BÁCH TRƯỢNG
TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa
môn Thích Bảo Lạc
Chùa Pháp Bảo
Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008
Quyển nhất
Bách Trượng Tòng
Lâm Thanh Quy Chứng Nghĩa
Đời Đường, Sa môn
Hoài Hải ở núi Bách Trượng biên tập tại Hồng Châu.
Chùa Chân Tịch Tỳ
Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa tại Cổ Hàng.
Đời Thanh, trụ
trì Chùa Giới Châu là Diệu Vĩnh hiệu duyệt ở Việt Thành.
Mục Lục
1 Lập nghi
chúc Thánh.
2 Ngày lễ
chánh, sáng sớm chúc:
3 Cử hành
ngày chúc thánh hoàn mãn
4 Nghi thức
nhận sắc chỉ vua ban
1. Chương một:
Chúc Diên – Chúc Quốc Vương
Lời thuật nói
rằng, con người quí ở cái đạo sáng nên từ xưa các bậc Thánh đế tôn sùng lời dạy
của các Thánh nhân Tây phương; chẳng lấy cái lễ thường đối đãi ta mà tôn thờ
cái đạo các Ngài. Đã được triều đình ưu đãi đến thế, lại đặc miễn thuế má sưu
dịch, làm cho dân an cư mà hết lòng với đạo. Ân vua rộng lớn không thể dùng lời
tả hết được, làm tăng ắt phải ngộ Phật tánh, nghiêm giữ giới luật. Nhiều người
chẳng có ý cậy nhờ vào Triều đình thịnh vượng mà lại sớm tối chúc diên, mong ân
Phật từ bi gia hộ, lòng trời soi chiếu cho quân vương chăn dân lấy đức lành cảm
hóa. Xây đời lấy nhân làm ranh vực. Ngõ hầu ngưỡng vọng báo đền ân trong muôn
một nên thấy những việc hằng ngày, kính cẩn ghi chép ra để mà duy trì các phép
tắc vậy.
1.1 Lập nghi
chúc Thánh.
Vâng mệnh thiết
các lễ chư Thánh
Kinh Kim Cang
Vô Lượng Thọ có ghi rằng, việc sở trường sở đoản tùy theo, tăng không ngoa ngụy
dối gian chứng tỏ lòng cung kính. Trước tiên việc lập đàn có 3 mục: phòng khách
chuẩn bị giấy mực các thứ, phòng thư ký, vị tri khách (tiếp khách - tiếp tân)
đến tiếp xúc lễ một lễ bạch rằng:
-
Thưa… ngày đó, tháng… năm đó có lễ thánh tiết, xin cảm phiền Đại Đức… cho vài
lời sơ lược. (Nếu thư ký không có mặt, Thầy Phó thay thế, trong trường hợp cả
hai đều vắng, nên dùng phần sau đây đáp sơ). Thư ký đúng phép tắc bạch xong,
đều giản đơn đem trình cho vị Trụ trì xem qua rồi đích thân tới phòng khách
thưa thỉnh: lễ một lạy, đáp lời thỉnh cầu… Thầy tri khách dùng giấy vàng viết chữ
và các chi tiết liên hệ vào tờ sớ. Lập đàn trước hết là phòng khách, mời vị Duy
Na (thủ chuông) cùng chư tăng tụng kinh cầu nguyện. Kế đến linh động sắp xếp
trình cho Trụ Trì xem xét xong; mời Trụ Trì lên Phật điện hướng dẫn chúng tụng
kinh chúc Thánh. Nên sửa soạn chánh điện, quét dọn sạch sẽ hẳn thiết lập Kim
Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng, thiết trí cho thật trang nghiêm, treo các liễn trướng…
ghi rõ ngày… tháng… năm… cung chúc thánh đản vạn thọ hiệp cùng đại chúng bổn
viện vân tập Phật điện, tụng các thần chú, niệm danh hiệu Phật Dược Sư, phục nguyện...
Phật nhựt soi tỏ, Thánh thọ vô ngần v.v...
Mời cho được 20
vị tăng tụng kinh, tối thiểu cũng phải 10 vị mỗi ngày. Chương trình gồm có
thuyết pháp, tọa thiền hay niệm Phật, cúng ngọ, bái sám, tụng kinh… tùy nghi
cho thích hợp.
Có thể đọc lòng
sớ như sau:
Sớ rằng: cảnh
vận rộng khai, thánh nhân tạo dựng mà có vạn vật; hồng ân lợi nhuần một nhân
vật nhưng triệu người được nhờ; thọ mạng vô cùng, trời đất khó đo lường được
chỗ cao dày, chiếu soi sáng tỏ. Mặt trời mặt trăng khó dụ ánh quang rực rỡ; vốn
biết rằng có tán dương cũng khó tận mà muốn báo đáp cũng vô cùng. Chỉ bày hun
đúc người tài đức biết trọng 4 ân hết lòng trung tín, tâm thành kính chúc. Nay
tại Châu Diêm Phù Đề trong bốn châu …quốc, …. tỉnh, ….quận …phố khu…, …đường,
chùa (tên chùa). Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhân dịp lễ Khánh tiết, bổn tự
thiết lễ nghi diên hoàn bị, kiền thỉnh đại đức chúng tăng vân tập bảo điện, lập
Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng. Vài ba ngày nên thỉnh tăng luân phiên tụng
kinh Hoa Nghiêm (Kinh Đại Phật đảnh vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa,
Kinh Đại Phương quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa, Kinh Kim Cang Bát Nhã ba
la mật, Kinh Nhân Vương hộ quốc bát nhã, Từ Bi đạo tràng Sám Pháp, Lương Hoàng
Sám pháp…) trong mỗi Kinh tụng thêm các bài thần chú mật ngôn, tụng danh hiệu
Phật, kỳ cầu hồng ân, phụng vì khánh chúc: trên hoàng thượng thánh thọ vạn tuế
vạn vạn tuế.
Lại nguyện: sao
Xu cao chiếu sáng lòe, long tượng hòa hài, lưới trời lồng lộng; núi sông bao
dung lượng thánh hàm tàng 3000 hoa tạng thế giới, lợi ích thấm nhuần bất tận;
ngưỡng cầu: thần long che chở, sao tinh chiếu dọi thiên hạ thái bình, 4 mùa an
ổn, quốc dân hòa lạc mà đất nước cường thịnh.
Phật nhật sáng
soi
Long thiên
chiêu cảm
Xin chí thành
dâng sớ tỏ bày.
Ngày…tháng…năm…
Trú trì: Sa môn
(tên) cung đọc xong.
(Nếu có viên
chức chính quyền dự, mời chủ trì mỗi vị nên biên tên họ đầy đủ. Sớ này ghi chữ
rõ ràng, ở đầu tờ sớ thêm vào 4 chữ lớn: Vạn Thọ Vô Cương. Cũng như đọc sớ phải
nhằm ngày lễ chánh. Đàn tràng cúng trước giờ ngọ và đại chúng cùng tụng kinh).
Đọc: Nam mô vô
lượng thọ Phật (xong rồi đốt sớ).
Thọ mạng vô
lường
-
Xe vàng và xe pháp cùng chuyển bánh, phước vượt khỏi 3 kỳ
-
Thuấn nhựt và Phật nhựt cùng sáng lạn, thọ mạng kéo dài ức kiếp.
Khắp nơi đồng
mừng
-
Một nhân vật tự tại như mây kéo qua mặt trời, sao vằng vặc rạng chiếu cùng biển
đất
-
Thọ mạng vô lường như rồng ôm bản đồ, phượng xây lầu gác, quốc gia bền vững
Ngưỡng xem Bắc
Cực
-
Tám tờ biểu dâng vua, đồng quay về giáo hóa
-
Muôn dân triều cống, người người đồng hưởng an lạc thái bình.
(Những câu trên
viết treo nơi hàng ba trước chánh điện).
- Chứng nghĩa
ghi rằng: thánh tiết hay còn gọi là vạn thọ tiết hoặc xưng là thiên thọ. Vì đây
là ngày (giai tiết) của Thánh nhân đản sanh. Sách Trung Phong ghi rằng, chỉ
trồng cây sanh giữa đất trời mà không chăm tưới bón, chỉ giòng họ Thích ta mới
được thấm đến như thế! Sao không lấy đó làm bằng. Cô lập, hư, mềm, yếu mà không
tự đứng được. Nói cô lập là một mình xa cách người thân, không kinh doanh như
người đời, hư là sống nhờ đàn việt không cày sâu cuốc bẩm. Nói mềm là làm cho
tâm lắng chìm vắng lặng, giữ phép tắc nội quy, nói yếu là giữ gìn chân tánh,
không cạnh tranh hơn thiệt. Mình chưa là thánh nhân nên đừng quên lời Phật dạy:
cong rủ giữ vẽ ngoài thì vườn tăng đủ tươi. Há dám tự xưng tăng mà không lấn
đoạt nơi tay người khác ư? Do vậy, chúng ta an ổn nhàn lạc, một giờ, một khắc hàm
dung ân đức bậc thánh. Dù nhờ trời che đất chở cũng không thí dụ hết được. Phải
quyết lòng cầu pháp, trọn đời buộc ràng với đạo, cho chí tan thân mất mạng cũng
không đủ đền đáp một phần trong muôn một. Đâu lại thong dong biếng lười sa đọa,
để lần lửa qua ngày mà đắm chìm trong lạc dục ư? Cho nên, ngày lễ thánh hợp như
pháp thiết lễ cúng bái, tụng kinh để báo đáp ân quốc vương.
