Thiền sư cũng là một con người, một thi nhân; vậy thì không có lý do gì khiến họ không thưởng thức cái đẹp mà tạo hóa ban cho:
“Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi”.
(Xuân hiểu - Trần Nhân Tông)
Ngủ dậy ngỏ song mây,
Xuân về vẫn chưa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phất phới quện hoa bay.
(Ngô Tất Tố dịch) (1)
Mới đọc bài thơ, ta có cảm tưởng mùa
Xuân ở đây dường như âm thầm trở về, vì không có một dấu hiệu nào báo
trước. Và cũng không rõ là do xuân đến một cách âm thầm nên người ta
không nhận ra hay vì đắm say trong giấc ngủ mà không biết xuân đã về,
mãi đến lúc nhìn thấy “Song song đôi bướm trắng, phất phới quện hoa bay”
mới khiến cho người ta biết chắc Xuân đã thực sự trở về.
Rõ
ràng là mùa Xuân đã đến rồi, chứ không phải đợi đôi bướm xuất hiện hay
hoa nở xuân mới đến. Câu “Ngủ dậy ngỏ song mây, xuân về vẫn chưa hay”
chỉ là một cách nói, để tạo ra một sự yên lặng của cảnh vật chung quanh,
từ đó làm nổi bật lên sự nhộn nhịp của vạn vật khi xuân sang, cụ thể ở
đây là đôi bướm trắng bay tìm hoa. Mùa Xuân ở đây được miêu tả tuy rất
giản đơn, chỉ thể hiện qua đôi bướm tìm hoa nhưng cũng đủ làm rõ được sự
nhộn nhịp, vui tươi của lòng người và cảnh vật.
Thực sự thì cảnh xuân còn bao nhiêu thứ khác nữa, chứ đâu chỉ có thế:
“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi”.
(Xuân cảnh - Trần Nhân Tông)
Chim nhởn nha kêu liễu trổ đầy,
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.
(Huệ Chi dịch) (2)
Khởi đầu của bài thơ trước có phần trầm
lặng bao nhiêu thì khởi đầu bài thơ này nhộn nhịp, vui tươi bấy nhiêu;
bởi lẽ cảnh vật ở đây có vẻ sôi động hơn nhiều. Tuy rằng mùa Xuân được
miêu tả có chim hót líu lo, có hoa thơm cỏ lạ nhưng giọng điệu chủ đạo
của bài vẫn chứa đựng cái tinh thần trầm lắng và nhàn nhã chứ không
huyên náo, ồn ào. Đọc hai câu thơ đầu, ta dễ dàng nhận thấy ngay sức
sống mới đang tuôn chảy trong vạn vật, mọi thứ đều chuyển mình khi xuân
đến. Cảnh vật ở hai câu này đều trong trạng thái động, nhưng cái động
này là để làm nổi bật cái trầm lắng và thanh nhàn ở câu sau:
“Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây”
Nếu như ở bài thơ trước dùng cái tĩnh
lặng của mọi sự vật chung quanh để diễn đạt sôi động của mùa Xuân, thì ở
bài này dùng cái động của mùa Xuân để tả cái thanh nhàn và u huyền của
lòng người. Tinh thần siêu nhiên thoát tục thể hiện rõ ở việc khách đến
chơi không quan tâm đến chuyện trần tục mà chỉ cùng nhau ngắm cảnh đẹp
của mùa Xuân. Chính lúc không để tâm vào những chuyện thị phi, đắc thất,
thịnh suy… của cuộc đời mới có được trạng thái thanh nhàn và siêu
thoát. Và từ đó mới có thể ngắm nhìn tường tận vẻ đẹp của vạn vật quanh
ta.
Trong cái nhìn của Trần Nhân Tông, mùa
Xuân thật tươi đẹp nhưng không huyên náo, ồn ào mà rất nhàn tịch, thanh
đạm. Nó đồng điệu với tâm hồn an lặng và siêu thoát của tác giả.
Khi
tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy
là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng,
thậm chí còn rất trân trọng món quà quý giá này. Mùa Xuân đến, các
Thiền sư cũng vui xuân, cũng ngắm hoa thơm cỏ lạ, cũng thưởng thức tiếng
ca hát của chim muông như bao nhiêu người khác; nhưng chỗ đặc biệt của
các Thiền sư là khi xuân ra đi lòng các ngài vẫn an nhiên và tự tại. Lý
do nào đã tạo nên điều đó? Tuy thật sự quý trọng cái đẹp nhưng các Thiền
sư không đắm nhiễm hay tham luyến cái đẹp, bởi các ngài nhận thức rằng
mùa Xuân là một hiện tượng tự nhiên nằm trong dòng sinh diệt. Xuân đến
thì đón chào, xuân đi thì tiễn biệt, chẳng có chi phải bận lòng:
“Nhất niên xuân tận nhất niên xuân,
Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân.
Thiên hiểu bất nhân chung cổ động,
Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân”.
(Bổn Tịnh Thiền sư) (3)
Một năm xuân trọn một năm xuân,
Cỏ dại non hoa mấy độ tươi.
