BÁCH TRƯỢNG
TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa
môn Thích Bảo Lạc
Chùa Pháp Bảo
Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008
Quyển ba
Báo đáp nguồn gốc
Mục Lục
1 Đức Phật
Thích Ca đản sanh
2 Lễ Phật
Thành Đạo
3 Vía Phật
Nhập Niết Bàn
4 Vía Phật
Dược Sư
5 Lễ vía Phật
Di Đà
6 Vía Phật Di
Lặc
7 Vía Chuẩn Đề
8 Lễ vía Văn
Thù
9 Vía Phổ
Hiền
10 Lễ vía Quan
Âm
11 Lễ vía Đại
Thế Chí
12 Vía Địa
Tạng Thánh Đản
1. Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc
Lời thuật rằng,
ở Tuyết Khê đại sư Nhân Nhạc thường nói: người Nho giáo có cái lo cuối đời là
ngày bố mẹ mất. Con giòng họ Thích đâu chẳng thế ư? Đó là nhớ nghĩ đấng thân
gian lao khó nhọc sanh ta. Vì thế niệm nghĩ tới lòng thương yêu của cha mẹ ân
đức thật là vô cùng, tâm hiếu giống nhau, quán xem ở đời phải như thế. Người
xuất gia hình tướng sa môn con giòng họ Thích, đến ngày Phật nhập Niết Bàn mà
không thiết lễ trang nghiêm cúng kiến sao? Tôi thật thương tâm! Xem lời này của
đại sư cảnh tỉnh chúng ta phải giữ cho thật đúng Thanh Quy là ý nghĩa của
Chương báo bổn này vậy.
Ngày đức Phật
nhập Niết Bàn còn như thế, hẳn ngày Phật Đản cũng vậy, có nghĩa là phải tổ chức
lễ tưởng niệm. Ngày Niết Bàn tiếp theo tâm thành mừng ngày Phật Đản có hoa Ưu
Đàm nở nên đi vào phần báo bổn. Ý của phần này sâu sắc cũng như các ngày vía
Phật Dược Sư, Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Chuẩn Đề…
phải có nghi Khánh Đản. Cũng cần nói thêm rằng, vì chư Phật, Bồ Tát bi nguyện
sâu rộng biểu tỏ cho người đời khâm kính.
1.1 Đức Phật
Thích Ca đản sanh
Ngày giáng sinh
của Phật Thích Ca, xưa là mồng 8 tháng 4, nay (theo qui định từ kỳ đại hội PGTG
lần đầu tiên 1950 tại Columbo – Tích Lan) là Rằm tháng 4 âm lịch, lễ Phật Đản.
Viết thông báo
gởi đài phát thanh, đăng báo, dán ở trai đường, phòng khách. Đại ý như sau:
Để kỷ niệm ngày
lịch sử trọng đại, đức Phật ra đời cứu độ quần sanh hướng về giác ngộ, đại lễ
Phật Đản sẽ được long trọng tổ chức tại… vào ngày… tháng… năm… (tức ngày…
tháng… năm… âm lịch) vào lúc… giờ.
Kính mời quý
Phật tử cùng gia quyến, bằng hữu về Chùa lễ Phật, nghe pháp, thọ trai…để kết
pháp duyên với Phật pháp.
Kính chúc quý
vị vô lượng an lạc, hạnh phúc và mong đón tiếp bà con vào ngày lễ Phật Đản như
quy định.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Tại chùa nội
dung thông báo viết như sau:
Ngày mai nhằm
ngày đức Bổn Sư Thích Ca từ phụ giáng sanh, tối nay xin mời đại chúng nghe
chuông, đắp y, cầm tọa cụ tập trung tại chánh điện. Tới giờ chúng tập họp chỉnh
tề, vị trụ trì niệm hương xong cắm lên lư; Thầy Duy Na cử tán bài:
Thiên thượng
thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế
giới diệc vô tỉ,
Thế gian sở hữu
ngã tận kiến,
Nhứt thiết vô
hữu như Phật giả.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).
Trên trời dưới
thế không ai như Phật
Mười phương các
cõi chẳng so bằng
Những gì mắt
con tận thấy ở đời
Hết thảy không
một ai như đức Phật.
Tiếp theo tụng
chú Đại Bi, bài Kinh Khánh Đản, niệm Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Nam Mô Đại Trí Văn Thù, Đại Hạnh Phổ Hiền,
Đại Bi Quán Thế Âm…
Nam Mô Thập
Phương chư Phật, chư Đại Bồ Tát
(mỗi hiệu 3 lần).
Tụng Bát Nhã,
hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…
Xong đại chúng
lui về hậu liêu, thỉnh Ngài Phương Trượng thuyết pháp. Tới ngày lễ chính, sáng
thức dậy tụng Kinh Lăng Nghiêm như thường lệ, lạy thù ân chúc tán xong, đại
chúng lui về nghỉ rồi dùng điểm tâm sáng. Trước giờ ngọ, nghe hiệu lệnh, tất cả
tập trung lên chánh điện, niệm hương tán Phật, tắm Phật xong, phục nguyện:
Phật pháp
trường tồn
Giáo pháp hưng
long
Chúng sanh an
lạc
Gió thuận mưa
hòa
Lúa thóc được
mùa
Giặc giả lui
tan
Khủng bố đầu
hàng
Thiên tai dứt
sạch
Bịnh dịch không
còn
Tăng tín an
khang
Đạo tâm kiên
cố.
Khắp nguyện:
Pháp gìới chúng
sanh
Hữu tình, vô
tình
Đồng thành Phật
đạo
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Nên thiết tôn
tượng Đản sanh nhỏ - Thái Tử Tất Đạt Đa - một tay chỉ thiên, một tay chỉ địa;
các thau nước có để hoa thơm sẵn, gáo múc.
Chủ lễ cử bài:
Ngã kim quán
mộc chư Như Lai,
Tịnh trí trang
nghiêm công đức tụ,
Ngũ trược chúng
sanh linh ly cấu,
Đồng chứng Như
Lai tịnh pháp thân.
Án Mâu Ni Mâu
Ni Tam Mâu Ni Ta Bà Ha (3 lần).
Con nay tắm gội
đức Như Lai
Trí sáng trang
nghiêm hàm công đức
Năm trược chúng
sanh lìa cấu trần
Đồng chứng Như
Lai đức pháp thân.
Đại chúng cùng
đi chung quanh tượng sơ sanh, mỗi người múc nước hoa rưới lên tượng và xá 1 xá,
xong chuyền gáo cho người kế tắm Phật… Tất cả cùng đọc chú:
Án y mộ già,
phế rô giả ra, ma ha mẫu đà la Ma Ni, Bát Đầu Ma, nhập phược la, Bạt la miệt
Đơn Dã Hộc (7 lần).
Án Để Sa Để Sa
Tăng Già Ta Ha (7 lần).
Tắm Phật xong,
đại chúng trở lại vị trí cũ. Thầy Duy Na đọc văn tác lễ:
Cung kính nghe
rằng, hiện tướng pháp thân
Từ quang sáng
chiếu cung Vua Tịnh Phạn
Hóa Phật hiện
thân nước Ca Tỳ La
Sanh ra thân
màu vàng ánh
Một tay chỉ lên
trời thân ngà gội tắm
Cảm động chín
rồng đồng phun nước
Nhìn 4 phương,
7 bước sen nở hoa
Nói trên trời
dưới thế chỉ riêng ta
Được trời người
tán dương ngợi ca
Không màng ngai
vàng điện ngọc
Bỏ cung son vào
tu núi Tuyết
Mười chín tuổi
xuất gia chí quyết
Chứng Phật Đà
tuổi thiệt ba mươi
Thuyết giảng
Kinh 5000 bộ có dư
Cửa phương tiện
độ 3 thừa tuần tự
Thọ mạng kéo
dài 80 năm tròn đủ
Đưa 7 chúng vào
đường giác ngộ
Nhớ xưa đời
Châu Chiêu Vương
Năm Giáp Dần
thứ hai mươi bốn
Tính từ ngày
Phật giáng thế đến nay
Khoảng 10 thế
kỷ tới triều Đại Thanh
Pháp mạch chấn
hưng hoàn bị
Trong số nhiều
bậc cao đức sanh thành
Nay biểu tâm
thành mừng lễ đản sanh
Đàn tràng thanh
tịnh, tăng đức nghiêm minh
Bồn vàng thiết
đặt nâng cao
Dễ trông Tất
Đạt hồng hào kim thân
Nước thánh thân
tắm dung nhan
Ngữa trông đức
mẫu Ma Gia phu nhân
Muốn hầu kề cận
hào quang Phật Đà
Cùng nhau cất
giọng xướng hòa sấm vang.
Duy Na đọc
xong, bắt tán bài:
Trên trời dưới
thế không ai giống Phật
10 phương các
cõi chẳng ai sánh bằng
Những gì mắt
con tận thấy ở đời
Hết thảy không
một ai như đức Phật.
Lâm Tỳ Ni lúc
giáng sanh
Được trời rồng
phun nước tắm gội
Phật đầy đủ mọi
sự tốt lành
Con nay tắm
Phật cũng như vậy
Là tắm gội các
đức Như Lai
Phước trí trang
nghiêm công đức nhóm
Chúng sanh năm
trược khiến đều lìa
Cùng chứng pháp
thân thanh tịnh Như Lai
Hoa hương đèn
nến thật trang nghiêm
Cúng dường
pháp-báo-hóa thân Như Lai
Mong đức từ bi
thọ pháp cúng dường
Nguyện tột đời
vị lai làm Phật sự.
Tán xong xướng
tiếp:
Các báu trang
nghiêm vi diệu tòa
Trân quí xen
đan kết đài hoa
Y pháp thiết
bày dâng cúng hiến
Nguyện đức từ
bi nạp thọ ngay.
Án y mộ già,
Bát Đầu Ma, Tôn Na Lệ, Đà Ra Đà Ra nể, mạn nổ lệ hồng (3 lần).
Duy Na bắt bài
cúng dường, đại chúng tụng hòa theo:
Nguyện hương
hoa đèn này,
Biến khắp cõi 10
phương,
Cúng dường
Phật-Pháp-Tăng,
Thọ nhận làm
Phật sự.
Án nga nga nẳng
tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc (3 lần).
Đọc tiếp:
9 rồng phun
nước,
Tắm gội kim
thân,
Trên trời dưới
thế chỉ Phật tôn,
7 bước nở sen
hồng,
Uy đức Ngài
lồng lộng,
Các cõi gội
nhuần ân.
Nam mô kiết tường hội
thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Đến đây tụng
hồi hướng, phục nguyện, tự quy y. Xong đại chúng lui về hậu liêu. Nên nhớ
thiết lập đàn tràng luân phiên tụng niệm, viết 2 câu này trương lên phía sau
bàn Phật.
· Công viên vạn
đức vị chứng nhứt thừa, thị thiên trung thiên, thượng vô nhị thượng
· Hoành biến
thập phương, thọ cùng tam tế, thành Phật đảnh Phật, tôn duy độc tôn
Trước Phật 2
câu này:
· Bổn dĩ tích
chương, thủ quần linh nhi thành chánh giác
· Cơ nhân thời
ứng, tùng ngũ trược nhi thị giáng sanh
Trước cửa Chùa:
· Thoát trân
phục, trước tệ y, phiến chân phong ư mạt thế
· Xả hóa thành,
đăng bảo sở, yết huệ nhựt ư trung thiên
Bên hông chánh
điện:
· Vô Phật vô
ma, sát sát tuyên dương chánh pháp
· Phi cấu phi
tịnh, trần trần quán mộc kim khu.