1.2 Ngày lễ
chánh, sáng sớm chúc:
Đúng ngày lễ:
thời khóa công phu sáng: đốt hương, thị giả cầm hương chờ, đủ đồ pháp khí tang,
linh, khánh, đại chúng tể tựu đầy đủ; vị Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư.
Thầy Duy Na (thủ chuông) tán bài:
Lư vàng hương
đốt thơm lừng,
Khói xông ngào
ngạt khắp cùng 10 phương,
Thành tâm hiến
cúng pháp vương,
Nguyện vì chúc
thọ quân vương,
Đất bền, trời
vững an khương thái hòa.
Nam mô Hương
Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Sau khi tán
xong, đại chúng đồng niệm Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quang Minh (3 lần).
Thầy Duy Na
xướng: “Dược Sư Như Lai”; đại chúng cùng hòa theo: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Duyệt
Chúng xướng: “Pháp Vương vạn tuế”; đại chúng đều niệm lớn: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Duy Na
xướng: “Pháp Vương vạn tuế”; đại chúng cùng niệm lớn: “Dược Sư Như Lai”.
Thầy Trụ trì
xướng sớ; thầy Duy Na quỳ sau hay bên cạnh đọc sớ, sớ rằng:
Bậc Đại giác
Thế Tôn,
Ứng hiện nơi
trời tây,
Tâm dung tợ hư
không,
Đức trùm cõi sa
giới,
Một trong bốn
thiên hạ,
Cõi Nam Thiệm
Bộ Châu.
….quốc,…tỉnh,…phủ,…huyện,
…chùa
Sa môn tên.
Hôm nay ngày…
tháng…năm… nhằm ngày lễ Thánh tiết giờ thiêng, hiện tại tăng chúng tề tựu tại
đại hùng bảo điện (chánh điện), phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh thánh
hiệu, nguyện cầu hồng ân gia bị. Nay đương vì thánh vương kỳ cầu: vạn tuế, vạn
tuế, vạn vạn tuế…
Duy Na đọc
tiếp:
Cầu nguyện quốc
thái dân an, thiên hạ thái bình, văn võ bá quan đều được nhuần ân đức, lộc vị
hiển vinh. Lại nguyện: mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, tám phương ca tụng
đạo quân vương, bốn biển vui vầy cảm hóa đạo nhiệm. Ngưỡng mong đại chúng đồng
niệm: Kim Cang Vô Lượng Thọ: Hộ quốc nhơn vương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tiếp theo tụng
Kinh Lăng Nghiêm.
Nam mô Lăng
Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần). Đọc xong 5 đệ, tiếp đọc chú đại bi, 10
bài chú khác, Bát Nhã xong đọc: Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng…
Kế tán Phật
Dược Sư:
Phật Dược Sư
phóng tỏa hào quang,
Sáng rực rỡ
nghiêm trang khó lường,
Bao nhiêu hạnh
nguyện lợi hữu tình,
Mỗi mong được
an tường thỏa mãn.
Nam mô đông
phương thế giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Đứng lên đi
nhiễu Phật đồng niệm: Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (3 vòng xong, chủ lễ
xướng, đại chúng đảnh lễ):
Nam mô Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai (12 lạy)
Nam mô Nhựt Quang
biến chiếu Bồ Tát
Nam mô Nguyệt
Quang biến chiếu Bồ Tát
Nam mô Dược Sư
Hải Hội Phật Bồ Tát (mỗi hiệu 1 lạy).
Đại chúng về Tổ
Đường, tác bạch cảm tạ, đảnh lễ v.v.. Ngày này chúng luân phiên tụng niệm, cúng
ngọ, thọ trai quá đường, kinh hành niệm Phật v.v..