Trời sáng chẳng do chuông trống động,
Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.
(Thích Thanh Từ dịch) (4)
Hai câu đầu nói về xuân, hai câu sau nói
về tính khách quan của vạn vật. Không đọc kỷ bài thơ, sẽ thấy chúng
chẳng có quan hệ gì với nhau.
Tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ tồn tại một cách khách quan, chúng vận hành theo quy luật tự nhiên.
Chẳng hạn chuông trống canh không điểm thì trời vẫn sáng, không có người
đi đường vào ban đêm thì trăng vẫn cứ tròn và soi chiếu. Thời tiết đến,
nhân duyên hội đủ thì vạn vật xuất hiện và tồn tại; khi thời tiết, nhân
duyên phân tán thì vạn vật không còn hiện hữu nữa. Đó là tính khách
quan của vạn vật.
Mùa xuân cũng vậy; nó đến đi theo quy
luật tự nhiên, theo sự tuần hoàn của vũ trụ, tồn tại không dài hay ngắn
hạn. Nếu chúng ta đem ý chí chủ quan của mình áp đặt vào sự vật, hiện
tượng buộc chúng tồn tại và hoạt động theo mình thì không những chúng ta
không gặt hái được kết quả như mong đợi mà còn chuốc lấy muộn phiền. Vì
thể nghiệm được điều đó nên Thiền sư Bổn Tịnh không bận lòng đến cái
sinh diệt, đến đi của mùa Xuân. Ngài sống hài hòa và hướng thuận theo
quy luật vận hành của vũ trụ, cho nên ngài có được sự tự tại và niềm an
lạc trước dòng sanh diệt của cuộc đời. Quan niệm này là chỗ gặp gỡ giữa
Thiền sư Bổn Tịnh và Giác Hải:
“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bổn lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì”.
(Giác Hải Thiền sư) (5)
Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo,
Thấy hoa mặc bướm để lòng chi.
(Ngô Tất Tố dịch) (6)
Hễ
mùa Xuân đến thì hoa thơm rộ nở, ong bướm cũng theo đó mà tụ hội về.
Việc này xưa nay chưa từng thay đổi. Đứng trước vẻ đẹp của mùa Xuân,
Thiền sư Giác Hải chẳng ngần ngại thưởng thức, rồi cầm bút miêu tả.
Nhưng không dừng lại ở đó, ngài còn nhìn thấy rõ bản chất của các hiện
tượng trên là hư huyễn, chúng không trường tồn, không vĩnh hằng; tất cả
hoa, bướm có đẹp đến mức nào thì cũng tàn phai theo thời gian. Chính vì
lẽ đó mà Thiền sư chẳng vương vấn về sự tàn nở của hoa, sự ra đi hay trở
lại của mùa Xuân. Khi đối cảnh, tâm của Thiền sư rất bình lặng; nó tợ
như tấm gương, sự vật hiện tượng nào đến trước gương thì gương phản
chiếu hình ảnh của sự vật hiện tượng đó, nhưng khi sự vật hiện tượng đó
ra đi thì gương không lưu hình ảnh của chúng lại và gương vẫn sáng soi
bất động:
“Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo,
Thấy hoa mặc bướm để lòng chi”.
Biết thưởng thức cái đẹp là khó, nhưng
thưởng thức cái đẹp mà lòng không say đắm và chiếm hữu nó thì càng khó
hơn. Chỉ có những người nào nhìn đời, nhìn người bằng tuệ giác-vô ngã
mới có được trạng thái như vậy. Bằng ngược lại, khi tiếp xúc với cái
đẹp, lòng không những không được tự tại mà còn khởi lên tham sân, phiền
não. Chắc chắn rằng vì nhìn cuộc sống bằng tuệ giác-vô ngã nên dù xuân
thời gian đã ra đi mà lòng của các Thiền sư vẫn còn mãi một niềm vui vô
tận:
“Xuân nhật xuân sơn lý,
Xuân sự tận giai xuân.
Xuân quang chiếu xuân thủy,
Xuân khí kết xuân vân.
Xuân khách tình xuân động,
Xuân thi xuân cánh tân.
Duy hữu thức xuân nhân,
Vạn kiếp nguyên nhất xuân”.
(Phật Nhãn Thiền sư) (7)
Ngày xuân, xuân trong núi,
Việc xuân thảy đều xuân.
Hồ xuân ánh xuân chiếu,
Khí xuân kết mây xuân.
Khách xuân lòng xuân động,
Thi xuân, xuân càng tươi.
Chỉ có người biết xuân,
Muôn kiếp một mùa Xuân.
(Thích Thanh Từ dịch) (8)
Bài thơ này rất đặc biệt, tất cả các câu
đều có hai từ “xuân”, trừ hai câu cuối chỉ có một từ “xuân”. Chính vì
chỗ mỗi câu đều được bố trí từ “xuân” như vậy nên tạo cho ta cảm giác
mùa Xuân đang trùm khắp vạn vật, dường như không nơi nào xuân không hiện
hữu. Và từ “xuân” ở đây đã mở rộng biên độ nghĩa của nó, xuân còn là
cái đẹp trong tự nhiên và cuộc sống.
Cái khéo của tác giả là chỉ dùng một vài
hình ảnh cụ thể nhưng rất khái quát để diễn đạt tính khách quan và phổ
biến của cái đẹp, của mùa Xuân. Nhìn lên trên thì ta bắt gặp “xuân vân”,
“xuân sơn”; nhìn xuống dưới thì ta thấy “xuân thủy”; ngoài ra còn có
“xuân quang”, “xuân khí” đang bao trùm và soi sáng mọi nơi. Cả không
gian: Xa, gần, cao, thấp, rộng, hẹp… đều chìm ngập trong xuân. Nhưng
không chỉ có thế, ở đây còn có sự giao hòa giữa cảnh vật và con người.
Nếu như ở bốn câu đầu mùa Xuân len lỏi vào vạn vật thì ở các câu sau mùa
Xuân thấm vào tận lòng người:
“Xuân khách tình xuân động,
Xuân thi xuân cánh tân”.
Hai câu này bộc lộ rõ thần thái rạo rực
và hạnh phúc trong lòng người trước cảnh tươi đẹp của mùa Xuân. Cái tươi
đẹp của mùa Xuân hòa cùng nét thanh tú của con người làm cho đất trời
thêm rực rở, và giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Xuân làm cho
lòng người trẻ hơn, đẹp hơn; ngược lại hoạt động của con người làm cho
xuân thêm ý nghĩa.
Đến hai câu cuối:
“Duy hữu thức xuân nhân,
Vạn kiếp nguyên nhất xuân”.
Chữ “xuân” ở câu trên là chân lý, còn ở
câu dưới nó có nghĩa là niềm vui, niềm hạnh phúc. Thực vậy, muốn có niềm
vui muôn thuở thì phải hiểu rõ chân lý trong cuộc sống. Tức phải thấy
được xuân thời gian thì hữu hạn, xuân có đến thì có ra đi, hoa có nở thì
có tàn; mọi thứ đều nằm trong dòng sinh diệt, vô thường. Sống thuận
theo dòng chảy của tự nhiên, xuân đến thì nghinh đón, xuân đi thì tiễn
biệt. Có như thế lòng mới đạt được niềm an lạc vĩnh hằng, mới hưởng được
“mùa Xuân muôn thuở”.
Như vậy, các Thiền sư dùng tuệ giác để
nhìn đời, nhìn cuộc sống. Trong mắt của mình, mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới đều đổi thay, đều hư huyễn; cho nên sự sinh diệt của mùa
Xuân chẳng làm các ngài bận lòng. Thái độ sống của các Thiền sư là “Tùy
duyên nhi bất biến, bất biến nhi tùy duyên”. Mùa Xuân của đất trời không
phải không đẹp nhưng cái đẹp đó chỉ là cái đẹp hữu hạn, cái đẹp thực
sự, mùa Xuân thực sự chính là chân lý cuộc sống.
Một điểm đặc trưng khác trong cái nhìn
của các Thiền sư khi mùa Xuân đến là từ sự nở tàn của hoa cỏ, sự sinh
diệt của mùa Xuân, sự biến đổi nơi thân thể của mình; các ngài nhận ra
một chân lý phổ biến, tồn tại một cách khách quan trong cuộc đời. Chân
lý ấy là: Vạn vật và con người trên thế gian này đều chịu sự chi phối
của nguyên lý vô thường. Từ nhận thức này, các Thiền sư không để tâm
duyên theo vẻ đẹp và niềm vui giả tạo, hư huyễn của xuân thời gian mà an
trụ vào cái đẹp tuyệt đối và niềm hỷ lạc nhiệm mầu của tâm xuân, của
bản giác xuân ở lòng mình. (Còn tiếp)
(1) Trần Lê Sáng (chủ biên),1997, Tổng tập văn học Việt Nam quyển 2, NXB KHXH Hà Nội, tr. 337.
(2) Trần Lê Sáng (chủ biên),1997, Tổng tập văn học Việt Nam quyển 2, NXB KHXH Hà Nội, tr. 341.
(3) Thiền sư Bổn Tịnh (?-761): Môn đệ Lục tổ, đời thứ I.
(4) Trích theo Thích Thanh Từ, 1991, Xuân trong cửa thiền, Thành hội Phật giáo Tp.HCM ấn hành, tr. 74.
(5) Thiền sư Giác Hải (?-?): Đời thứ 10 dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi.
(6) Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích, 1993, Thiền uyển tập anh, NXB Văn Học Hà Nội, tr. 142.
(7) Thiền sư Phật Nhãn (?-1119): Hiệu Thanh Viễn, thuộc phái Dương Kỳ, tông Lâm Tế đời thứ 11, đời thứ 15 sau Lục tổ.
(8) Trích theo Thích Thanh Từ, 1991, Xuân trong cửa thiền, Thành hội Phật giáo Tp.HCM ấn hành, tr. 200.
●
"Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay - số 13