Thế nên, đã là người đệ tử Phật thì suy
cho cùng, bạn phải phát tâm thực thi sống theo hạnh của Phật. Mà hạnh Phật được
thiết lập khởi đầu bằng tâm hiếu hạnh như Đức Phật từng dạy: “Tâm hiếu là tâm
Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.
Huống chi, trong kinh Tương ưng, Phật còn
bảo:“Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm
chị, là bà con quyến thuộc trong các nẻo đường sinh tử”. Chính từ Phật ngôn
này mà con người hướng tâm đến giải thoát khổ đau cho nhau. Bởi vì trên cõi đời
ai cũng được sinh ra và lớn lên, trưởng thành cho đến việc xuất gia, tu hành
thành đạo đều bắt đầu từ tâm hiếu hạnh. Và như vậy, từ cõi đời trần tục, mọi
người có thể chuyển hóa thực thi tâm hiếu hạnh để chuyển hóa thành cõi Thiền thanh
tịnh.
Lễ hội Vu lan - rằm tháng Bảy hàng năm là dịp con
người có cơ hội và điều kiện làm hóa hiện tâm hiếu hạnh. Bất kể là ai, dù ở vị
trí nào, sinh sống ở đâu cũng có thể làm cho dòng suối yêu thương được tuôn
chảy trong dòng sống vốn luôn nhiệm mầu. Nó có thể kết nối yêu thương từ trong
quá khứ, tiếp diễn trong hiện tại và định hướng cho tương lai để thiết lập một
đời sống an lạc, hạnh phúc mang tính vững bền cho tất cả ai hiện hữu trên cõi
đời này.
Chính lẽ đó, mà Đức Phật đã xuất gia, tu hành, tự thân
chứng ngộ, thuyết pháp độ sinh không chỉ để báo hiếu cho cha mẹ của Ngài mà còn
muốn khuyến cáo mọi người hãy vì ân sinh thành của cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp
mà chuyển hóa thân tâm, tu hành là báo hiếu một cách trọn vẹn, ý nghĩa cao quý
nhất. Nếu không làm như thế thì mỗi cá nhân hiện hữu ở cõi đời không bao giờ
báo hiếu được cha mẹ.
Ta chẳng ngạc nhiên gì, Bản kinh Tăng nhất A hàm
ghi lại lời dạy của Phật về công ơn sâu dày của cha mẹ thật cao hơn trời, sâu
hơn biển cả, đồng thời khuyên con người phải biết tri ân và báo ân với cha mẹ:
“Này các thầy Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa
nghìn dặm, cung phụng đầy đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn đệm và thuốc thang, thậm
chí cho cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu
rằng ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta
trưởng thành. Vì thế mà biết ân khó trả. Này các thầy Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phu được công đức lớn, được
quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ”.
Trong cõi đời đầy biến động vô thường, khi mà con
người còn phải đối diện biết bao nhiêu vấn đề từ cơm áo gạo tiền, cho đến các
vấn đề phức tạp khác, vấn đề phụng sự mẹ cha lại càng được quan tâm hơn bao giờ
hết. Thực tế minh chứng như thế, con người mỗi khi giáp mặt khổ đau thì mới có
cơ hội biết kết nối yêu thương để mong cầu sống trong sự bình an nội tại. Vì
suy cho cùng, báo hiếu cho cha mẹ chính là báo hiếu cho mọi người, cho quốc
gia, cho đồng bào, cho quê hương xứ sở. Lý Duyên khởi xưa kia Phật chứng ngộ đã
minh thuyết cho sự thật này như là một chân lý, bởi vì không ai có thể sống một
mình mà tồn tại và phát triển, con người cần nương tựa vào nhau, trong ý niệm
ai cũng từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị trong dòng sống tương tục.
Cho nên, bạn đừng bao giờ có ý nghĩ chỉ khi mình
trở thành người giàu có mới có điều kiện phụng sự cha mẹ của mình. Cửa Thiền là
cửa Không, ngay cả khi bạn không có gì
vẫn có thể báo đáp ân đức cha mẹ, vấn đề là bạn có chuyển hóa tâm thức hay
không trong giai trình đi về miền đất an lạc. Xưa kia, Phật từng lễ lạy đống
xương khô bên đường mà cũng chuyển hóa đại bi tâm biết bao nhiêu con người trở
về suối nguồn thực thi hiếu hạnh. Các vị thiền sư, sống một đời sống không gia
đình, không tài sản, thế mà các ngài vẫn báo hiếu cho cha mẹ một cách thiết
thực và hữu hiệu mang các giá trị rất nhân văn nhưng trên hết là đem lại giá
trị giải thoát tự thân cho cha mẹ của các ngài.