Nghĩa 4 cặp câu
đối:
1- Vạn đức công
viên chưa chứng nhất thừa, hiện cõi trung thiên, vô thượng y vương
2- Thành Phật
tột Phật, duy nhất độc tôn, tận cùng ba thuở, dung khắp mười phương
1- Xưa lấy tích
chương, nhiếp quần sanh mà thành chánh giác
2- Cơ duyên hợp
thời, từ năm trược mà hiện giáng sanh.
1- Thoát hoàng
bào, mặc y vá, quyết chấn hưng thời mạt pháp
2- Bỏ hóa
thành, vào bảo sở, ngời tuệ giác cõi trung thiên.
1- Không Phật
không ma, niệm niệm tuyên dương chánh pháp
2- Chẳng dơ
chẳng sạch, trần trần tắm gội kim thân.
Chứng nghĩa ghi
rằng, từ trước tới nay tại các chùa viện chỉ tắm tượng Thái Tử đản sanh, chưa
nghe có lễ tắm Phật, hầu như là mất điển tích. Lễ tắm Phật chỉ xuất hiện từ đời
Minh, Thanh, trong Đại Tạng Kinh có ghi rõ, dựa theo kinh để nói. Trước lập đàn
giữa nền sạch, dùng một chiếc bàn trải khăn lên trên, trên bàn đặt thau nước
hoa, trong thau để gáo múc có tay cầm, dùng gáo múc nước tắm tượng Tất Đạt Đa.
Mỗi người dùng 2 ngón tay lấy ít nước tắm Phật, miệng đọc chú tắm Phật: Con nay
tắm sạch thân Như Lai… như trên.
Nước xối nhẹ
lên đầu tượng gọi là nước mát lành. Tắm tượng xong lấy vải lau sạch sẽ, rồi đặt
tượng trở lại vị trí cũ. Việc làm này ý bao hàm một đời giáo hóa của đức Phật.
Nay lục lại nguyên gốc để chỉ cho người mới học. Dựa theo nước Ấn Độ có chia ra
đông, nam, tây, bắc, trung ương năm nước lớn. Phật sanh ở Trung Thiên Trúc
thuộc gia đình hoàng gia nước Ca Tỳ La, giòng Sát Đế Lợi, tên là Cù Đàm, tiếng
Phạn là Gautama, Trung Hoa phiên âm là Cam Giá. Thủy Tổ Vương tiên bị người thợ
săn bắn chết, máu loang ra đất mọc lên 2 cây mía, mặt trời thiêu chín một cây
sanh ra một nam tử hiệu là Cam Giá Vương. Một cây là nữ, vợ vua tên Thiện Hiền,
sanh người con trai làm vua Chuyển Luân dùng mặt trời thiêu đốt, còn gọi là
Nhựt Chủng truyền tới 700 đời đến vua Tịnh Phạn. Phật do công phu tu hành nhiều
kiếp đầy đủ, từ cung trời Đâu Suất giáng xuống hoàng cung chun vào hông bà Ma
Gia phu nhân. Bấy giờ nhằm năm thứ 24 đời Châu Chiêu Vương, hay còn gọi là năm
Giáp Dần thứ (624 BC). Ngài sanh mồng 8 tháng 4, tên là Tất Đạt Đa. Sau khi
sanh được 7 ngày, mẹ mất bà sanh lên cung trời Đao Lợi. Nhờ bà dì Ma Ha Ba Xà
Ba Đề nuôi nấng, đến năm lên 19 tuổi, Thái Tử vượt thành đến rừng Bạt Già Tiên,
lấy kiếm cắt tóc, cổi áo hoàng bào đổi cho thợ săn, mặc áo ca sa làm vị khất
sĩ. Ngài đến tham học với các tiên nhơn nhiều nơi, lại tới vùng Bắc sông Hằng
tu thiền tại núi Già Xà hơn 6 năm khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt
gạo để duy trì sự sống. Ngài lại suy nghĩ: nếu xả thân mà giữ đạo, bọn ngoại đạo
sẽ cho là ta đói, là nguyên nhân nhập Niết Bàn. Bèn tới dòng sông Ni Liên tắm
rửa xong và nhận một bát sữa của nàng chăn bò dâng cúng. Uống sửa xong, Ngài
đến dưới cây Bồ Đề, được trời Thích Đề Hoàn Nhơn đem cỏ kiết tường trải cho
Ngài ngồi kiết già tọa thiền.
Ngài phát lời
thệ nguyện:
-
“Ngồi dưới gốc cây này, nếu không thành đạo chứng quả, dù thịt nát xương tan,
Ta quyết không rời khỏi nơi đây”.
Ma Vương Ba
Tuần muốn làm hại Ngài nên tìm bách kế quấy nhiễu như nói rằng:
-
“Ông nay mau nên đứng dậy trở về hoàng cung. Nếu không làm thế ta sẽ xách chân
ông quăng ra ngoài biển khơi.”
Lúc đó Bồ Tát
như sư tử chúa, tâm không chút kinh sợ, bảo với ma rằng: “Ngươi từng cúng
dường một vị Bích Chi Phật, thọ 8 trai giới, do phước này nên được làm thiên vương.
Nhưng ta đã trải qua vô số kiếp tu hành thành tựu hạnh khổ hạnh khó hành. Cõi
đại địa như kim nhọn đâm mình, nếu như xưa ta không tu khổ hạnh, giá như quân
ma nhiều như cát sông Hằng cũng không làm động đến một sợi lông ta. Tại sao nay
ngươi muốn đem Ta quăng ra ngoài biển?”
Ma lại
nói:
-
“Ta trong thuở xưa cúng thí cho một vị Bích Chi Phật mà được làm thiên vương,
việc này đã rõ ràng. Nay ngươi nói đó lấy gì chứng minh?”
Ngay lúc đó Bồ
Tát mở tay chỉ xuống đất nói:
-
“Đây hãy biết Ta.”
Lúc bấy giờ Địa
Thần từ mé Kim Cang chui thân hiện ra, chấp tay bạch rằng: “Thật đúng là tôn
giáo từ đất này mà đến. Ta là thần cuộc đất đây không có thứ kim nhọn, chẳng
phải là chỗ bổn hạnh của Bồ Tát.”
Ma nghe lời này
bèn rơi trong điên đảo làm lễ sám hối tội rồi bỏ đi. Bồ Tát dẹp bọn ma xong
ngày mồng 8 tháng 12 lúc sao mai vừa mọc hoát nhiên đại ngộ thành đạo vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Nhân gian
truyền rằng Phật thành đạo mồng 8 tháng chạp, có nghĩa là thuyết này đúng lúc
đó ngài 30 tuổi. Tại Ma Kiệt Đà, đại học Na Lan Đà, Phật vì Đại Thừa Bồ Tát nói
Kinh Hoa Nghiêm, hàng Tiểu Thừa không thấy không nghe như người đui điếc. Do
trời Phạm Thiên, Đế Thích thưa thỉnh Phật bèn tới vườn Lộc Uyển vì năm anh em
ông Kiều Trần Như mà nói pháp bốn chân lý (tứ đế) cũng như nhơn quả của nhân
thiên trải qua 12 năm.
Lúc 42 tuổi,
Phật nói Kinh Phương Đẳng để dạy hàng Đại Thừa chuyển đại pháp luân. Nói sáu độ
chọn lọc đệ tử, nói Kinh Duy Ma, Lăng Già trong 8 năm. Năm 50 tuổi, phần lớn
Phật thuyết Kinh Bát Nhã để loại bỏ bớt kẻ tình chấp nặng trong 22 năm.
Lúc 72 tuổi,
Phật giảng Kinh Pháp Hoa trong 8 năm, để cho chúng đệ tử nhận lãnh trọng trách
và thọ ký ai làm Phật mới mãn nguyện bổn hoài của Ngài. Vào đời Mục Vương thứ 53
năm Nhâm Thân, lúc đó Phật 79 tuổi Ngài sắp nhập Niết Bàn. Trước hết Phật tới
trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân nghe. Di mẫu bà Đại Ái Đạo cùng 500 tỳ
kheo ni, Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v.. và 7 vạn A La Hán không đành
lòng thấy Phật nhập Niết Bàn, tức có nghĩa là nhập diệt. Đến năm sau ngày rằm
tháng 2 âm lịch, Phật đến ngoại ô thành Câu Thi Na để nhập Niết Bàn. Mười cõi
đều có mặt, mỗi người đem cúng đồ đẹp xinh Phật đều không nhận. Cuối cùng, ông
Thuần Đà cúng dường bữa cơm Phật thọ nhận.
Ngài vì chúng
tỳ kheo thuyết pháp thường lạc ngã tịnh, và dạy y theo giới luật làm thầy, y
bốn niệm xứ mà an trú. Phật còn dạy: “Chánh pháp vô thượng Ta đã phó chúc cho
Ma Ha Ca Diếp nên các Thầy phải một mực y chỉ hành trì.” Do vì Như Lai biết A
Nan bị ma quấy nhiễu ở ngoài rừng Sa La, nên bảo Văn Thù rằng:
-
A Nan là em Ta, theo làm việc với Ta hơn 20 năm, nghe pháp và nhớ kỹ đạt đến
chỗ không thể nghĩ bàn, như nước đựng trong bình chứa, muốn thọ trì là Kinh
Niết Bàn.
Bồ Tát Văn Thù
vâng lời Phật dạy, đem chú hàng phục ma ra bắt A Nan về. Phật dạy:
-
Có một người Phạm Chí tên là Tu Bạt Đà La 120 tuồi chưa bỏ kiêu mạn, ngươi có
thể bảo với ông như vậy.
Như Lai trong
đêm nay phải nhập Niết Bàn, tức thời ông ta cùng đến nghe Phật thuyết pháp bèn
chứng quả A La Hán.
Phật bảo đại
chúng:
-
“Từ khi Ta đắc đạo trước độ anh em Kiều Trần Như và sau cùng độ Tu Bạt Đà La.
Công việc ta đã xong.”
Trong đêm rằm
tháng 2, Phật nói Kinh Di Giáo, lại chỉ dạy rõ ràng:
-
“Tỳ Kheo các con, sau khi Ta diệt độ nên tôn trọng Ba La Đề Mộc Xoa (giới
luật), đó là vị đại sư của các con, như Ta còn ở đời không khác vậy”.
Lúc đó giữa 2
cây Sa La, Phật nằm nghiêng bên hông phải và tịch diệt, yên lặng như tờ. Phật
nhập thứ đệ định vào ra thuận nghịch, tất cả 27 lần, 3 vòng xong, Ngài xoay bảo
đại chúng:
-
“Lấy Bát Nhã chân không thật tướng làm bổn nguyên; sau khi Ta niết bàn, đệ tử A
Na Luật lên cung trời Đao Lợi báo cho Ma Gia phu nhân biết.” Bà từ cõi trời
xuống, đức Thế Tôn vạch kim quan đứng dậy thuyết pháp an ủi mẹ.
