năm trăm năm. Trong khi ấy có ba ác pháp cũng phát sanh lên nữa là:

1) Adhammarāgā: Luyến-ái sái với pháp điều: nghĩa là người có sự luyến ái trong cha, mẹ, chú, bác, cô, dì và anh em ruột của mình.

2) Visamalobha: Muốn được quá độ, muốn được bất kể pháp luật, nghĩa là cái không đáng cho ta cũng muốn, ở trong quốc độ kia lại muốn được vật trong quốc độ nầy, ở nơi xứ nầy lại muốn được vật nơi xứ khác v.v...

3) Micchā dhamma: Mong mõi trong tà pháp, nói về sự thỏa thích của người nam với người nam, người nữ với người nữ.

Hễ khi cả ba pháp nầy phát sanh nhiều rồi thì con cháu của người năm trăm năm tuổi bị giảm xuống hai trăm năm chục năm; khi ấy người ta không mấy gì biết cung kính cha, mẹ, thầy tổ, bậc trưởng lão, tuổi thọ nó cứ bị giảm xuống còn một trăm năm.

Trong thời kỳ tuổi thọ con người còn 100 năm có vị Bồ-Tát tiền thân Phật Thích-Ca, từ cung trời Đâu-Suất-Bà, giáng sinh vào lòng bà Māyā, là chánh-hậu của vua Suddho-dāna tại thành Kapilavatthu.

Ngài xuất gia thành Phật: Đức Thế-Tôn nhập Níp-Bàn trong lúc đúng tám mươi tuổi. Có chú nguyện giáo pháp tồn tại năm ngàn năm. Bây giờ đây Phật giáo đã trải qua hết hai ngàn năm trăm lẻ bốn (2.504) năm rồi, tuổi thọ con người hiện tại đây giảm xuống còn chừng 75 tuổi thôi. Bởi theo sách cho tính như vầy: Cứ trải qua một trăm năm giảm xuống một tuổi.

Sự giảm thọ của chúng sanh đây chưa tột mức đâu, còn giảm xuống nữa, cho đến loài người chỉ có tuổi thọ mười năm, như lời Phật thuyết trong kinh Dīgha nikāya rằng:

Bhavissati bhikkhave so samayo yaṃ imesuṃ manus-sanaṃ dasa vassāyukāputtā bhavissati v.v...

Nghĩa là: Nầy chư Tỳ-khưu! Kế đến thời gian sau sẽ tới lúc con cháu những người nầy thọ mười tuổi, hễ khi người đời mười tuổi là thượng-thọ, phụ nữ 5 tuổi là vừa cho có chồng. Nầy chư Tỳ-khưu! Trong khi người đời mười tuổi thượng-thọ, thì mật sữa đặc, dầu nước mía, muối sẽ mất hết, loài người sẽ ăn cỏ trường- diệp, lấy cỏ trường-diệp làm vật thực?

Cả thập thiện nghiệp tiêu vong hết, cả thập ác nghiệp phát triển, những người hiếu kính cha mẹ cũng mất hết, người đời bạo tàn không kể quấy phải, như loài súc sanh vậy, sẽ phát sanh sự tai hại to lớn trong thời kỳ ấy, gọi là Satthantara Kappa (đao-binh-tai) nghĩa là tất cả người trong thế gian bị tiêu hoại bởi khí cụ.

Trong khi phát khởi đao-binh-tai, thì loài người có khí giới đều nhau cả, thấy loài người giống nhau, dường như kẻ săn bắn thấy thú rừng, nghĩa là cha mẹ thấy con, con thấy cha mẹ, khỏi sự nóng nảy rượt theo chém nhau trong vòng 7 ngày chết tiêu cả. Trên mặt đất toàn là máu: Khi qua khỏi 7 ngày có số ít người chạy trốn thoát trong rừng vắng, hang sâu v.v... cũng ra kiếm gặp nhau, trong cả xứ chỉ còn sót vài ba người, khi gặp thì ôm hôn và nói lời nhỏ nhẹ với nhau, có tâm thương mến như anh em ruột.

Sự phát khởi Satthantara nầy, nếu tính từ khi Phật lịch từ 2504 năm nầy, thì chỉ còn 6.496 năm nữa là tới rồi (tính bằng lối trải qua một trăm năm, giảm xuống một tuổi, trong tổng số 9.000 năm từ lúc Phật ra đời).