Chắc bạn còn nhớ câu chuyên ngài Lục tổ Huệ Năng
(638 - 713) trong kinh Pháp Bảo đàn ghi nhận. Ngài vốn xuất thân là một
người nghèo khổ, khi còn ấu thơ đã sớm mồ côi cha, lớn lên chỉ còn mẹ già. Do
đó, hàng ngày, Tổ phải lên núi đốn củi rồi gánh ra chợ bán, đổi lấy gạo đem về
nuôi mẹ. Một hôm, nghe người ta tụng kinh Kim cương, đến câu “ưng vô
sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà Tổ bừng tỉnh. Vì vậy, Tổ nghĩ rằng, chỉ về xin
phép mẹ xuất gia tại núi Hoàng Mai, thọ giáo với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn mới may ra
có cơ duyên báo hiếu cho mẹ cha rốt ráo được. Nhưng Tổ chợt nghĩ, mình còn mẹ
già thì ai phụng dưỡng đây, nên lòng còn chần chừ, chưa nỡ xuất gia hành đạo.
Bỗng dưng, có người hiểu được tâm nguyện của Tổ, liền trợ giúp 10 lượng bạc và
hứa thay mặt Tổ trông nom phụng dưỡng mẹ già cho đến mãn phần. Nhờ thế, Tổ an
tâm tu học, về sau chứng đạo trở thành bậc Long tượng của rừng Thiền, không chỉ
độ cho mẹ cha của mình mà còn chuyển hóa tâm thức biết bao nhiêu người khác
trong cuộc đời sinh tử trầm luân này.
Từ câu chuyện này, có thể hiểu rằng, khi bạn khởi
tâm hiếu hạnh đến với mẹ cha thì bạn sẽ thọ nhận sự an lành đến với chính mình,
có khi nó còn quyết định được một đời sống tốt đẹp hơn cho cả người thân của
bạn sau này. Chỉ cần một nén hương lòng với tâm thành kính hướng nghĩ về mẹ cha
là bạn cũng có khả năng thực thi được một công đức lớn, một lợi ích lớn trong
cõi đời này.
Đó là công đức hiếu hạnh mà Tổ sư Thiền Trung Hoa
thành tựu. Còn ở Việt Nam,
xưa kia cũng có ngài Liễu Quán nhờ công hạnh báo hiếu mà chứng đạt sở nguyện
của mình. Ngài Liễu Quán mồ côi mẹ lúc còn 6 tuổi, thân phụ liền gởi ngài vào
chùa Hội Tôn, cho thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên. Sau 7 năm sống tu hành ở cửa
Thiền thì Hòa thượng bổn sư viên tịch. Sư đành lòng khăn gói, băng rừng lội
suối ra Thuận Hóa (Huế) để thọ học với ngài Giác Phong thiền sư chùa Báo Quốc. Năm sau, nghe tin cha già lâm bệnh,
không có người săn sóc, sư liền trở về nhà, hàng ngày lên rừng đốn củi, dành
dụm tiền nong để đổi gạo nuôi cha già, nguyện cầu cho cha yên lành, thể hiện
chí nguyện hiếu tâm là hiếu Phật.
Rõ ràng, phụng dưỡng mẹ cha hiện tiền chính là
phụng thờ Phật sống ở đời. Cho nên, sư quyết tâm hầu hạ thân phụ cho đến khi
qua đời mới trở về sơn lâm. Chính nhân duyên này, đã trợ duyên cho thành tựu
công đức hiếu hạnh, tức là thành tựu hạnh nguyện tu tập giải thoát. Về sau, sư
Liễu Quán trở thành Tổ sư của một dòng Thiền, có ảnh hưởng rất lớn trong giới
Thiền và cả trong giới hoàng tộc trong việc phò vua giúp nước, và phát triển
đạo Thiền.
Ngoài ra, còn nhiều gương hiếu hạnh nữa trong cửa
Thiền ở nước ta. Thiền sư Huyền Quang đời Trần là một minh chứng cụ thể. Khi
chưa xuất gia, sư là một vị trạng
nguyên xuất chúng, làm quan, nhưng lại chán ngấy chốn quan trường đầy nhiễu
nhương, phức tạp của bụi trần. Lòng sư luôn tự hỏi, cuộc đời sao mà lắm sự chua cay nghiệt ngã, sao có người xem phú quý
vinh hoa như mục đích tối thượng mà tranh chấp không hướng nghĩ đến tình thân
cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt, dẫn đến khổ đau hệ lụy mãi hoài…
Một hôm, sư Huyền Quang theo vua đến chùa Vĩnh
Nghiêm tham dự pháp hội, thấy Quốc sư Pháp Loa đang diễn thuyết hoằng hóa độ
sinh mà nhớ lại chuyện xưa, bèn than rằng: “Làm quan lên bồng đảo, đắc đạo
đến Phổ Đà; trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý
vinh hoa nào khác chi lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến mãi
hoài”. Thế rồi, sư dâng biểu xin vua từ quan, xuất gia hành đạo.