Chứng
nghĩa ghi: Thanh Quy là chiếc mũ đội đầu, chúc Thánh là khâm tuân lời Phật dạy,
báo đáp ân tổ quốc. Y cứ Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy ân tổ quốc
có 10 đức. Nay tăng chúng chúng ta cùng ở thời thanh bình thạnh trị, may mắn gặp
được bậc minh quân, ân vua như mặt trời mặt trăng sáng tỏa, đức như trời đất
chở che. Nói chung vua có 10 ân đức cần phải giữ gìn: 1) Kính tôn Tam Bảo, tuân
lời Phật phó chúc (quốc vương) 2) Kiến lập chùa viện làm đạo tràng duy trì Phật
pháp 3) Ấn hành kinh tạng để Phật pháp tồn tại 4) Cấp giới điệp tăng già, học
hỏi không ngừng 5) Miễn trừ tăng tịch cho việc xuất gia được tiện 6) Ban cho
nguời bảo hộ trang nghiêm chốn già lam 7) Truy phong
bậc cổ đức, tôn trọng người chân tu 8) Hàng năm ban tặng tiền hoa quả, nhang đèn
cúng Phật để tạo phước lâu dài 9) Riêng đặt chức quan cho tăng, người đời không
hỗ danh tăng già 10) Không bắt tăng sĩ làm lao động mà cho họ yên tâm hành đạo.
Mười ân đức của
quốc vương như thế đó phải biết để mà đền đáp hợp tình hợp lý.
Phật dạy: Ta có
ngũ nhãn thấy rõ biết các quốc vương ba đời đều do đời quá khứ thân cận hầu hạ
500 đức Phật nên đời này được làm vua. Thế nên, các bậc thánh nhân, La Hán mong
sanh vào nước của các vua đó làm nhiều việc lợi ích. Ta phái 5 vị Bồ Tát đại
lực, 5 đại sĩ, 5000 vua đại thần tới ủng hộ vua các nước đó. Vì thế, nay ta đem
Tam Bảo giao cho các vị quốc vương v.v… Như Kinh Đại Niết Bàn và các Kinh nói
rõ, đều có lời Phật dạy vua giữ ngoại hộ, nên nêu ở đầu vậy.
1.3 Cử hành
ngày chúc thánh hoàn mãn
Đại chúng nên
tụng kinh, lễ lạy hồng danh sám hối để tiêu trừ nghiệp trước, cầu nguyện nhà
nhà an lạc, quốc vương sống lâu để trăm họ được nhờ ơn phước như biển không bao
giờ cạn; như sư tử trong hang sanh sản sư tử con rồi chui ra khỏi hang núi, là tốt
là điềm lành trải khắp 9 phương, cỏ cây, côn trùng đều nhờ ân hưởng. Cúi đầu lễ
lạy là việc khó nghĩ bàn. Ví như các vì sao vây xung quanh trăng sáng, nên nay
tuyên dương pháp vi diệu trong đệ nhứt nghĩa chân thật.
Chúc diên công
đức hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao
nhiêu con nguyện cầu
Cầu khắp chúng
sanh nghiệp nặng sâu
Sớm sanh Tây
Phương Tịnh Độ mau
Mười phương ba
đời chư Phật thảy
Tất cả Bồ Tát
Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã
Ba La Mật.
Tiếp theo: nghi
chúc thọ Hoàng Hậu (lược bỏ phần này vì ngày nay không còn thích hợp).
1.4 Nghi thức
nhận sắc chỉ vua ban
Nên tổ chức
tiếp rước sắc chỉ long trọng, Trụ Trì suất tăng chúng ra xa chùa 5 dặm rước sắc
chỉ trên long xa vào chùa, tăng chúng đứng 2 bên nghiêm chỉnh. Trong chùa thiết
bàn riêng để sắc chỉ lúc thỉnh tới, chuông trống Bát Nhã trổi lên khi đoàn rước
tới nơi. Tất cả đồng quỳ chở kiệu đi qua, mọi người đứng dậy theo sau kiệu.
Kiệu đặt giữa điện, chư tăng đứng hai bên.
Tri khách
xướng: “Hoàng ân ngự giá sơn môn”.
Đại chúng đảnh
lễ ba lạy, vạn tuế.. lễ xong, thư ký cầm tờ chỉ quỳ gối hướng phía đông tuyên
đọc xong để lại khay nơi kiệu. Vị Trụ Trì tới trước kiệu dâng hương lễ 3 lạy
xong cùng đại chúng lạy tạ 9 lạy. Chuông trống bát nhã trổi 3 hồi, chư tăng
tụng: Nam mô Vô Lượng Thọ Phật.
Thỉnh sắc chỉ
để vào lầu kinh các. Duy Na xướng:
Thiên long
thánh chủ giúp đời châu viên
Ân vua sâu nặng
khó thể nêu danh
Báo đáp giữ nơi
tâm
Chúng tăng lòng
thành
Đội ân đức nào
quên!
Nam mô Kiết
Tường Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
* Bốn ngày chay
bảo hộ sanh mạng mỗi tháng, mồng 1, mồng 8, 15, 30 là 4 ngày chay để bảo hộ
sanh mạng. Tại chùa, 2 ngày rằm, mồng một là những ngày Bố Tát, tụng luật Tứ
phần giới bổn hoặc Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới (tụng thay đồi: nửa tháng tụng
luật Tỳ kheo, nửa tháng tụng BồTát giới Phạm Võng Kinh).
Chứng nghĩa
ghi: bốn ngày chay là để hộ mạng, khởi đầu từ đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng thứ
ba, ban ra cho dân chúng mỗi năm 3 tháng là tháng giêng, tháng 5 và tháng 9
cùng với 4 ngày chay tịnh, 6 hay 10 ngày chay. Tại các chùa có thiết lập đạo tràng
cầu thọ mạng, không giết hại sanh mạng loài vật. Trong Kinh có dẫn câu chuyện
Tỳ Sa môn thiên vương, mỗi năm đi tuần thú bốn châu lớn, vào các tháng giêng,
tháng 5 và tháng 9 đến châu phía Nam nên cấm sát sanh. Nhưng các phiên trấn đời
Đường mỗi khi nhậm chức ắt sắc cho dân chúng phải sát hại cho bữa đại yến linh
đình. Cho nên chọn lấy tháng giêng, tháng 5, tháng 9 không nhậm chức, để cấm
giết hại. Ngày nay lầm ngày kỵ là không đúng; vào 4 ngày chay nên tụng kinh
chú, bái sám cũng như vâng lời Phật dạy, khiến cho mọi người hiểu rõ ý nghĩa
như thế. Chiếu từ tâm chất có tội thì sửa đổi, không tội được miễn trừ, không phải
chỉ lo tụng kinh mà đủ báo ân đâu! Niệm tụng giải thích để báo ân dù chưa hiểu
nghĩa, vẫn giữ được lễ. Ngày nay nếu bỏ hết không thực hành thật là sai lầm
vậy. Dựa theo Tục Cao Tăng truyện và Vân Lâu Sùng hành lục, Tỳ Kheo Thích Tăng
Vân ở chùa Bảo Minh ham đắm cái danh diễn giảng mà ngày rằm tháng tư nhân lúc
tụng giới, thưa đại chúng rằng: “gìới để cho người, người tụng đắc giới, cần gì
nhọc tới số đông, có thể làm cho một vị tăng hiểu nghĩa khiến lớp sau tỏ ngộ”.
Chúng không dám phản đối bèn bỏ tụng giới. Ngày rằm tháng 7 chúng làm lễ tự tứ
bổng Vân vắng mặt, 4 thầy đi tìm bèn gặp ở trong khu nghĩa địa hoang, thân thể
đầy máu me. Họ hỏi nguyên nhân được cho hay có một người rất mạnh cầm thanh đao
dài gọi lớn tiếng hỏi Tăng Vân: “Đây là người gì? Dám bỏ tụng giới, dối xưng là
hiểu nghĩa”, rồi dùng dao dí vào thân tôi, đau buốt không chịu nổi. Nhân đó tìm
trở lại chùa, khẩn cầu sám hối trải qua 10 năm, rất chí thành tha thiết theo
nghi thức tụng giới. Ngày lâm chung có hương lạ phảng phất khắp phòng rồi an
tường ra đi. Lúc đó niên hiệu Hàm Gia làm cho đời luôn nhắc tới. Ngài Vân Thê
Liên Trì nói rằng: “Thời nay còn kinh luận mà xem thường giới luật, hai nghìn
năm sau, nửa tháng tụng giới một lần lại không muốn làm. Tôi không lường được!
Hưng vong sa đọa ở trong chùa con người do chưa tin mà ra. Quả báo hiển nhiên mà
ngài Tăng Vân trưng dẫn, mong lấy đó suy nghĩ.”
Hết quyển nhứt.