Lại bảo A
Nan:
-
“Nên biết là về sau này có những chúng sanh bất hiếu, nên Ngài từ Kim quan bước
ra hỏi thăm mẹ…”
Phật nhập Niết
Bàn 7 ngày sau, Ca Diếp xuất định mới biết Phật đã thị tịch bèn dẫn theo 500 đồ
đệ đi bộ từ núi Kỳ Xà Quật đến rừng Câu Thi Na khóc lóc lễ lạy. Phật đưa 2 chân
ra khỏi kim quan cho Ca Diếp và chúng đệ tử thấy. Hai tuần lễ sau trời người
mang hương hoa tới nơi làm lễ hỏa thiêu, tức là làm lễ hỏa táng. Bảy ngày sau
các đệ tử thâu xá lợi cho đầy vào 8 hủ báu. Vua A Xà Thế cùng 8 nước tranh nhau
đoạt xá lợi. Sau khi nghe phân giải họ ngưng tranh chấp và 8 nước, mỗi nước
thỉnh một phần xá lợi đem về xứ phụng thờ. Đến 100 năm sau Vua A Dục dùng thần
lực cho thâu xá lợi lại trong một đêm dựng 84,000 tháp và mỗi tháp thờ một phần
xá lợi. Vua cũng chỉ định cho tôn giả La Hán Da Xá phóng 84,000 tia sáng theo
ánh sáng tới các tháp xá lợi; trời, người, 8 bộ chúng đều được dự phần cõi nước
đều chấn động. Theo ngành khảo cổ truyền rằng, có 19 tháp nay còn rất linh
thiêng mà theo như tác giả, tháp chùa A Dục tại Ninh Ba là một trong số đó.
1.2 Lễ Phật
Thành Đạo
Ngày mồng 8
tháng 12 âm lịch là lễ vía Phật thành đạo. Sắp tới ngày lễ, viết thông bạch gởi
đăng báo, đọc trên đài phát thanh, dán tại trai đường, phòng khách. Sáng hôm làm
lễ kỷ niệm, sau khi tụng chú Lăng Nghiêm, lạy chúc Thánh. Buổi sáng có thuyết
pháp, cúng ngọ giống lễ Phật Đản. Nghi tiết như sau: lễ niệm hương, cắm hương
lên lư, Thầy Duy Na cử tán bài:
Lư hương sạ
nhiệt,
Pháp giới mông
huân,
Chư Phật hải
hội tất giai văn,
Tùy xứ kiết
tường vân,
Thành ý phương
ân,
Chư Phật hiện
toàn thân.
Nam Mô Hương
Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tụng bài cúng
dường : Nam Mô thường trụ…., châm trà, hiến phạn… do thị giả bưng cúng; Thầy
Tri Khách lấy đặt trên bàn, xong lạy 3 lạy; vẫn đứng nguyên và đọc chú Phổ cúng
dường: Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc (3 lần). Duy Na ra trước
dâng hương lễ 3 lạy và quỳ gối chấp tay bạch…
Tất cả các lễ
vía Phật, Bồ Tát trước lễ cúng ngọ đều giống như phần này. Tuy lời văn bạch có
khác nhau như sau:
Cung kính nghe
rằng, từ vô lượng kiếp, Ngài thành Phật đâu chẳng mượn chỗ tấn tu vì thương
chúng sanh lâu ngày chẳng biết mà chỉ rõ tánh giác: tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn thành chánh giác; thế gian, xuất thế gian đều xưng là Thế Tôn.
Phật một đời giáo hóa, tuân theo quy tắc chư Phật quá khứ, ngồi dưới cây Bồ Đề,
hàng phục ma quân, như hoa Ưu Đàm tỏa sáng. Bánh xe pháp như đèn sáng thường
vận chuyển ví như mặt trời mới mọc trước tỏa ánh quang, nhưng sau cùng biểu
hiện hiện giơ cành hoa trao truyền; trông lại lớp sau làm gì biết được! Tụng
lời Phật di giáo mà ngậm ngùi. Nay ngày mồng 8 tháng chạp nhân lễ vía đức Thế
Tôn thành đạo, hiện chúng con sắm sửa ít hương hoa, phẩm vật cúng dường kỷ
niệm. Nguyện cho sắc – không, sáng - tối hàm tuyên pháp âm vi diệu soi các loài
hàm thức nhỏ nhiệm thảy nhờ trí tuệ đức tướng rọi soi.
Đọc lời cung
bạch xong vẫn đứng nguyên, cử tán:
Mồng 8 tháng
chạp ngộ tánh linh,
Bồ Đề đạo tràng
chánh giác Phật thành,
Nửa đêm lúc sao
mai vừa mọc,
U ám dứt xuất
hiện bình minh,
Phật cứu độ hết
thảy quần sinh.
Thuyền duyệt
tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Thường thường
vào ngày lễ vía như hôm nay, chúng luân phiên tụng niệm thành nhiều ban, thuyết
pháp, cúng ngọ v.v…
Phần thêm: đọc
phần sau đây:
Bậc chánh giác
giác ngộ lúc sao mai vừa mọc
Cõi đại thiên
thiên hạ giương tuệ chiếu lưu truyền.
Chứng nghĩa ghi
rằng: đức Thế Tôn lúc mới thành đạo than rằng, kỳ lạ thay hết thảy chúng sanh
đều có trí tuệ đức tướng Như Lai; chỉ vì vọng tưởng chấp vướng nên không thể
chứng đạt được, để thấy đạo chân thật mà ai cũng có thể thành tựu. Người không
chứng được bị chìm đắm trong 5 dục vọng, vọng tưởng tình trần. Bởi thế nên tai
dù nghe, như kẻ điếc không nghe tiếng chuông trống; mắt tuy thấy như người mù
không thấy trời trăng. Luận cái lớn của đạo hẳn trong trời đất không đủ để đo
lường được, nên không có phạm vi đo lường hết, không đủ để vào đạo, là cái quí
của đạo vậy. Người sang chưa đủ thấy làm vinh, nên không thấy kẻ sang ở đời học
đạo; không đủ để nhập đạo, nên xa đạo vậy. Nhiều kiếp không đủ để kỳ hẹn, nên
không thể một niệm biết vạn niên không đủ để nhập đạo. Cho nên có câu rằng:
“nói đạo dễ, thành đạo khó, chứ đạo chẳng khó mà tự người khó vậy.” Người xưa
nói: sử đạo cống hiến chớ không thể hiến vua; đạo là mình tiến chớ không phải
người thân tiến. Đạo có thể hiến chớ không thể hiến con cháu. Thật là lời chính
xác vậy thay! Có nghĩa rằng tự tánh tự độ cho nên hàng Thích tử chúng ta đối
với ngày này nên nghĩ sâu để có đức trí tuệ của lời nói, không nên tự khinh mà
lui sụt vậy.
1.3 Vía Phật
Nhập Niết Bàn
Ngày 15 tháng 2
âm lịch là ngày đức Phật nhập Niết Bàn. Như thường lệ, chùa ra thông báo, đăng
báo, đọc trên đài phát thanh, dán nơi trai đường, phòng khách. Thông báo viết:
nhằm ngày đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Niết Bàn, sáng nay đại chúng khi
nghe chuông hiệu lệnh, đắp y chỉnh tề vân tập chánh điện. Nghi thức giống như
lễ Phật đản, đúng ngày sáng hôm đó lễ Chúc Thánh thù ân như mồng một, rằm. Tuy
nhiên, ngày Phật Niết Bàn có khác là các Thầy nghe chuông trống theo thứ tự
tiến vào chánh điện lễ đức Thích Ca Như Lai niết bàn bằng sám văn và tụng kinh
Di Giáo. Chi tiết giống như vía Phật Thành Đạo. Tuy nhiên, lời văn đọc thay đổi
như sau:
Cung kính vì
bậc Năng Nhân ra đời chứng chân vắng lặng, bổng nghìn cõi quí tôn, vỗ về chúng
sanh như con ruột. Hình tùy vật hiện như nguyên sơ thân chẳng phải thân tướng.
Giáo hóa tùy cơ hưng long đâu khác đạo vô ngôn mấy, chừng như pháp luân chuyển
vận ứng hợp mà phát triển. Nửa chữ luận ban đầu ví như cung tay mà thu rút lại;
trăm thoi vàng sau khi gởi do đổi mạng chỉ để chưng bày, làm cho phiền não đều vén
dẹp, an trụ trong Như Lai tạng. Bốn tâm[1] viên mãn, ba đức[2] quy về, nên nói
chẳng làm cho một người duy nhất được diệt độ nhưng Phật diệt độ nên mới diệt
độ vậy. Vì thế, nhập vào Niết Bàn không thể được mà suy nghĩ, chúng ta đã xa
rừng hạc, đau buốt xót xa duyên đời trước trong đời tượng Pháp tuân lời Phật
dạy. Nay nhằm giữa mùa xuân, nghĩ miên man nghi cách của Bắc thủ, khe suối róc
rách cỏ tần, biểu tỏ tiến cúng lễ mọn, dâng hương xưng tán đức. Trải chút lòng
thành mong rủ hồng ân chứng tri soi xét… Xong cử tán:
Từ phụ bậc vô
thượng y vương,
Xót thương con
trẻ bịnh bày ấn phương,
Như mây vần
pháp tánh chân thường,
Thọ mạng vô
cùng thật khó nghĩ lường.
Thuyền duyệt
tạng Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Hoặc tán bài:
Đại định thường
trong hằng hà sa kiếp
Mãn cơ ứng hóa
hiện trăm ức thân.
Nguyên bản
thuật rằng, tánh ấy là gốc của con người; chấn động trời đất mà không biết lúc
khởi đầu; khắp cùng muôn đời mà không biết lúc chung cuộc. Phật và chúng sanh
đều có tánh ấy, ngộ tức lên bậc diệu giác; mê là trôi lăn sanh tử, từ kiếp này
sang kiếp khác xuống lên trong 6 đường, nghiệp báo xoay vần không cùng tận. Vì
thế, nương theo lời Phật dạy chịu khó làm chỗ nương tựa; ta có thêm y phục dự
vào dòng pháp, tuân theo thực hành là luật, tuyên lời Phật dạy là pháp giáo
hóa, truyền bá cái tâm ấy là thiền mà tuần tự là chánh tông. Vì đồng với toàn
thể diệu dụng của Phật mới gọi là con Phật mà duy trì huệ mạng vậy. Kỷ niệm
ngày húy nhựt đâu phải chỉ lễ nghi ở đời đủ sao?
Chứng nghĩa
rằng, căn cứ Kinh Đại Bát Niết Bàn, lúc Phật Niết Bàn có dạy rằng, hiến cúng
như mây, nước mắt tan như mưa, ôi thương xót làm sao! Ngoài ra, đọc tạng Thanh
Minh theo như phần hàm thật, văn tán thán lễ đức Thích Ca Như Lai Niết Bàn,
diễn tả tướng trạng Phật Niết Bàn như hiện ngay trước mắt, mà tỏ lòng luyến mộ
khôn xiết. Hiện tại người ta ít biết được, dứt tuyệt mà không nêu rõ là đại mất
gốc. Chỉ Ngài Tư Tề đại sư xướng hội Niết Bàn ở chùa A Dục tại Ninh Ba, nhóm
chúng buổi sáng lễ Xá Lợi mà đời luôn nhắc tới; có người hỏi rằng, ta nghe pháp
thân chư Phật biến khắp mọi nơi chốn, vốn không xuất thế mà lấy Niết Bàn là
ngày kỵ gì? Cho chí đệ tử thiền tông đơn phương nêu rõ khiến Phật còn không có,
Niết Bàn làm gì có. Nay trong pháp không sanh diệt, vọng thấy có sanh diệt,
trên dâng cúng lễ sám, đâu chẳng do tâm mê chấp cảnh mà không đạt lý tánh chứ?