Cho đến khi, bỗng nghe tiếng chim khách kêu vang
trên cành ở trước sân, sư chạnh lòng nhớ nghĩ đến cha mẹ hiện đang già yếu,
nhất là công ơn sinh thành cao như núi, sâu như biển khơi, liền sửa soạn hành
trang về cố hương hầu thăm cha mẹ. Đến nơi, sư nhìn thấy cha mẹ còn khỏe mạnh
và biết thêm cha mẹ của mình rất tín tâm với Tam bảo nên lòng rất hoan hỷ. Nhân
đó, ngôi chùa có tên là Đại Bi được hình thành từ nơi mảnh đất gần nhà của song
thân, trong ý nghĩa tiếng kinh cầu vang lên “Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ
tát cứu độ cha mẹ hướng về Phật đạo”. Từ đó, không chỉ có cha mẹ của sư
được diễm phúc hàng ngày được tụng kinh, niệm Phật, làm các việc công đức cho bá tánh mà dân làng còn được nghe thuyết
giảng của các sư, thực hành Chánh pháp, sống có ích cho đời, làm hưng thịnh
Phật pháp.
Rõ ràng, nơi nào có tâm hiếu được hóa hiện, nơi đó
được đâm chồi kết trái của tình người tình đạo trong cuộc hành trình hướng về
miền giải thoát khổ đau. Nơi đó chính là mảnh đất để cho giới đức, tâm đức, trí
đức hóa hiện, mục đích là nhằm kết nối giai điệu yêu thương giữa người còn kẻ
mất. Nó cũng góp phần bảo lưu mọi giá trị cao quý nhất trong dòng chảy văn hóa
tình người được xuất phát từ trong văn hóa ứng xử giữa con người với con người;
giữa con người với cộng đồng xã hội; giữa con người với thiên nhiên môi trường
sống. Thế nên, bổn phận của mỗi cá nhân phải thực thi hiếu hạnh với mẹ cha, với
mọi người như là một đạo lý sống giữa đời mà kinh Thi ca la việt ghi,
bao gồm 5 điều:
1. Cung
kính và vâng lời cha mẹ.
2. Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu.
3. Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình.
4. Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại.
5. Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời.
Ngoài ra, Đức Phật còn đề cập bốn trách nhiệm để
hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo Chánh pháp:
1. Nếu cha mẹ không có niềm tin, khuyến khích cha
mẹ phát tâm tin tưởng Tam bảo.
2. Nếu cha mẹ xan tham, khuyên cha mẹ phát tâm bố
thí.
3. Nếu cha mẹ làm ác thì khuyên cha mẹ hướng tâm
làm việc thiện.
4. Nếu cha mẹ theo tà kiến thì khuyên cha mẹ theo
chánh kiến.
Và như thế, bạn đang hướng vọng về ngày hội Vu lan,
ngày hội của văn hóa hiếu hạnh, chứa chan tình, đầy hương vị của giải thoát.
Nếu xưa kia Mục Kiền Liên từng vì cha mẹ đọa lạc tam đồ, rồi cất lên tiếng kinh
cầu nhờ oai lực của chư Tăng chú nguyện để giải thoát cho mẹ cha thì ngay từ
bây giờ cõi Thiền lại mời gọi mọi người hãy khởi tâm thực thi hiếu hạnh tùy
theo hoàn cảnh, điều kiện của mình mà báo hiếu cho hai đấng sinh thành dưỡng
dục.
Có một điều đơn giản hết sức, nhưng giá trị yêu
thương thì vô cùng tận, bạn cũng như tôi hãy để thì giờ ngắm kỹ dung nhan của
mẹ cha thật lâu, rồi cất lên tiếng nói con yêu cha mẹ thật nhiều, nhất là nhiệt
tâm tinh cần làm các thiện lành. Tại đây, mẹ cha hạnh phúc biết chừng nào! Còn như
nếu ai mất mẹ hoặc cha thì xin hãy thắp nén hương lòng tưởng niệm về họ mà
nguyện cầu Phật từ bi tiếp độ về miền đất an lành. Làm được như thế, Vu lan trở
thành ngày đánh dấu sự trở về cội nguồn sống đúng Chính pháp mà đức Phật từng
chỉ dạy cho mỗi người chúng ta hiện hữu ở cõi đời này. Cõi hiếu hóa thành cõi
Phật ở đời.
Nguồn: Nguyệt san
Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS