I
Về hình thức, trai đàn này dựa trên nền
tảng của triết học Mật giáo. Tức bố trí theo một hình thức đơn
giản của mạn-đà-la (maṇḍala)[2].
Đó là một vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở
trọn, và vòng tròn này là căn bản vũ trụ luận của Mật giáo.
Thông thường, có hai bộ mạn-đà-la. Kim cang giới mạn-đà-la (vajradhātu-maṇḍala)
biểu tượng cho trí tuệ sở chứng của Phật. Thai tạng giới
mạn-đà-la (garbhadhātu-maṇḍala) biểu tượng cho phương
tiện độ sinh của Ngài[3].
Mỗi mạn-đà-la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa
giáo. Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau.
Trước hết, chúng ta nên biết rằng theo
quan điểm truyền thống của Phật giáo, vũ trụ gồm hai thành phần.
Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay các loài hữu tình
làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm biểu hiệu
cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân cách,
là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật.
Nhân cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Chúng tập họp thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là
uẩn. Thế giới của nhân cách được cấu tạo bởi năm yếu tố, gọi là
năm đại[4]:
địa, thủy, hỏa, phong và không.
Trên cơ sở giáo nghĩa này, trước hết
mạn-đà-la của Kim cang giới được thiết lập để biểu hiện trí tuệ
sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì
hủy hoại được. Do đó kim cang được vận dụng như một khái niệm cụ
thể hoá yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là Kim cang bất hoại
thân (vajrasaṃhatanakāya). Thân ấy, cũng như thân của tất
cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn, và năm đại cấu thành.
Nhưng tồn tại của Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của
Phật trí. Do đó, năm đại tương ứng với năm trí (pañca jñānāni).
Và nhân cách của Phật, như là chỉnh thể thống nhất của tồn tại
và nhận thức, được biểu hiện thành năm đức Như lai tương ứng,
tức là Ngũ trí Như lai, hay năm vị Thiền Phật (pañca
dhyānibuddhāḥ)
Kim cang giới mạn-đà-la thuyết minh hoạt
dụng của trí tuệ sai biệt trong lý tính không sai biệt, do đó
Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn-đà-la này. Hình dạng cơ bản
là một hình tròn, gọi là nguyệt luân (candra-maṇḍala).
Bên trong hình tròn này thiết lập các biểu tượng của năm vị Như
lai. Chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ-lô-giá-na, hay Đại Nhật
Như-Lai (MahāVairocana-Tathāgata). Đó là Pháp thân Phật (DharmakāyaBuddha),
như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp
cả vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại (ākāśadhātu),
và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là
biểu tượng của thức uẩn (vijñāna-skandha). Trong năm loại
trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí (dharma-dhātu-svabhāva-jñāna).
Bốn phương chung quanh Đại Nhật Như lai là
vị trí của bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến
Bắc như sau:
A-Súc-Bệ Phật (Akṣobhya), hay
Bất-Động Như Lai với các biểu tượng: Phong đại (vāyu-dhātu),
nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn (saṃskāra-skandha),
động cơ tạo tác của các loại hữu tình; đại viên cảnh trí (ādarśa-jñāna),
như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng
sinh thành và hủy diệt của thế giới.
Bảo Sinh Phật (Ratnasambhava) với
các biểu tượng: hỏa đại (tejo-dhātu), khả năng làm chín
muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh và thế
giới; tưởng uẩn (saưjñā-skandha), khả năng truy ức quá
khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa;
bình đẳng tánh trí (samatā-jñāna), khả năng quan sát bình
đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp.
A-di-đà Phật (Amitabhā): thủy đại (ab-dhātu),
khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên
khởi; thọ uẩn (vedana-skandha), khả năng hưởng thụ thành
quả của các vận động; diệu quán sát trí (pratyavekśaṇā-jñāna),
nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng sinh khởi, tồn
tại và hủy diệt.