Sư trả lời:
-
Ngươi biết pháp thân thường trụ mà không biết ứng thân mất; biết pháp biến cùng
khắp mà không biết ứng thân có chỗ, chẳng phải ứng thân. Pháp thân hiển hiện tự
nhiên không có xá lợi, ai biết gốc tích? Đã nói pháp thân thường trụ đâu có xen
vào ứng thân; đã nói thể pháp biến cùng khắp thà riêng có xá lợi. Ngươi muốn bỏ
sự cầu lý, bỏ hữu bàn không; sự tướng còn mê huống gì lý tánh ư? Xưa Đại Ca
Diếp sắp vào núi Kê Túc hẳn lễ quanh các tháp sau mới nhập thiền định. Luận về
Ca Diếp là sơ Tổ thiền tông há không đạt lý tánh đương nhiên ư? Nên biết đức Như
Lai nhập Niết Bàn thật không thể nghĩ bàn; phi thường phi đoạn, phi hữu, phi
vô; không nên lấy biên kiến mà sanh ra phân biệt. Ngươi chấp pháp thân thường
trụ là không thấu đạt Như Lai khéo dùng phương tiện, là việc lợi ích chúng
sanh. Do vì không hiểu lý thâm sâu lời dạy mà đưa tới như vậy, ôi thôi !
Tự Sư đề xướng
lập hội Niết Bàn, người sau cứ theo đó mà làm cho đến nay không dứt khiến nhiều
người biết ân đức của đức Phật mà hết lòng báo bổn. Công đức của Thầy có thể
nào lường được không? Song lạy xá lợi không hẳn cần phải ràng buộc trong hội
này. Muốn cầu sám tội, báo ân không buộc mà lúc nào cũng đều có thể thực hành được.
Sách Vân Thê Thiên Hành Lục ghi rằng, Đường Tử Lân họ Phạm, mẹ họ Vương không
tin Tam Bảo. Lân tới Đông đô vào chùa Quảng Thọ xin Khánh Tu luật sư xuất gia,
bổng nghĩ tới mẹ bèn trở về. Cha mù mắt, mẹ mất 3 năm. Nhân tới miếu thần trải
tọa cụ tụng Kinh Pháp Hoa thề gặp Nhạc đế, mong biết mẹ sanh chốn nào. Một đêm
kia Nhạc đế gọi bảo rằng: “mẹ ngươi bị giam ở địa ngục và hiện thọ bao thống
khổ.”
Lân kêu khóc
xin tha. Đế nói:
-
Có thể vào núi lễ bái ở tháp A Dục mới mong cứu thoát.
Lân liền tới
tháp khóc lóc lễ lạy đến 4 vạn lạy. Chốc lát nghe tiếng kêu, Lân nghe tiếng
vọng nhìn trên không trung thấy mẹ vọng xuống cảm tạ nói:
-
Nhờ lực của con mẹ được sanh trời Đao Lợi rồi, bổng biến mất không thấy nữa.
Ngài Liên Trì
ca tụng rằng:
Mục Liên cảm
lời Phật cúng dường tăng
Tử Lân đi lễ
tháp cảm lời thần
Lòng hiếu cảm
thần minh há không tin?
Vì cứu mẹ lễ
tháp mà lợi lành
Chí như người
đầy tội lỗi phát sanh
Nhờ lễ tháp mà
lại được tịnh thanh
Không còn gì
hơn phước lợi lành
Lại màu sắc xá
lợi tùy người
Tùy thời gian
biến hóa không thể lường.
Như ta từng
nghe thấy không thể nào thuật hết được. Do thấy oai thần và bi nguyện của Phật
cả hai không thể nghĩ bàn, chỉ nên tin là thật không còn nghi nữa. Chí thành lễ
hết lòng quyết định có cảm ứng.
1.4 Vía Phật
Dược Sư
Ngày 13 tháng 9
âm lịch, vía Phật Dược Sư giáng sanh. Sáng sớm hôm đó, khóa lễ Kinh Lăng Nghiêm
như thường lệ. Đọc tới bài tán: Thượng lai hiện tiền thanh tịnh chúng, phúng
tụng Lăng Nghiêm… xong ngưng lại, Thầy Trụ Trì niệm hương, cắm nhang vào lư.
Thầy Duy Na cử bài tán: Lư Hương, tiếp lạy thù ân và lạy 12 hiệu Phật Dược Sư…
Buổi sáng, đại
chúng sau khi nghe hiệu lệnh, đắp y tập trung lên điện Dược Sư để cúng ngọ như
nghi thông thường, tuy thay đổi Kinh tụng và hiệu Phật như:
Nam Mô Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai (3 lần)
Nam Mô Bạt già
phạt đế, bệ sát xả lũ lô tích lưu ly, bát lặc bà hắc la xà dã, đát tha yết đa
da. A ra hắc đế tam miệu tam bột đà da. Đát điệt tha, án bệ sát thệ, bệ sát
thệ, bệ sát xả, tam một yết đế sá ha (49 lần đủ số, ít nhất tụng 12
biến).
Tụng xong, tiếp
theo tụng: chú biến thực biến thủy…(21 lần); chú cam lồ, Phổ cúng dường mỗi câu
3 lần. Thầy Duy Na quỳ đọc văn sau:
Cung kính nghe
rằng cõi Đông phương có Phật Dược Sư Như Lai công đức trí tuệ không lường. Ngài
trang nghiêm phóng hào quang sáng hơn mặt trời mặt trăng đến hết thảy cõi giới sạch
như lưu ly, cùng các cõi bốn phương sánh không có khác. 12 lời đại nguyện Ngài
lợi lạc chúng sanh, phàm hễ có mong cầu đều tùy theo mà được mãn nguyện. Niệm
danh Phật cùng Phật không khác đều đầy đủ 32 tướng đại trượng phu và 80 vẽ đẹp
tùy hình. Tất cả những tai nạn ác thú nhờ oai thần Phật mà được thoát khỏi. Đệ
tử chúng con nguyện đạt vô thượng Bồ Đề, đời đời kiếp kiếp tu Bồ Tát đạo; cũng
như Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đã phát 12 đại nguyện lợi lạc hết thảy
chúng sanh, liền làm cho cõi kham nhẫn này thân tâm các loài và quốc độ đều như
lưu ly; mặt thấy đức Phật và Phật A Di Đà. Lại mong cho pháp giới chúng sanh
đông tây gặp nhau nhị kiến mất hẳn ở trong trung đạo, cùng chứng pháp chân
thường.
Đọc xong cử bài
tán Phật Dược Sư:
Phật Dược Sư
hiệu Lưu Ly Quang
Tám đại Bồ Tát
giáng kiết tường
Bảy đức Phật
rộng tuyên dương
Trời trăng sáng
soi, công đức khó lường…
Nam Mô Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai (3 lần).
Chứng nghĩa,
giải thẳng rằng: 2 tiếng Dược Sư - Dược: lấy thuốc trị bịnh làm công; Sư: lấy
lời dạy đạo làm nghĩa là đại sư của pháp giới, bậc y vương không ai bằng. Vì
chúng sanh có đủ loại bịnh khổ nên chư Phật có nhiều thuốc pháp, như bịnh 10
điều ác có thuốc thập thiện; bịnh 4 tâm điên đảo có thuốc bốn niệm xứ; bịnh
tham nhiều dùng thuốc quán bất tịnh trị; bịnh nhiều sân dùng thuốc quán từ bi
trị; bịnh nhiều si dùng thuốc quán nhân duyên trị, bịnh nhiều tán loạn dùng
thuốc quán hơi thở trị; bịnh nhiều chướng dùng thuốc quán niệm Phật; bịnh 6 tệ
hại dùng thuốc 6 độ trị; cho đến 84,000 bịnh phiền não dùng thuốc 84,000 pháp
môn trị v.v..
Lưu Ly Quang
tiếng Phạn là Phệ Lưu Ly. Trung Hoa dịch là trời xanh ngọc. Thứ ngọc này sáng
đẹp đem ví với thân Phật mà nói quang đó, do sạch đẹp nên trong sáng vậy. Nói
Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật. Dựa theo ứng thân, thừa đạo như thật,
lại thành chánh giác nên gọi Như Lai vậy. Dựa theo báo thân, đệ nhứt nghĩa đế
gọi Như; chánh giác là Lai. Dựa theo pháp thân: không từ chỗ nào tới, cũng
không đi đâu, nên gọi Như Lai vậy.
Kinh bản ghi
rằng, nếu có kẻ tin thanh tịnh nam hay nữ nghe được danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, nghe rồi đọc tụng, cho chí cúng dường hình tượng v.v.. Nên biết
chỉ do nhân duyên niệm Phật mà việc làm có cảm được Phật hộ niệm là có thể ứng
ngay. Do cảm nên ứng, cảm ứng đạo gặp nhau, nên đạt chỗ sở cầu như nguyện thành
tựu nhẫn đến thành Phật.
Tụng chú cảm ứng
ý nghĩa cũng như trì danh niệm Phật.
1.5 Lễ vía Phật
Di Đà
Ngày 17 tháng
11 âm lịch là lễ Phật A Di Đà đản sanh. Nghi tiết giống như vía Phật Dược Sư,
chỉ thay đổi tụng Kinh Di Đà và lời bạch như sau:
Cung kính nghe
rằng, năm hoa mai khâu kết viền cho đến thời Chu Chánh Kiến Tử…
Chính giác
hoàng lập hội Di Đà Khánh Đản
Thiết nghĩ… tên
Trụ Trì….
Ái buộc đất
nước bẩn nhơ, nghiệp ràng thân huyễn
Được gặp thân
thừa quán vòng hoa mà nung chí
Chuyên tu tịnh
niệm hướng đất báu để gởi thần
Muốn báo đáp lòng
thương bao la của mẹ
Không gì hơn
hôm sớm tâm thành
Thiết lập đạo
tràng kính tôn hiến cúng
Niệm hồng danh
công đức
Tụng kinh điển
nhứt thừa
Ngưỡng nguyện
mắt xanh biếc rủ soi
Tay vàng phả
ánh sáng trong rừng bảo thọ
Vọng nghe tiếng
Phạm âm bàn thật tướng
Dây vàng trong
cõi chiêm ngưỡng diệu tướng vãng sanh.
Lại nguyện:
Hồng ân thương
xót chứng minh nạp thọ. Đứng nguyên và cử tán bài: Lạc Bang giáo chủ… Xong lạy
3 lạy rồi lui ra.
Chứng nghĩa ghi
rằng: đức Phật A Di Đà là chỗ nương tựa vững chắc của chúng sanh cõi Ta Bà này
như niệm danh hiệu Ngài, tụng các Kinh Tịnh Độ đều đã có nói rõ. Nhưng tổ chức lễ
Thánh đản của Phật là chưa thấy phổ thông mà hầu như thiếu kinh điển. Đức Phật
Thích Ca xưng tán cõi Tịnh Độ chỉ cho ta trở về nhà mà Phật A Di Đà là chốn gia
hương thân thuộc ta đó. Chúng ta yêu thương quốc độ đó, lao nhọc lâu tựa cửa
ngóng trông, nay gặp ngày đản sanh của cha lành không thể tự ý mà có được. Cho
nên vía Phật A Di Đà phải do đức Phật Thích Ca khởi xướng. Vã từ trước tới nay
người niệm Phật bình thường gọi là chuyên tu, đến khi cầu thọ mạng (sống lâu)
đổi tụng Kinh Dược Sư; muốn giải tội khiên tụng Kinh Lương Hoàng Sám, cứu nạn
nguy cấp tụng chú Tiêu Tai, cầu trí tuệ niệm danh hiệu Quán Thế Âm.
Như có ý hướng
niệm Phật A Di Đà nên đặt ở một chỗ cao mà không nghĩ là niệm Di Đà mới cảm
được thọ mạng lâu dài, huống gì Ngài hiện thân sống lâu vô lượng ư? Niệm Phật A
Di Đà có thể diệt được tội sanh tử trong 8 ngàn ức kiếp, huống gì tội chướng
lâm nguy trước mắt ư? Kinh Di Đà ghi rằng: “Ta lấy trí huệ quang soi sáng vô số
cõi, huống người đời xưng trí huệ ư?” Cho nên Phật A Di Đà như cây thuốc (lương
dược) quí trong núi Tuyết Sơn, chữa trị được bá bịnh; không chỉ riêng cầu sanh
về Tịnh Độ như chúng sanh mong mỏi.
Căn cứ theo báo
Sơn Am tạp lục ghi: Đời Nguyên Triều niên hiệu Chí Chánh 15 vào mùa đông có
Trương Sĩ Thành xâm nhập Hồ Châu vùng Giang Triết phòng ngự, thắng được loạn
tặc hơn 40 người, ban đêm lưu lại chùa Ô Sào tại Tây Hồ. Lê Minh Thích trước ở
chùa Thiên Ninh tại Nhiêu Châu, vị tăng bày mưu lớn. Hai dãy nhà hai bên có lối
đi bộ, gả tù nhân thấy nhà sư lập mưu; tụng Kinh không dứt, nguyện cầu
rằng:Thầy cứu con. Sư nói: “Ta cứu con không được. Nếu con hết lòng thành niệm
Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn A Di Đà Phật mới cứu được con.” Trong đó có người thành
tâm niệm Phật lớn tiếng ngày đêm không dứt mà quan tòa đã bỏ tù họ, trói lõng
lẽo. Đến người thứ ba do thiếu đồ trói nên chỉ cột bằng dây. Đưa đến quan xử,
quan tòa riêng vặn hỏi người thứ ba này. Người thứ nhất khai canh tác ruộng lúa
mạch, bị bắt; người thứ nhì khai làm nghề thợ cưa ở Ninh Châu tới đây làm việc,
bị bắt; người thứ ba bèn được miễn. Bèn đến chùa Ô Sào lễ tạ Thầy đã bày mưu kế
rồi từ giả. Do quán xét việc này đến như tội tử hình, niệm Phật có thể khỏi,
huống gì việc khác chứ? Cũng cần ghi thêm ở đây: để khuyên người niệm Phật
không thành khẩn nên không như nguyện.
1.6 Vía Phật Di
Lặc
Ngày mồng một
tháng giêng âm lịch (ngày đầu năm) là lễ Phật Di Lặc đản sanh. Nghi thức giống
như cúng Phật Dược Sư. Niệm hiệu:
Nam Mô Đương
Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (3 lần).
Tiếp tụng Kinh
Di Lặc hạ sanh thành Phật hoặc Kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới; Chương Di
Lặc, Thiện Tài đồng tử tán thán đức Di Lặc:
-
“Phật tử ở trong đây, hiện khắp trước chúng sanh, như vầng mặt trời, mặt trăng
dứt trừ sanh tử u ám.
-
Phật tử ở trong đây thuận khắp tâm chúng sanh, biến hiện vô lượng thân trong
khắp 10 phương.
-
Phật tử ở trong đây dạo qua các thế giới của hết thảy chư Phật trong vô lượng
kiếp.
-
Phật tử ở trong đây nghĩ sâu về Phật pháp trong vô lượng vô số kiếp mà tâm
không mệt mỏi chán nản.
-
Phật tử ở trong đây mỗi niệm nhập thiền định, mỗi một môn thiền định làm hiển
sáng cảnh giới chư Phật.
-
Phật tử ở trong đây hẳn biết tất cả mọi cõi trong vô số kiếp, cũng biết danh
hiệu Phật và chúng sanh.
-
Phật tử ở trong đây một niệm bao hàm mọi kiếp, chỉ tùy tâm chúng sanh mà không
có tưởng phân biệt.
-
Phật tử ở trong đây tu tập các thiền định, trong mỗi một tâm niệm hiểu rõ các
pháp trong 3 đời.
-
Phật tử ở trong đây thân ngồi kiết già bất động, hiện khắp ở các cõi trong tất
cả mọi loài.
-
Phật tử ở trong đây uống biển Phật pháp, thâm nhập trí tuệ rộng sâu, đầy đủ
công đức hải.
-
Phật tử ở trong đây ắt biết số cõi, số đời, số chúng sanh và số chư Phật cũng
vậy.
-
Phật tử ở trong đây một niệm đều hiểu rõ tất cả 3 đời sự thành hình, biến hoại
cõi nước.
-
Phật tử ở trong đây biết rõ hạnh nguyện chư Phật, chỗ tu hành của Bồ Tát, cũng
như căn tánh dục của chúng sanh.
-
Phật tử ở trong đây thấy trong một hạt bụi có vô số đạo tràng, số chúng sanh và
kiếp số.
-
Phật tử ở trong đây thấy hết thảy bụi cũng thế, chủng loại hàm đủ, nơi nơi đều
không ngại.
-
Phật tử ở trong đây quán khắp hết các pháp, cõi chúng sanh và kiếp sống không
khởi cũng không sở hữu. Quán sát các chúng sanh, các pháp, chư Phật, các cõi,
các nguyện 3 đời thảy bình đẳng.
-
Phật tử ở trong đây giáo hóa các chúng sanh, cúng dường các đức Phật, suy niệm
các pháp tánh trong vô số nghìn vạn kiếp, có hạnh tu nguyện lớn không đo lường,
tán dương cũng không thể hết được.
-
Các việc đại dũng mãnh ấy đã hoàn tất không có chướng ngại, an trú trong đấy,
Con chấp tay đảnh lễ. Là trưởng tử của chư Phật, Thánh hiệu Từ Thị, Con nay
cung kính đảnh lễ, mong Phật dũ lòng thương xót nghĩ đến Con.”
Nam Mô Đương
Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (108 biến). Tiếp tụng chú Biến Thực, Cam Lồ Thủy,
Phổ cúng dường… như nghi cúng vía Phật Dược Sư.
Duy Na đọc lời
bạch:
Cung kính nghe
rằng: Di Lặc đại sĩ vào ngôi bổ xứ, hiện ở Cung trời Đâu Suất sẽ kế đức Thích
Ca, sanh vào cõi Diêm Phù Đề, nhận di huấn của đức Năng Nhân (Phật Thích Ca); vì
chúng sanh làm thầy dẫn đường, không có sự bức ngặt của 3 tai ách. Cõi Diệu
Nghiêm an lành của năm phước[3] thấm nhuần mọi loài. Dưới cội Long Hoa ắt nghe
âm giáo ba hội[4]; trước tòa bảo liên được thọ ký đời sau thành Phật. Nay gặp
tiết đầu xuân nhằm ngày Khánh Đản, chúng con thành tâm thiết lễ phẩm cúng
dường, tán dương tôn hiệu.
Lại nguyện:
hiện tại gió lành che cõi nhân gian, tương lai giáng sanh vận truyền chánh pháp
sâu rộng.
Đọc xong, cử
tán:
Pháp thân hiển
hiện, lầu các mở bày
Từ bi nở rộ hội
Long Hoa.
Độ chúng sanh
thoát khỏi trần ai
Cung kính lễ
liên đài
Phật bổ xứ
trong tương lai.
Nam Mô Đương
Lai Di Lặc Tôn Phật (3 lần).
Tụng Bát Nhã,
niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…
Chứng nghĩa ghi
rằng: ở đây bài kệ trên trích Kinh Hoa Nghiêm quyển 79 có ghi: tiếng Phạn là Di
Lặc, Trung Hoa dịch là Từ Thị. Kinh Bất Thực Nhục ghi rằng: vào đời quá khứ có
một thế giới tên là Thắng Hoa Phu, ở đó có đức Phật hiệu là Di Lặc luôn đem
lòng từ giáo hóa tất cả. Đức Phật đó thuyết Kinh Từ Tam Muội quang đại bi hải
ghi rằng: lúc đó cõi kia có một vị tiên nhơn tên là Nhứt Thiết Trí Quang Minh,
nghe Kinh này có công đức, nguyện trong đời vị lai thành Phật cũng hiệu là Di
Lặc. Lúc ấy ông bỏ tục xuất gia vào tu trong núi sâu, sau đó gặp năm mất mùa
không thể khất thực được. Bấy giờ trong rừng có 2 mẹ con con thỏ, thấy tiên
nhơn 7 ngày không ăn, lấy làm lo cho huệ mạng Phật pháp đoạn tuyệt; nguyện xả
thân mạng hiến cho tiên nhơn ăn, nên nhảy vào lửa. Lúc ấy thọ thần bảo tiên
nhơn rằng: mẹ con thỏ chúa vì cúng dường mà nhảy vô lửa. Bây giờ thịt đã chín,
ông có thể lấy ăn được rồi. Lúc vị tiên nghe thọ thần nói thế, cảm động không
thốt lên được, lấy lời Kinh viết để dưới lá cây, lại nói bài kệ rằng:
Thà tan thân
mắt banh
Không nở giết
ăn thịt chúng sanh
Chư Phật rành
thuyết Kinh từ bi
Kinh ấy dạy mở
lòng lành
Thà vỡ xương
tủy, lòi óc não
Không nhẫn nhai
nuốt thịt chúng sanh
Như Phật dạy kẻ
ăn thịt
Người ấy không
đủ làm hạnh lành
Hiện mang nhiều
bịnh và chết yểu
Chìm trong sanh
tử Phật chẳng thành.
Khi tiên nhơn
nói kệ xong, liền phát lời thề rằng: nguyện con đời đời không khởi ý tưởng sát
hại, luôn luôn chẳng ăn thịt cho đến khi thành Phật.
Phật chế giới
đoạn ăn thịt có rõ lời này: Tự nhảy vô hầm lửa và căng thân mạng, sáng chiếu
soi cả nước. Người ta thấy ánh sáng tìm đến, thấy tiên nhơn và 2 con thỏ chết trong
lửa. Thấy vậy Phật nói bài kệ:
Tìm Kinh Phật
đem về dâng vua
Vua truyền dạy
mọi người đọc tụng
Khiến cho người
nghe
Đều phát tâm vô
thượng Bồ đề.