Nói về các người còn sống sót lại, khi được gặp nhau thì nhóm bàn với nhau như vầy: Nhân loại sở dĩ tiêu hoại toàn cả thế giới như vầy chỉ bởi sự hành động ác pháp. Vậy thì chúng mình nên thực hành thiện pháp.

Giờ đây hành động bằng cách nào?

Chúng ta nguyện quyết tâm lánh xa sự sát sanh, bởi vì tất cả chúng sanh trong thế gian, toàn là muốn sống đều nhau cả, nếu ta giết kẻ khác, thì chúng ta ắt phải bị chết như họ chẳng sai.

Khi đã bàn tính như thế rồi thì cùng nhau cử hại sát hại sanh vật. Điều thiện nghiệp thứ nhứt được tái phát trong thế gian kể từ khi ấy (chỗ khác nói, khi tất cả chúng sanh đã gìn giữ một điều thiện nghiệp rồi, có một đám mưa rất lớn, cuôn lôi tất cả tử thi xuống sông, biển, và có hoa quí rơi xuống rất nhiều.).

Do đó con cháu của những người 10 tuổi, sẽ được tiến hóa lên đến 20 tuổi mới chết.

Sau một thời gian lâu xa, số người ấy bàn nghĩ với nhau rằng: chúng mình sở dĩ được tăng tuổi thọ lên đây là nhờ thực hành thiện pháp thế cho nên chúng ta hãy cố gắng thực hành thiện pháp cho nhiều thêm lên nữa.

Tất cả nhơn loại cùng nhau hành trì thiện nghiệp tuần tự cho đến tròn đủ cả 10 điều, khiến cho tuổi thọ cứ tăng tiến lên mãi, cho đến khi con người có tuổi thọ đến 8 vạn năm (Naya khác nói rằng: Tuổi thọ tăng lên đến một A-tăng-kỳ, rồi mới giảm trở xuống).

Nhân loại 8 vạn tuổi thì các nàng thanh nữ phải năm trăm tuổi mới vừa có chồng.

Bịnh tật của nhân loại trong thời kỳ ấy chỉ có 3 thứ là:

1) Muốn trong vật thực.

2) Ăn vật thực không được.

3) Sự tiều tụy thân thể.

Trong khi nhân loại có 8 vạn tuổi, cõi Diêm-Phù nầy là nơi phong phú to lớn, có thủ đô, xứ sở kế kế nhau, chừng một khỏang con gà bay rơi xuống, đầy cả người kiếm không thấy chỗ trống, tạm ví như chúng sanh trong địa ngục vô-gián, không thì như rừng cây sậy, hoặc như rừng cây dừng núi.

Xứ Bārānasī hằng ngày đây lúc ấy cũng dùng tên là hoàng thành Ketumatī.

Trong cõi Diêm-Phù nầy có 8 muôn ngàn quốc-độ, nhất là quốc-độ Ketumanī, có một vị Đại-vương danh hiệu Sankha, sanh làm vua chuyển-luân-vương trong cõi ấy, làm lớn trên quả địa cầu, có bốn biển là ranh giới, ngài có quốc dân vĩnh-cữu, đầy đủ bảy báu.

Đến thời gian trãi qua rất lâu, Đức Phật-Thế-Tôn hiệu Metreyya (Di-Lặc) sẽ ra đời, ngài sanh vào làm con trong dòng Bà-la-môn to lớn nhất trong xứ Ketumatī ấy, mẹ ngài tên Brahma Vāti, cha tên Subrahmā.

Thời ấy nhân loại trong thế gian đầy đủ sự an lạc, đầy đủ về mọi mặt, dường như chư-thiên ở trong các cõi trời.

Đức Phật Mettreyya tuổi thọ tám vạn năm mới nhập Níp-Bàn, xong một ít lâu nữa, cõi đất (Bhadda kappa) chúng ta ở nầy sẽ tới tuổi bị lửa cháy làm cho tiêu hoại hết.

Bởi cớ ấy xin các hàng Phật tử hãy cố gắng thực hành thiện pháp cho đều nhau cả thảy đi, xin chớ bỏ qua.

Dứt Kappa Kathā vắn-tắt.

​...................................................................

 

PHỤ BẢN

 

Sau khi các độc giả xem qua quyển Kappa Kathā không khỏi phân vân khó hiểu, ví có lắm điều vượt hẳn trình độ tri-kiến của chúng ta, đại khái như có nhiều đạo giáo nói đến "Đấng Tạo-Hóa dựng nên trời đất v.v...".

Theo kinh Phật trong chỗ nầy, thì không chỉ cho một đấng nào cả, mà trái lại dùng chữ "Pháp Tạo-Hóa thế gian" với tri giác siêu phàm của Đức Phật, không phải như cái kiến thức nhỏ hẹp của các người khác, chỉ biết nói đến một thời hạn ngắn và một đối tượng do cá nhân nào đó sáng lập ra thôi, khi đi sâu và vấn đề, thì cụt đường bí lối.

Riêng Đức Phật Thích-Ca nói đến pháp tạo-hóa, tức là do chúng duyên hiệp thành, chúng duyên chỗ nầy là dựa vào trạng thái thiên nhiên của vũ trụ, đồng thời cũng do sự tương quan mật thiết nhân duyên lành và dữ, tức là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp vậy.

Đoạn trước đã nêu rõ thập ác nghiệp và thập thiện nghiệp để quí vị thấy rằng ta cần chừa bỏ hoặc lánh xa điều ác, nên tu tập pháp lành.

Lời Phật dạy có rất nhiều, nhưng đây tạm nói ba pháp lành là nguyên nhân phát sinh phước như sau đây:

- Bố thí (Dāna).
- Trì giới (Sīla).
- Tham thiền (Bhāvanā).

Sự bố thí để giúp cho kẻ khác được an vui, ấy là ta sẽ được phước báu. Ngoài đó ra lại còn trưởng-dưỡng các đức tánh tốt, khiến cho tâm ta mát mẽ vui tươi, mỗi kiếp sanh nào được sanh ra cũng được đầy đủ hạnh phúc, nhất là có sắc thân xinh đẹp, túc-y, túc-thực.

Sự trì giới là phương tiện răn cấm không cho thân làm, khẩu nói điều ác, bất cứ một điều nào nếu ta chẳng có giới, chắc hẳn không trước thì sau, cũng sẽ làm hoặc nói tội lỗi độc ác, rồi bị sa đọa chẳng sai. Người có giới chắc chắn sẽ đi trên con đường an lạc.

Sự tham thiền là phương pháp để tu tâm; công nhận là tâm khó tu lắm, nhưng khi tu được rồi, ta sẽ thấy nó vô cùng giá trị, thử nghĩ như nước đục ta không thể dùng vào một việc gì khác, xong khi nước trong rồi sẽ trở thành hữu dụng vô cùng.

Tâm phàm tục cũng bợn nhơ như nước đục kia vậy. Mọi người muốn nước trong cũng như bậc hành giả cố gắng tu cho thân tâm đến mức thanh tịnh, ngõ hầu đạt được lợi ích cao thượng.

Lẽ thường, miếng chín ai cũng muốn ăn, nhưng khó là khi nhúm lửa bắt nồi; nước trong ai cũng muốn uống song làm cho trong mới là khó. Tâm phiền não ô trọc mà người khéo léo dùng đúng phương pháp như:

- Nước đục đổ vào lu, tâm phàm thể vào giới, lu nước để lóng trong, tâm phàm có tu định.

- Nước trong gặn cặn bỏ, tâm phàm diệt bằng huệ.

Khi đã bỏ cặn-cáu, chỉ còn thanh-thủy thuần nhất, cũng như tâm ô-trược, đã dùng Giới-Định-Huệ diệt trừ gặt bỏ sạch hết rồi ấy là tâm giải thoát. Tâm cởi bỏ hết phiền não và nghiệp chướng rồi, đạo quả thánh nhơn sẽ rõ rệt, thế là tuệ giải thoát đã minh hiện đầy đủ. Bậc thánh nhân đạt đến quả vị siêu thoát, dù đang sống không lo ngại gì về vấn đề Thành-Kiếp, Hoại-Kiếp ... cả.

Bởi các ngài không còn hột giống sanh tử luân hồi để bắt buộc phải sanh lai tử biệt như mọi người khác nữa. Chính các ngài chỉ tịch-tịnh Níp-Bàn mà thôi vậy.

 

Hòa thượng GIỚI NGHIÊM THITASĪLO

http://khaidoan.com.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Luan-Giai/Giai-Ve-Kiep-1473


Âm lịch

Ảnh đẹp