Bất Không Thành Tựu Như lai (Amoghasiddhi):
địa đại (pṛthivī-dhātu), khả năng duy trì sự tồn tại của
vũ trụ; sắc uẩn (rūpa-skandha), tác thành thế giới hữu
tình; thành sở tác trí (kṛtyānuṣṭhāna-jñāna), thể hiện
các phương tiện giáo hóa chúng sinh.
Mỗi đức Như lai đều có bốn Bồ tát thân
cận. Tất cả là mười sáu Đại bồ tát. Ngoài ra, nội đàn có bốn
cúng và ngoại đàn bốn cúng; tất cả tám cúng dường bồ-tát. Cùng
với bốn Nhiếp bồ tát nữa. Cơ bản, Kim cang giới mạn-đà-la có tất
cả ba mươi bảy tôn vị.
Thai tạng giới biểu hiện đại bi tâm của
Phật, từ đó lưu xuất tất cả các phương tiện độ sinh. Từ Thai
tạng giới, vạn pháp được thai nghén và dưỡng dục, cho đến thành
tựu các phẩm chất siêu việt của đại trí và đại bi. Do đó, đàn
tràng của Thai tạng giới được hình dung là một đóa sen có tám
cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng thịt
của chúng sinh. Đại bi tâm không phải là một khái niệm trừu
tượng, nhưng là sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen,
theo ý nghĩa nhân quả đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa
phát tâm bồ-đề, ngay lúc ấy Phật quả đã được thành tựu. Bởi vì,
trong thể tính tuyệt đối, ý niệm về thời gian và không gian
không tồn tại. Từ ý nghĩa đó, tám cánh sen gồm bốn Đại Bồ tát,
và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất cả
đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở
trung tâm của mạn-đà-la.
Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua
Bắc như sau:
Phương đông, Bảo Tràng Phật (Ratnaketu).
Ngài là hình ảnh của bồ đề tâm (bodhicitta). Bảo tràng
làm tiêu xí cho sự phát bồ đề tâm. Dưới cội bồ đề, Như lai đã
dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành tựu Vô
thượng Chánh giác.
Phương nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai (Kusumita-rāja),
an trụ trong ly cấu tam-muội (vimala-samādhi), bằng hạt
giống bồ-đề tâm mà vun trồng và phát triển thành vô số hành động
của đại bi, như đóa hoa nỡ rộ.
Phương tây, Vô Lương Thọ Như lai (Amitayus),
biểu hiện Báo thân hay Thọ dụng thân của Phật (Sambhoga-kāya),
kết quả của vô số công đức tu tập, với hình ảnh hoa sen hàm
tiếu.
Phương bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật (Divyadundubhi),
biểu hiệu phẩm tính của Niết bàn; được ví dụ như chiếc trống
trời, vốn không hình tướng nhưng âm vang rền xa. Đó là pháp âm
của Như lai được công bố.
Ở bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát. Phương
đông nam, Phổ Hiền Bồ-tát (Samantabhadra). Đông bắc, Quán Tự Tại
Bồ-tát (Avalokiteśvara). Tây nam, Diệu Cát Tường Đồng tử
(Mañjuśrì-kumàra). Tây bắc, Từ Thị Bồ-tát (Maitreya).
Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm
bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện
độ sinh của Phật.
Cả hai bộ mạn-đà-la cũng có thể tượng
trưng như hai bàn tay. Bàn tay mặt là Kim cang giới. Từ ngón út
cho tới ngón cái, theo thứ tự: Về năm uẩn, ngón út là sắc uẩn,
và lần lượt là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Về năm
đại, năm loại trí, và năm vị Như Lai cũng theo thứ tự tương xứng
đó. Về các ba-la-mật, tính từ ngón út: bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn cho đến ngón cái là thiền định ba-la-mật.
Bàn tay trái là Thai tạng giới; cũng tính
từ ngón út cho đến ngón cái theo thứ tự, với năm đại, năm uẩn,
v.v… như bàn tay mặt. Về các ba-la-mật: huệ, phương tiện, nguyện,
lực và trí.
Như vậy, khi hai bàn tay hiệp lại, trọn
vẹn cả bi và trí của Phật. Đàn tràng chẩn tế được bố trí dựa
trên căn bản vũ trụ luận khái lược, với một ít thay đổi. Đơn
giản mà nói, đàn tràng được bố trí như là thâu gọn thế giới vũ
trụ thành một thực tế hiện hữu cụ thể trước mắt. Lời chú trong
Du già tập yếu của Bất Không Tam tạng[5],
dưới đoạn nói về kết ấn hiện đàn (ấn kết theo thế kim cang quyền,
mười ngón tay móc tréo vào) có ghi; “Đặt ấn này trước mình, tức
khắc cả hư không giới đều trở thành đại mạn-đà-la[6].”
Mục đích của sự bố trí này là cốt khai
triển năng lực gia trì hổ trợ của Phật (adhiṣṭhānādhiṣṭhita).
Mật giáo nói: Phật thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng
vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi
là “tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một
chúng sinh: thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của
Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế
ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao
nhau trong một tư thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được
thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự
quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết
Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm (siddhaṃ).
II
Sau khi thiết trí đúng pháp đàn tràng
mạn-đà-la, và thể hiện đầy đủ tam mật du-già, người chủ trì, gọi
là Gia trì sư, được coi như hóa thân của Phật, thay Ngài thuyết
giới cho chúng hữu tình. Bài thỉnh sư do sư thị giả hay người
trợ lễ đọc trước khi đăng đàn chẩn tế, nói:
寶座高高無礙 Bảo tọa
cao cao vô ngại
上有天垂寶蓋
Thượng hữu thiên thùy bảo cái
請師那步登亶
Thỉnh sư na bộ đăng đàn
代為孤魂說戒
Đại vị cô hồn thuyết giới
(Bảo tọa cao vời không ngại, trên có trời
giăng lọng báu. Thỉnh Sư dời bước lên đài, vì cô hồn mà thuyết
giới).
Sư gia trì đứng dưới đàn đáp:
圓明一點本非空
Viên minh nhất điểm bổn phi không
了證無為向上宗
Liễu chứng vô vi hướng thượng tông
三世諸佛哪一步 Tam thế chư Phật na nhất bộ
權留寶座即吾登 Quyền lưu bảo tọa tức ngô đăng.
(Một điểm ngời sáng, tròn đầy, vốn không
phải là không hư. Từ đó mà hoàn toàn chứng nhập vô vi, là tông
chỉ siêu việt. Ba đời chư Phật không hề đến hay đi. Nhưng tôi sẽ
bước lên bảo tọa được lưu lại nơi đây bằng phương tiện quyền
xảo).
Đó là xác nhận bản thân và bản nguyện của
Phật, rồi xác nhận sự tin tưởng về tam mật gia trì nơi mình. Sự
xác nhận này là một phát biểu về tư tưởng triết lý của Đại thừa,
không phải riêng của Mật giáo. Bản tánh của các pháp là Tánh
không, vì do tương quan mà hiện khởi. Nhưng có hiện khởi tức
không thuần là không hư. Cho nên hiệu là Như Lai, đúng như bản
tánh của Pháp mà đến và cũng như các pháp mà đi. Trong tuyệt
đối, Như Lai không đi cũng không đến. Vậy, bảo tòa cao vọi kia
phía trên có chư thiên trương dù lọng ra che, là sự hóa hiện từ
phương tiện đại bi tâm, Phật của Phật, cũng bằng vào đại bi tâm
đó, gia trì sư sẽ bước lên bảo tọa vốn thiết trí dành cho ngài.
Sau khi bước lên bảo tọa, phần nghi lể mở
đầu có bài tán khởi, nói:
會起蒙山最勝緣 Hội khởi mông sơn tối thắng duyên
覺皇垂範利人天
Giác hoàng thùy phạm lợi nhân thiên
經宣祕典超塗炭
Kinh tuyên bí điển siêu đồ thán
教演真乘救倒懸
Giáo diễn chân thừa cứu đảo huyền
難陀尊者因習定 Nan-đà tôn giả nhân tập định
救苦觀音示面燃
Cứu khổ Quan Âm thị Diện Nhiên
興慈濟物真三昧
Hưng từ tế vật chân tam muội
感果叨恩萬古傳
Cảm quả thao ân vạn cổ truyền.
(Do nhân duyên đặc biệt mà lễ hội Mông sơn
được tổ chức. Đức Giác hoàng đã chỉ dạy một nghi thức làm lợi
ích cho cả chư thiên và loài người. Lời Kinh nêu rõ pháp điển bí
mật có khả năng siêu hóa từ chốn lầm than. Giáo thuyết diễn rộng
ba thừa để cứu vớt khổ đau bị treo ngược. Tôn giả Nan-đà nhân
bởi lúc tập định; lúc đó Bồ-tát Quan Âm, vì để cứu khổ, nên hiện
thân làm quỷ Diện Nhiên (quỷ mặt lửa). Từ đó, nêu cao đức từ bi,
cứu tế vật loại, là tam-muội chân thật. Quả được chiêu cảm, ân
được ban cho, lưu truyền vạn cổ).
Hội khởi mông sơn chỉ cho khoa nghi
chẩn tế được tập thành bởi ngài Mông Sơn. Nhưng khởi thủy vốn là
do bi nguyện của đức Giác Hoàng, tức Phật. Ngài đã phương tiện
thiết lập nghi thức này là làm lợi ích cho các cõi trời và
người.
Khoa nghi thí thực này được truyền sang
Trung hoa từ đời Đường do Bất Không Tam tạng, một truyền nhân
của Mật giáo. Gọi đủ là Bất Không Kim Cang, tên dịch từ tiếng
Phạn là Amoghavajra, người Bắc Ấn, thuộc dòng dõi Bà-la-môn.
Trong số những kinh điển và khoa nghi của Mật giáo do ngài dịch,
các tác phẩm liên hệ khoa thí thực cô hồn gồm có: Phật thuyết
cứu bạt diệm khẩu ngạ quỉ đà-la- ni kinh[7],
Thí ngạ quỉ ẩm thực cập thủy pháp[8],
Du-già tập yếu cứu A-nan đà-la-ni Diệm khẩu quỉ nghi kinh[9]
và Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi[10].
Trong hai tác phẩm, Diệm khẩu kinh
nói về nguyên nhân Phật dạy phép thí thực cô hồn. Bởi vì, vào
một lúc nọ, giữa đêm khuya, ngài A-nan trong khi đang ngồi tu
tịnh tại chỗ vắng, bỗng thấy một con quỉ gọi là Diệm Khẩu, miệng
đỏ rực như lửa, thân hình quái dị ghê gớm, bảo A-nan ba ngày nữa
ngài sẽ chết. A-nan nghe nói hoảng hồn, sáng hôm sau chạy tìm
Phật hỏi phương tiện. Phật mới dạy phương pháp thí ngạ quỉ.
Trước hết, phải theo một bậc thầy, mà Mật giáo gọi là A-xà-lê (ācāriya),
đã chứng đến chỗ Du-già thậm thâm tam muội mà thọ pháp, học pháp
vô thượng đại bồ-đề tâm, thọ tam muội giới, nhập Đại mạn-đà-la,
chịu phép quán đảnh (tức phép truyền đạo bằng cách rưới nước lên
đầu). Đàn tràng thì thiết trí theo Tam-muội-da mạn-đa-la (samaya-maṇḍala).
Ở đây, Đại mạn-đa-la là tổng thể của các mạn-đà-la khác, an trí
hình vẽ các Bổn tôn Du-già với các biểu hiệu cầm tay và thủ ấn,
mỗi vị theo một dấu hiệu riêng nói lên bản thệ độ sinh của ngài;
chữ tam-muội-da (samaya) nơi đây có nghĩa là bản thệ.
Về quyển Du già Tập yếu Diệm khẩu thí
thực nghi, đoạn đầu có phần giới thiệu gốc tích, đại khái
giống như Diệm khẩu kinh. Trong khoa nghi này, không nói
cách bố trí đàn tràng nữa, mà chỉ trình bày các thủ ấn… các mật
chú và các nghi thức tụng niệm. Đầu tiên là nghi thức sái tịnh
đàn tràng, mặc niệm chú Đại luân minh vương và thủ ấn. Kế đó,
thỉnh thập phương vô tận Tam bảo, Kim cang mật tích, Vệ pháp
thần vương, vân vân, với thủ ấn “hiện đàn”. Mỗi phần về sau cũng
đều có thủ ấn và mật chú như vậy. Phần cuối hết là văn tế thập
loại cô hồn[11],
phần này không có thủ ấn.
Trong một bài tựa cho Du già Diệm khẩu
thí thực yếu tập, Bảo Hoa viết dưới thời vua Khang Hy, có
dẫn sự lưu hành của khoa nghi này, nói rằng, nghi quỹ mà A-xà-lê
Bất Không truyền, ngài Hải Thượng cho là quá đơn giản, nên soạn
thêm. Về sau, ngài Thiên Cơ lại bớt đi những chỗ rườm rà, cho
đến ngài Vân Thê hiệu đính lại lần nữa. Như vậy, sở dĩ không để
quá đơn giản là muốn cho sự thực hành có vẻ long trọng. Nhưng
cũng không quá rườm rà, bởi vì thời gian cúng thí không được kéo
dài quá giờ hợi; vào giờ này, quỷ thần không ăn uống gì được
nữa.
Tại Việt Nam, không rõ khoa nghi này được
truyền vào lúc nào và do ai[12].
Nhưng gần đây cũng có ít nhất ba diễn nôm về phần văn thỉnh thập
loại, dịch từ nguyên văn chữ Hán. Bản diễn Nôm được lưu hành
nhất là của Hòa Thượng Bích Liên, suốt từ Nha Trang cho tới Bình
Định, ai cũng coi bản Nôm này là hay nhất.
III
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọn đường đê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
(Nguyễn Du, Văn tế thập loại)
Vào những năm đầu thập niên 70, do chiến
tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế
được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở
đây cũng có ít nhất một đàn.
Sống lưng chừng giữa cái sống và cái chết,
người sống đã không thể nói được những uất hận chính mình, thì
mượn ẩn tình tha thiết của người chết mà nói thay:
Thương thay thập loại chúng sinh
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người
Hương khói đã không nơi nương tựa
Phận mồ côi lần lữa đêm đêm
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.
(Nguyễn
Du, đd.)
Nếu gác qua tính chất tôn
giáo, cùng nền tảng triết lý của nó, khoa nghi chẩn tế được đem
ra thực hiện ở nhân gian, một cách nào đó, là những tiếng than
ai oán, và uất ức, của những con người cô
khổ, sống kiếp lưu linh đày đọa. Tác dụng văn chương của nó có
thể thấy rõ qua kiệt tác Văn tế thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du.
Nghi thức thực hành vẫn y
nguyên chữ Hán[13],
người không học chữ Hán tất nhiên không thưởng thức được khí vị
văn chương trong đó. Tuy nhiên, khi đến đoạn thỉnh thập loại
chúng sinh, bấy giờ thường gần khoảng giữa khuya tỉnh mịch, điệu
thỉnh theo giọng ai của các kinh sư, mỗi người thay nhau
đọc một đoạn, thì dù không hiểu lời văn,
nhưng giọng văn vẫn có tác dụng truyền cảm đặc biệt. Cho nên,
khi thiết lễ chẩn tế, không những người ta chỉ thỏa mãn một khía
cạnh tín ngưỡng tôn giáo nào đó, mà còn là bị lôi cuốn bởi sức
tác dụng văn chương và nghệ thuật qua giọng điệu thành khẩn
thiết tha của nó.
Người nghe mà hiểu, thì có
thể thấy cái đặc vị văn chương của nó là không lấy người sống
làm đối tượng. Tình tự nồng nàn được phát tiết như là những
tiếng ngậm hờn thiên cổ, sống không nói được, chết chôn vùi theo
cát bụi. Văn chương điêu luyện và tao nhã[14],
ý tứ thì thâm trầm mà nhiều ray rức. Người sống mà nghe được thì
cũng có thể nghe ra một nỗi đời hư huyễn nào đó. Giấc mộng công
hầu khanh tướng hay khát vọng trường sanh
muốn đem sắc thân tứ đại giả hợp này mà vượt thoát ra ngoài cõi
trần hoàn, tất cả rốt cuộc đều trở thành những nỗi oan khuất bị
nhận chìm xuống đáy biển.
Dưới đây trích đoạn thỉnh:
Nào những kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những làm cất gánh non sông
(Nguyễn Du, đd.)
Đó là lời thỉnh những oan
hồn lúc sống lăm le giấc mộng bá vương. Văn
thỉnh chữ Hán nói:
(Sư gia trì đọc, giọng ai):
Lụy triều đế chúa, lịch đại hầu vương; cửu trùng
điện khuyết cao cư, vạn lý sơn hà độc cứ.
累朝帝主歷代侯王九重殿闕高居萬里山河獨踞
(Một kinh sư bạch, cũng giọng ai):
Tây lai chiến hạm, thiên niên vượng khí nga thâu;
bắc khứ loan dư, ngũ quốc oan thanh vị đoạn.
西來戰艦千年王氣俄收北去鸞輿五國冤聲未斷
(Tất cả cùng xướng):
Ô hô!
(Vị kinh sư tiếp):
Đỗ quyên khiếu lạc đào hoa nguyệt
Huyết nhiễm chi đầu hận chánh trường
杜鵑嘯落桃花月
血染枝頭恨正長
Diễn Nôm của Hòa Thượng Bích Liên
Trước thỉnh kẻ hoàng vương đế bá
Triều đại xưa trải quá biết bao
Đền đài chín lớp ở cao
Non sông muôn dặm chén vào một tay
Thuyền chiến phút đổi dời vượng khí
Xe loan còn rủ rỉ oan thanh
Hỡi ôi!
Đỗ quyên kêu suốt tàn canh
Máu hờn nhuộm mãi trên cành đào hoa
Mộng tranh hùng tranh bá, làm chúa làm
vua, nay chinh Nam mai tảo Bắc. Nhưng rồi từng đêm suốt những
canh dài, từng tiếng quốc kêu rủ rỉ, màu sương trăng lạnh phủ
trên cánh hoa đào, giòng máu oan thiên hận sự bất thành nhuộm đỏ
đầu cây ngọn cỏ. Vậy thì, giang sơn như họa còn đó, mà anh hùng
hào kiệt một thời ở đâu, và đâu là ảo vọng của đời người?
Nói chi đương thuở thị hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu lò bay ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rã rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỉ không đầu van khóc đêm mưa
Đã hay thành bại là cơ
Mà u hồn biết bao giờ cho tan
(Nguyễn Du, đd.)
Nhưng cũng có kẻ lúc sống
đành cho thân và danh của mình cùng mục
nát với cỏ cây, tìm những chỗ Đào nguyên hay Lãng uyển để tu
chơn dưỡng tánh. Nhưng:
tam hoa cửu luyện, thiên tào vị
hứa tiêu danh,
tứ đại vô thường, địa phủ nan
dung chuyển hạn.
三花九煉天曹未許標名
四大無常地府難容轉限
Thuốc trường sinh đã mấy lần luyện, nhưng
cung trời chưa ghi vào sổ trường sinh, mà cõi đời nông nỗi thì
không khứng diên trì thời hạn:
Ô hô !
Lâm quán yên hàn đơn[15]
táo lãnh
Tiếu đàn phong thảm hạnh hoa hi!
呜呼臨觀煙寒蟬噪冷
焦壇風慘杏花希
Lò đơn lâm quán[16]
lạnh sương
Tiếu đàn[17]
gió thảm thổi tàn hạnh hoa
(HT. Bích Liên dịch)
Giấc mộng trường sinh bất tử, chẳng lẽ
trong thoáng chốc chỉ còn ký thác cho ngọn gió gào thét hồn oan?
Chỗ khác là những bậc nuôi chí xuất trần,
chống tích trượng phất phơ trên đỉnh núi cao vòi vọi. Nhưng rồi,
“chuỗi hạt lần không mòn vách đá”, thì than ôi.
Hoàng hoa thúy trúc, không đàm bí mật chân
thuyên,
Bạch cổ lê nô, đồ diễn khổ không diệu kệ.
Ô hô!
Kinh song lãnh tẩm tam canh nguyệt
Thiền thất hư minh bán dạ đăng
黃花翠竹空談祕密真詮
白牯黎奴徒演苦空妙偈
嗚呼
經窗冷寢三更月
禪厔虛冥半夜燈
Làng hoa trúc nào câu mật đế
Nhà cổ nô[18]
vấn kệ khổ không
Hỡi ôi!
Kinh song trăng thảm lạnh lùng
Nhà thiền leo lét đèn chong canh dài.
(HT. Bích Liên
dịch)
Cuối cùng, người ta tự hỏi: ước mong muôn
thuở của nhân sinh là gì? Mối hận mà lúc sống đã không xong, bấy
giờ chôn vùi dưới đất nghìn năm, biết bao giờ mối hận mới đông
thành một viên ngọc bích long lanh? Nhưng cũng có thể:
Nhờ phép Phật siêu sinh tĩnh thổ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch, oán thù rửa không.
(Nguyễn Du, Văn tế
thập loại)
Tổng quát, theo giải thích trên, mạn-đà-la hay
mạn-đồ-la có ba ý nghĩa: luân viên, hình tròn của bánh xe.
Đây là từ dịch nghĩa tương đương chính xác với từ Phạn maṇḍala.
Thứ hai, phát sinh, dịch nghĩa của từ Phạn udbhava
hay sambhava. Thứ ba, đề hồ, coi maṇḍala như là
từ phái sinh của maṇḍa. Từ ý nghĩa thứ ba này, về sau được
chuyển thành ý nghĩa tập hội. Theo nghĩa này, mạn-đà-la là
chỗ tập hội của Phật, Bồ tát và Thánh chúng.
Phân loại theo hình thức, có bốn loại
mạn-đà-la: Đại mạn-đà la, Tam-muội-da man-đà-la, Pháp mạn-đà-la và
Kiết-ma mạn-đà-la.
Để biểu thị ứng dụng vô cùng
của lý tính bìng đẳng và trí tuệ sai biệt như vậy, Mật giáo thiết
lập hai bộ mạn-đà-la. Căn cứ trên giáo nghĩa của kinh Đại nhật,
tức Đại-tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh
大毘盧遮那成佛神變加持經
(Mahā-Vairocanābhisaṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtrendrarāja-nāma-dharmaparyāya)[19],
Mật giáo thiết lập Thai tạng bộ, biểu hiện đại bi phương tiện cứu
thế, phát xuát từ lý tính bình đẳng. Mặt khác, căn cứ trên giáo
nghĩa của kinh Kim-cang đỉnh, gọi đủ là Kim cang đỉnh nhất
thiết Như lai chân thật nhiếp Đại thừa hiện chứng Đại giáo vương
kinh
金剛頂一切如來真實攝大乘現證大教王經 (Vajraśekhara-sarvatathāgata-satya-saṅgraha-mahāyāna-pratyutpannābhisambuddha-mahātantrarāja-sūtra)[20],
thiết lập Kim cang đỉnh bộ, thuyết minh sai biệt trí.
Nói tóm lại, do căn tính sai
biệt của chúng sinh mà sự hành trì cũng có những sai biệt. Tuy vậy,
con đường dẫn đến giác ngộ vẫn được kinh qua trên cỗ xe hai bánh là
đại bi và đại trí.