Phật nói kệ
xong, bảo rằng: nay các người nên biết, bạch thố vương (thỏ chúa trắng) lúc bấy
giờ, nay chính là thân Ta - Phật Thích Ca Mâu Ni; còn thỏ con ấy nay chính là
La Hầu La; vị tiên nhơn trước kia nay chính là Di Lặc đó. Sau khi Ta nhập Niết
Bàn, 56 vạn ức năm vị ấy được thành Phật v.v…
Lại Kinh Hoa
Nghiêm, phần khuyến tu từ bi quyển 1, cũng Ngài Di Lặc hỏi pháp. Từ đó trở đi
hiệu Ngài là Di Lặc tức là Từ Thị vậy. Dẫn rộng như trong Kinh tạng không thể nêu
hết được. Thế thì Phật Thích Ca là giáo chủ hiện tại, còn Phật Di Lặc là giáo
chủ tương lai, đều là chỗ nương tựa của chúng sanh. Ví phỏng sanh về cõi Cực
Lạc gặp đức Phật Di Đà, rồi trở lại cõi Ta Bà nhưng phụng sự Phật Di Lặc, đâu
có thể khác gì.
Hay hỏi:
-
Phật Di Lặc khi nào thành Phật?
Đáp:
-
Nói cách đại khái (ước chừng), thế giới qua 4 thời kỳ: thành, trụ, hoại, không.
Mỗi thời kỳ là 20 kiếp. Như vậy kiếp trụ là tiểu kiếp thứ 9 trong 20 tiểu kiếp,
từ một vạn 4000 năm trước, cứ 100 năm giảm 1 tuổi, giảm đến khi còn 20 vạn năm
lúc đó đức Phật Ca Diếp ra đời. Sau khi Phật Ca Diếp tịch diệt lại 100 năm giảm
1 tuổi, giảm đến khi thọ mạng con người 100 tuổi, khi ấy thân con người cao 1
trượng, là lúc Phật Thích Ca ra đời. Phật Thích Ca sau khi diệt độ, thọ mạng
con người giảm xuống còn 30 tuổi, Phật pháp diệt hết, chỉ còn Kinh A Di Đà phần
nhiều lưu lại ở đời 100 năm. Đến khi thọ mạng con người còn 10 tuổi, thân cao
hơn một mét, lúc đó kiếp đao binh khởi lên luôn gây sự chém giết nhau, con
người tận diệt hết. Sau kiếp đao binh, người trong đời tuổi thọ dần tăng lên 100
tuổi; con người ham tu thiện, lúc đó có 16 vị đại A La Hán cùng với quyến thuộc
lại xuất hiện trong cõi người hoằng dương Phật pháp. Như thế cho đến khi con
người cõi này thọ 6 vạn tuổi, Phật pháp hưng thạnh đến 7 vạn năm. Giáo pháp
Phật Thích Ca dạy hoàn toàn không còn nữa. Từ đây có 7 vạn vị Độc Giác cùng lúc
xuất hiện, lúc đó thế giới này biến dơ thành sạch không còn gai gốc, suối khe
gò nỗng bằng phẳng, cát vàng trải đất, khắp mọi nơi chỗ nào cũng có ao sạch,
cây xanh, kỳ hoa dị thảo và đủ loại báu vật hợp thành. Thật là hình ảnh sáng
đẹp đáng yêu thích. Con người đều có tâm từ quanh năm trở nên sung túc, đầy đủ
như Kinh Di Lặc thành Phật có nói. Đến khi tuổi thọ con người tăng lên cực cao
84,000 tuổi, lại lần lượt giảm xuống 8 vạn tuổi. Lúc đó Phật Di Lặc giáng sanh
cho đến khi thành Phật, vì chúng Thanh Văn thuyết pháp 3 hội, làm cho chúng ra
khỏi sanh tử, đạt đến Niết Bàn. Hội thuyết pháp thứ nhất độ 96 ức chúng Thanh
Văn, hội thứ nhì độ 94 ức chúng Thanh Văn, hội thứ ba độ 92 ức chúng Thanh Văn.
Song số chúng được độ trong 3 hội đều trong 3 thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp và
Mạt pháp của Phật Thích Ca; hết thảy hành giả đều giữ giới chân thật, tu hạnh
bố thí, tạo phước v.v... Y cứ kinh tạng dẫn: có tất cả 6 tạng có Kinh Di Lặc:
ngoại hữu Di Lặc tạng, Long Hoa tạng, Đâu Suất Qui Cảnh, các Kinh lưu hành.
Ngoài ra, nước Tề niên hiệu Kiến Võ thứ tư vào ngày 8 tháng 5 năm Đinh Sửu, Di
Lặc xuống trần tại Vụ Châu huyện Nghĩa Ô, họ Truyền tên Hấp, năm 16 tuổi cưới
cô gái họ Lưu tên là Diệu Quang, sanh 2 ngưòi con trai là Phổ Kiến, Phổ Thành.
Vào đời Vua Lương Võ Đế, họ hiển phép thần thông và ngộ thiền. Song Lâm truyện
Đại Sĩ ngữ lục tu hành biệt hiệu là Thiện Huệ, mà đời sau mới biết đó là ứng
hóa thân của Đức Di Lặc. Ngoài ra, vào thời Ngũ Quý tại huyện Phụng Hóa tỉnh
Ninh Ba có Bố Đại Hòa Thượng không ai rõ gốc gác người vùng nào, tự xưng như
thế; thường đeo túi vải chống gậy mà đi. Người đời gọi là con của Trường Đinh, thỉnh
thoảng đem thiền cơ chỉ mọi người mà ít ai lãnh ngộ. Ngài tịch ngày 3 tháng 3
năm Trinh Minh tại Phụng Hóa, chùa Nhạc Lâm. Nay chốn ấy là sơn môn trong thiên
hạ, đều thờ tượng là vị Phật Di Lặc này vậy.
1.7 Vía Chuẩn
Đề
Ngày mồng 6
tháng 3 âm lịch là vía đản sanh Phật Mẫu Chuẩn Đề. Nghi thức giống như lễ vía
Dược Sư.
Trước tiên
niệm:
Nam Mô Thất Cu
Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Án lãm xỉ lâm
hồng (21 biến)
Án Ma Ni Bát
Nạp Minh Hồng (108 biền)
Khể Thủ quy y
Tô Tất Đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi; ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề; duy
nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô Tát Đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, cu chi nẫm,
đát điệt tha. Án chiết lệ, chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha (7 lần)
Án bộ lâm (108
biến).
Tụng chú biến
thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường; giống nghi cúng Phật Dược Sư.
Duy Na bạch:
Cung kính nghe
rằng, Chuẩn Đề Phật mẫu là tổng lãnh của 25 bộ chúng (hữu tình) có thuyết thần
chú, là chủng trí của chư Phật, Bồ Tát, không cố chọn nhiễm tịnh, luôn giữ niệm
không phòng hộ; chẳng nệ thiếu đủ, lòng thành hẳn cảm ứng. Ba cõi đều lợi
nhuần, muôn loài hàm an ổn. Nay nhằm ngày mồng 6 tháng này, cung nghinh vía
Phật mẫu giáng sinh. Chúng con vân tập tăng chúng hiến cúng kinh chú, hương hoa,
lễ phẩm.
Lại nguyện: 10
độ đều thu nhiếp, định huệ hiển bày ra, năm uẩn đều không, khổ ách dứt hết.
Thần chú Diệu Trạm Tổng Trì gia bị cho chúng sanh đồng quy về bí tạng.
Duy Na bạch
xong, cử tán Chuẩn Đề:
Lành thay Phật
Mẫu đức hiệu Chuẩn Đề
Diễn nói ba mật
Đà La Ni (thân, khẩu, ý)
Ứng nghiệm do
tâm thành cầu nguyện
Công đức thật
khó nghĩ suy
Tin sâu chắc
hẳn không nghi.
Nam Mô Thất cu
chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tụng Bát Nhã,
niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…
Chứng nghĩa ghi
rằng: Mật chú Chuẩn Đề bao hàm 25 bộ chúng. Mật bộ chia thành 5 bộ:
1) Phật bộ: ở
giữa đức Phật Tỳ Lô Giá Na làm chủ, chú đa số do Phật thuyết
2) Kim Cang bộ:
hướng Đông Phật A Súc là chủ, chú đa số do Bồ Tát Kim Cang thuyết
3) Bảo bộ:
hướng Nam Phật Bảo Sanh là chủ, chú đa phần là chư thiên nói
4) Liên Hoa bộ:
hướng Tây Phật A Di Đà là chủ, chú đa số do các vị Bồ Tát thuyết
5) Yết Ma bộ:
hướng Bắc Phật Thành Tựu là chủ, chú phần nhiều do hóa nhơn và quỉ thần nói.
Trong 5 bộ này,
mỗi bộ đều có đủ 5 bộ thành 25 bộ chúng. Án lam gọi là tịnh pháp giới; hoặc suy
niệm hoặc đọc tụng có thể làm cho 3 nghiệp (thân, miệng, ý) được thanh tịnh.
Bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu trừ, tùy theo nơi trú xứ đều được thanh
tịnh. Y phục không sạch sẽ bèn trở nên sạch, thân thể không tắm gội, liền phải
được tắm gội. Nếu được ngoại duyên đầy đủ, trước tắm rửa, kế mặc y phục sạch
sẽ, rồi mới tưởng niệm chữ (án). Án sắc trắng sáng, tỏa chiếu như ánh trăng.
Sáng soi tự thân tức là nội ngoại đều sạch hết mê hoặc. Xỉ lâm là hộ thân, tụng
chú này hay trừ hết mọi bịnh khổ, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỉ thần, cùng
những việc chẳng lành.
Án ma ni bát
nạp minh hồng tức là Án ma ni bát di hồng - gọi là chú lục tự (6 chữ); là bổn
tâm vi diệu của Quan Âm, nên phải tụng cùng với chú Chuẩn Để, thật là vô cùng lợi
ích. Ngài Chuẩn Đề, Phật Mẫu thấy chúng sanh ở cõi bẩn trược này khó giữ trai
giới nên thuyết chú này. Chẳng kể bợm rượu, không luận dơ sạch mà chỉ chí tâm
trì tụng có thể làm cho chúng sanh mạng ngắn ngủi tăng thêm tuổi thọ; hết thảy
bịnh khổ đều được tiêu trừ. Phàm người cầu nguyện thảy đều mãn nguyện, nếu y
pháp tụng đủ 100 vạn biến, sau khi mãn báo thân này được vãng sanh cõi Tịnh Độ,
phụng sự chư Phật, được nghe diệu pháp, chứng đạo Bồ Đề. Người chưa trì chú Án
bộ lâm như trì tụng sợ không có kết quả liền nên dùng chú này. Giống chân ngôn
ở trên, ở một nơi trì tụng chắc chắn thành tựu. Tụng 108 lần xong là hồi hướng,
chỉ nghi cúng vía bên trên đọc thêm chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cúng dường,
mỗi câu 3 lần.
Phần kệ hồi
hướng:
Con nay trì
tụng Đại Chuẩn Đề
Tức phát tâm
đại nguyện Bồ Đề
Nguyện con sớm
tròn sáng định huệ
Nguyện công đức
tu tập thành tựu
Nguyện phước
lực đầy đủ trang nghiêm
Nguyện cùng
chúng sanh thành Phật đạo.
Bài này thích
hợp giới xuất gia, nếu cầu cho người tại gia nên đổi lời như sau:
Cúng Phật tụng
chú Chuẩn Đề
Con (tên) cầu
(việc gì) cho con sớm được thành tựu v.v..
Phàm người tụng
chú Chuẩn Đề, mỗi ngày 6 thời, ít nhất sáng, tối phải 2 thời. Nếu suốt đời trì
tụng tùy nghi mà tụng không cần ghi số. Nên dùng kiếng Chuẩn Đề một mặt - trừ 2
thời sáng tối trì tụng vào mặt kiếng, lấy túi đựng kiếng để đeo nơi thân. Gia
tâm trì tụng lâu ngày chắc chắn đạt được sự cảm ứng. Ngoài Kinh Chuẩn Đề trong
các Tạng ra, còn có Hiển Mật viên thông thành Phật tâm yếu, Chuẩn Đề tịnh
nghiệp tạp yếu v.v.. là những sách lưu hành.
1.8 Lễ vía Văn
Thù
Ngày mồng 4
tháng Tư âm lịch là lễ vía Văn Thù đại sĩ đản sanh. Theo như nghi lễ vía Dược
Sư. Nhưng niệm danh hiệu là:
Nam Mô Đại Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật phẩm Nhập Pháp giới, chương quán Văn Thù ghi rằng: Lúc
bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất đang hành đạo quán sát trong chúng Tỳ Kheo, bảo Hải
Giác rằng:
“Này Hải Giác,
ngươi nên quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thân thanh tịnh, tướng tốt trang
nghiêm, hết thảy người trời khó thể nghĩ lường. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư
Lợi, tròn sáng thấu suốt làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ. Ngươi
nên quán sát Văn Thù Sư Lợi sáng rỡ trang nghiêm trừ hết mọi khổ não cho chúng
sanh. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi với số hội chúng đông đảo đều là Bồ Tát
mà trước đây đã gieo trồng căn lành. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi chỗ bước
đi – bên phải bên trái – tám bước bằng phẳng trang nghiêm. Ngươi nên quán sát Văn
Thù Sư Lợi ở nơi nào trong khắp 10 phương thường có đạo tràng theo đó mà chuyển
hóa. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi trên lối đi có đủ vô lượng phước đức
trang nghiêm; hai bên tả hữu có kho chứa đủ các loại trân quí, tự nhiên hiện
ra. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường Phật, căn lành lưu lộ nên
hết thảy cây cối lên xinh tươi tốt ngay thẳng. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư
Lợi, vua của các cõi mây mưa cung cấp đầy đủ, cung kính đảnh lễ để cúng dường.
Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi được 10 phương tất cả chư Phật Như Lai, lúc
sắp nói pháp, ắt phóng tia sáng trắng giữa lông mày, chiếu tới thân từ đầu đi
vào.
Đọc xong tiếp
tụng chú Mạn Thù Thất Lợi BồTát tám chữ Đà La Ni: Án A mạt la hồng khước triết
la (108 biến). Tụng thần chú xong, đọc biến thực chân ngôn, cam lồ thủy chân
ngôn, phổ cúng dường chân ngôn. Xong, Duy Na bạch:
Cung kính nghe
Đại sĩ vốn là thầy của 7 đức Phật nên xưng là đại trí. Xưa Ngài ở cao trên Ngũ
Đảnh, hiệu là Thanh Lương, ánh sáng chiếu rõ chân thường đến nơi là nhà, sắc thân
thanh tịnh. Do nhân đó mà liên tưởng tới đại nguyện của Mạn Thù đã duy trì như
tam muội huyễn xoay chuyển, không vuông, không thể, chẳng sắc, chẳng không là
để đốt hương đảnh lễ hàm dưỡng tuệ minh bát nhã. Ca tụng tán dương gieo giống
Bồ Đề. Nay nhằm ngày thanh sáng mồng 4 là lễ giáng sanh của Đại Thánh, chư tăng
tề tựu đầy đủ hiến lễ cúng dường.
Lại nguyện:
nghiệp thức mịt mờ, phiền não ngút ngàn thăm thẳm, mong mỏi sạch tiêu.
Duy Na đọc
xong, cử tán Văn Thù:
Ngài ở trên Ngũ
đảnh (núi cao)
Thân cởi sư tử
xanh;
Mây từ che khắp
chốn,
Mưa pháp rải
ban cho,
Khéo diễn pháp
Đà La Ni,
Là thầy của 7
đức Phật,
Hóa độ mãi đến
ngày nay.
Nam Mô Đại Trí
Văn Thù Su Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
( 3 lần).
Chứng nghĩa ghi
rằng: tiếng Phạn là Văn Thù hay Mạn Thù Thất Lợi, Trung Hoa dịch là Diệu Đức,
cũng gọi là Diệu Kiết Tường. Do vạn đức tròn sáng thấy rõ bổn nguyên (tánh
chơn) nên gọi là Diệu Đức; xưng danh hiệu, niệm chú kẻ thấy nghe đều lợi lạc
nên gọi là Diệu Kiết Tường. Trước tụng Chương Quán Văn Thù, trích Kinh Hoa
Nghiêm quyển 61, tiếp theo tụng chú trích Kinh chú gốc về Văn Thù Sư Lợi.
Phật bảo Bồ Tát
Kim CangThủ rằng: Tám chữ chú Đà La Ni đại oai đức này thuộc về chư Phật quá
khứ đã thuyết để ủng hộ hết thảy các quốc vương tu thập thiện làm cho họ được
như ý; thọ mạng dài lâu, phước đức không lường, đao binh chấm dứt, quốc gia an
ninh nên vô cùng lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sinh, dứt ba đường ác, các
nguyện được thỏa mãn. Nếu người nghe nhớ niệm câu chú này liền diệt bốn tội
trọng, năm tội nghịch, huống gì thường niệm, người ấy có phước đức sanh nơi
thập địa được bổ xứ (thành Phật); có của sở hữu không bị cướp đoạt, huống gì là
chư thiên. Như người trì chú, gặp việc bức bách hay ngăn chặn được ba nghiệp
thân, khẩu, ý;10 điều ác dứt sạch, do trì tụng chú này mà được thành tựu, trừ tâm
bất chánh, tâm không phát Bồ Đề tâm v.v...
Ngũ đảnh tức là
Ngũ Đài hay gọi là núi Thanh Lương. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm trú xứ Bồ Tát ghi
rằng: hướng Đông Bắc có một nơi là núi Thanh Lương, từ xưa tới nay chư vị Bồ
Tát ở đấy. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và quyến thuộc của Ngài, cùng chúng Bồ Tát là
một vạn nguời tụ hội lại thường ở trong núi đó mà diễn nói pháp. Ngoài ra, Kinh
Bảo Tạng Đà La Ni, Phật bảo vua Kim Cang Mật Tích rằng: sau khi Ta diệt độ ở
Đông Bắc, Nam Thiệm Bộ Châu có nước tên là Đại Chấn Na mà ở đó có ngọn núi tên
là Ngũ đảnh, Văn Thù đồng tử tu hành tại đó, vì chúng sanh mà thuyết pháp; và cũng
có vô số trời, rồng, tám bộ chúng vây quanh cúng dường. Núi này ở Đại Châu
thuộc huyện Ngũ Đài đúng như địa chí nói. Lại Văn Thù vì làm thầy của 7 đức
Phật, như các Kinh Tâm Địa Quán v.v.. đều nói như thế.
Ngoài ra, Kinh
Xử Thai ghi rằng: xưa vì làm thầy Phật Năng Nhơn, nay làm đệ tử Phật. Tôn trọng
chẳng cùng giáo hóa nên ta làm Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Di Lặc, bảo
Thiện Tài rằng: Văn Thù Sư Lợi đồng tử hạnh tu rộng lớn, nguyện lại vô cùng,
phát sanh mọi công đức của Bồ Tát không hề ngưng nghỉ. Này thiện nam tử, Văn
Thù Sư Lợi thường là mẹ của vô số chư Phật; luôn là thầy của vô lượng Bồ Tát,
giáo hóa chúng sanh đều thành tựu viên mãn v.v..
Trở lên đều y
cứ sách nói, nếu dựa theo sự tích theo Kinh Văn Thù Bát Nê Hoàn ghi rằng:
Phật bảo Ngài Bạt Đà La: Văn Thù Sư Lợi, vì tâm đại từ bi mà sanh nơi cõi nước đông
đúc xóm làng này, trong gia đình Bà La Môn đạo đức. Lúc Văn Thù sanh trong nhà
sáng rực rỡ như hoa sen, Ngài ra đời từ hông phải của mẹ, thân ánh vàng tía;
vừa lọt lòng mẹ đã nói được. Như Thiên đồng tử đem lọng báu che chở thân, hiện
10 tướng lạ kỳ. Có thể nói rằng vị Bồ Tát này trụ định Thủ Lăng Nghiêm tam muội
(đại định) nên ở 10 phương hoặc hiện sơ sanh, hoặc hiện nhập diệt làm lợi lạc
chúng sanh. Có bài kệ tán dương Văn Thù rằng:
Đại Bồ Tát Văn
Thù
Không bỏ nguyện
đại bi
Thân tự tại dị
kỳ
Đội mão hoặc
thân trần
Hoặc dắt theo
hài nhi
Vui chơi nơi
xóm làng
Hoặc hiện người
nghèo khốn
Người già bịnh
nhược suy
Hiện kẻ đói lâm
nguy
Du phương mà
xin ăn
Khiến người
phát tâm thí
Mong sao mãn
nguyện kỳ
Khiến phát tâm
tin nghĩ
Ba la mật
truyền đi
Thống lãnh vạn
Bồ Tát
Nơi ngũ đảnh tu
trì
Phóng vô số tia
sáng
Người thấy tội
tiêu phi…
Lại nói, sau
khi Phật diệt độ 450 năm, Bồ Tát Văn Thù phải đến dãy Tuyết Sơn vì 500 tiên
nhơn để thuyết pháp giáo hóa làm cho tất cả được chứng quả; rồi cùng chúng tiên
bay lên không và đến nơi sanh địa, Ngài xuống ngồi thiền nơi cây Ni Câu nhập
định Thủ Lăng Nghiêm, hiện các tướng lạ giống 500 tiên nhơn, mỗi người hiện
thần thông và đều nhập Niết Bàn. Bồ Tát dùng đủ lực thần thông, thuyết đủ pháp
môn quan trọng, nhiều hạnh lợi ích, vô số sự cảm ứng… như trong Kinh-Luật-Luận
có ghi rõ, nên ở đây không thể nêu hết.
1.9 Vía Phổ
Hiền
Ngày 21 tháng 2
âm lịch là vía Phổ Hiền đại sĩ đản sanh. Nghi thức giống như vía Phật Dược
Sư.Trước hết niệm:
Nam Mô Đại Hạnh
Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Tiếp theo tụng:
Kinh Hoa Nghiêm Chương Quán Phổ Hiền Bồ Tát hạnh ghi rằng: có một vị Bồ Tát
ngồi thiền định gọi là Phổ Hiền, thân màu bạch ngọc với 50 loại tia sáng, mỗi
tia sáng có 50 màu hợp thành làn ánh sáng lớn. Các lỗ chân lông đều phát ra ánh
sáng vàng; mỗi ánh sáng vàng nghiêm túc đó có vô số hóa Phật, các hóa Bồ Tát
chọn làm quyến thuộc, bước đi thong thả nhẹ nhàng, tung hoa lớn như mưa rơi
trước hành giả: các tượng hóa nhân miệng mở các răng. Các ao ngọc nữ, trống
nhạc đờn ca âm thanh vi diệu tán dương đại thừa, là đạo chân thật. Hành giả
thấy xong lòng vô cùng hoan hỷ lễ lạy, rồi lại đọc tụng Kinh thâm diệu, lễ khắp
10 phương Phật, cũng lễ tháp Phật Đa Bảo và lạy Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng lễ
Ngài Phổ Hiền và chư vị đại Bồ Tát. Phát thệ nguyện rằng: nhơn phước đời trước nên
con được gặp Phổ Hiền, mong tôn giả hiện điềm lành cho con thấy sắc thân.
Nam Mô Đại Hạnh
Phổ Hiền Bồ Tát (108 biến).
Tiếp theo tụng
chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng Phật Dược Sư. Thầy Duy Na
bạch: Cung bạch Đại sĩ bèn được bổ thánh của hoa tạng, làm bến thanh lương của pháp
giới trong vô số cõi nước đều trải qua đại hạnh; trong ngàn pháp môn vẫn giữ
đại nguyện, cùng với Kinh Hoa Nghiêm mà làm trưởng tử. Lý sự viên dung làm thầy
dẫn dắt ở cõi Cực Lạc; trí lực sâu rộng, nay là ngày 21 tháng 2 giữa mùa xuân
gặp lễ Khánh đản đại sĩ, chúng con tăng chúng vân tập trước Phật đài, thiết lễ
cúng dường. Lại nguyện: phổ môn đi vào lực Đại Thừa đem lại lợi lạc cho hết
thảy mọi loài chúng sanh dứt sạch chướng nhiễm không còn thừa. Hết thảy diệu
hạnh đều thành tựu. Tiếp tán bài Phổ Hiền:
Hạnh nguyện Phổ
Hiền, Phước đức vô biên
Trí huệ bực ấy,
Danh hiệu Phổ Hiền
Thảy đều mãn
viên, Muôn đức trang nghiêm
Lợi khắp nhơn
thiên.
Nam Mô Đại Hạnh
Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Chứng nghĩa ghi
rằng: dựa theo hoa tạng mà luận, nơi hội Tỳ Lô bên trái là Phổ Hiền, bên phải
là Văn Thù; xem trên hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền dụ như trưởng tử, Văn Thù như con
trai út. Theo trí hạnh mà nói, Văn Thù tiêu biểu đại trí, Phổ Hiền tiêu biểu
đại hạnh. Hạnh lấy trí dẫn đạo cho nên Văn Thù ở bên trái, Phổ Hiền ở bên phải.
Nay cúng lễ trước thánh tượng đều nương trí hạnh làm chuẩn mực thì trước Văn
Thù mà sau Phổ Hiền. Cho nên bốn danh sơn lớn của Trung Quốc, thứ nhất Ngũ Đài
là chỗ cư trú của Văn Thù, thứ nhì Nga Mi là nơi cư trú của Phổ Hiền, thứ ba
Phổ Đà là đạo tràng của Quán Âm, thứ tư Cửu Hoa là chỗ cư trú của Địa Tạng.
Theo Kinh Bi Hoa, trong kiếp xa xưa Phật A Di Đà làm Vua Chuyển Luân, lúc đó là
đệ nhứt thái tử tên là Bất Hủ; Thế Chí là thái tử thứ hai, tên là Ni Ma, Văn
Thù là thái tử thứ ba tên là Vương Chúng, đến thái tử thứ 8 tên Mẫn Đồ mà nay
là Phổ Hiền Bồ Tát vậy. Thế thì bổn và tích tương đồng, nhân và quả cùng loại;
do đức tướng, thần thông, thuyết pháp, lợi ích, hạnh nguyện, lễ tụng, cảm ứng
đều cùng khắp 3 đời. Bút mực chẳng có thể diễn tả đầy đủ hết được. Vào đời
Đường tại núi Thiên Thai có Hàn Sơn, Thập Đắc 2 tăng nhân có nhiều thuật linh
dị, mỗi vị có tập thơ truyền lại đời hàm ý như là hóa thân Ngài Văn Thù và Phổ
Hiền mà cổ kim còn lưu truyền tích lạ này.
1.10
Lễ vía Quan Âm
Ngày 19 tháng 2
âm lịch là lễ đản sanh của đức Quan Âm. Nghi thức như vía Phật Dược Sư.Trước
hết niệm:
Nam Mô Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Tiếp tụng Kinh
Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, phần bài kệ:
Thế Tôn tướng
đẹp lạ
Con nay lại hỏi
kia
Phật tử nhân
duyên gì
Tên là Quán Thế
Âm
Đầy đủ tướng
đáng tôn
Phật đáp Vô Tận
ý
Ông nghe hạnh
Quan Âm
Khéo hiến mọi
nơi chốn
Nguyện rộng sâu
như biển
Nhiều kiếp khó
nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn
đức Phật
Phát đại nguyện
thanh tịnh
Nay Ta vì ngươi
nói
Nghe danh và
thấy thân
Tâm niệm không
bỏ qua
Hay diệt các
khổ não
Như người sanh
tâm hại
Xô rớt hầm lửa
lớn
Ra sức niệm
Quan Âm
Hầm lửa biến
thành ao
Hoặc trôi giạt
biển cả
Các nạn quỉ, cá
rồng
Do sức niệm
Quan Âm
Sóng dồi chẳng
chìm được
Hoặc tại núi Tu
Di
Bị người xô rớt
xuống
Do sức niệm
Quan Âm
Như mặt trời
treo không
Hoặc bị người
dữ rượt
Rơi vào núi Kim
Cang
Do sức niệm
Quan Âm
Không tổn đến
mảy lông
Hoặc gặp oán
giặc vây
Cầm dao muốn
làm hại
Do sức niệm
Quan Âm
Liền khởi niệm
từ tâm
Hoặc gặp khổ
nạn vua
Hành hình muốn
dứt mạng
Do sức niệm
Quan Âm
Dao liền gãy
từng đoạn
Bị giam cầm tù
tội
Tay chân trói
buộc chặt
Do sức niệm
Quan Âm
Liền được mở
trói hẳn
Bùa chú các
thuốc độc
Muốn làm hại
đến thân
Do sức niệm
Quan Âm
trở lại nơi
người hại
Hoặc gặp ác la
sát
Rồng dữ các loài
quỉ
Do sức niệm
Quan Âm
Tức thì không
dám hại
Hoặc thú dữ vây
quanh
Nanh vút nhọn
đáng sợ
Do sức niệm
Quan Âm
Vội vàng bỏ
chạy thẳng
Rắn độc và bò
cạp
Khí độc phun
khói lửa
Do sức niệm
Quan Âm
Nghe tiếng tự
bỏ đi.
Mây chớp nổi
sấm sét
Tuôn xối giáng
mưa đá
Do sức niệm
Quan Âm
Tức thời liền
tiêu tan.
Chúng sanh bị
khổ ách
Vô vàn bức bách
thân
Quan Âm sức trí
diệu
hay cứu khổ thế
gian
Đầy đủ lực thần
thông
Rộng tu trí
phương tiện
Mười phương các
cõi nước
Không cõi nào
chẳng hiện.
Nhiều loại các
ác thú
Địa ngục, quỉ,
súc sanh
Sanh, già,
bịnh, chết khổ
Dần dần khiến
diệt sạch.
Chơn quán, quán
thanh tịnh
Rộng lớn quán
trí huệ
Từ quán và bi
quán
Thường nguyện
thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh
không nhơ
Tuệ nhựt phá
tối tăm
hay dẹp tai,
gió lửa
Khắp soi sáng
thế gian
Lòng bi răn như
sấm
Ý từ diệu dường
mây
Rưới mưa pháp
cam lồ
Diệt sạch lửa
phiền não
Cải kiện qua
cửa quan
Trong quân trận
sợ sệt
Do sức niệm
Quan Âm
Cừu oán đều lui
tan
Diệu Âm, Quan
Thế Âm
Phạm Âm, Hải
Triều Âm
Hơn hẳn âm thế
gian
Vì thế nên
thường niệm.
Niệm niệm chớ
sanh nghi
Quan Âm bực
tịnh thánh
Nơi khổ não nạn
chết
Hay làm nơi
nương tựa
Đầy đủ các công
đức
Mắt lành thương
chúng sanh
Biển phước đức
khôn lường
Cho nên phải
đảnh lễ.
Niệm danh hiệu
Quan Âm 108 biến, như nghi thức thông thường. Tiếp theo Duy Na bạch:
Vì đang giữa
tiết trung hòa
Trăng nước
chiếu soi bóng tự tại
Giá chuông, hợp
luật hoa đàm hiện tướng viên thông
Hiện bi nguyện
trong 32 tướng nơi cõi ta bà
Chúng đệ tử
thảy đều xưng tán
Phóng từ quang
10 vạn ức sáng
Thầy dẫn đường
giúp đưa về Lạc Bang.
Mong cho… lặn
hụp trong biển trần, mắc vòng phiền não, 6 căn ngang dọc, rong ruổi bôn ba tăm
dạng. Ba tuệ vẫn mịt mờ chưa nhận ra chân tánh. Ví thử không nhờ đại bi của
đấng cha lành cứu vớt những đứa con cùng khổ. Nay nhân ngày Khánh Đản, kính
dâng hoa hương mong Ngài chứng tấm lòng thành của đệ tử chúng con, thương xót
mà đón nhận.
Tiếp theo cử
tán bài:
Tay cầm nhành
dương
Đầu đội mảo
Phật
Ngồi thiền
nghiêm mật
Trên tòa hoa
sen
Cứu khổ thương
tình thật
Một niệm tâm
thành
Độ hết thảy
chúng sanh
Mở vô lượng cửa
từ tâm.
Nam Mô Thánh
Quan Tự Tại Bồ Tát (3 lần).
Hôm nay hoặc lễ
sám hoặc niệm hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát hay luân phiên tụng Kinh Phổ Môn.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Quan Âm cứu khổ độ sanh, nên niệm danh hiệu được cảm ứng. Các Kinh như
Pháp Hoa, Lăng Nghiêm đều ghi rõ như vậy, nhiều kinh điển khác ghi chép cũng
khó biết số bao nhiêu. Ở đây cô kết lại những việc cảm ứng nổi bật nhất trong
tăng, lược ghi một số việc thấy rõ ràng còn dấu thiêng hay là loại giống như
vậy.
Sơn am tạp lục
ghi rằng: trước đây hòa thượng Cổ Đảnh ở Kính Sơn mới sanh ra dáng người tủn
mủn, môi thẳng, răng lộ chân răng, tiếng tắt khô khan, thớ da nứt nẻ, có thể nói
thịt lòi trơ ra. Vì 4 tướng xấu như vậy huống chi thân thể còn lùn xịt ư; lúc
còn mạnh khỏe không nói người ta cũng biết. Thầy cầu đức Quan Âm ban ngày niệm
hiệu Ngài không cần đếm, ban đêm lạy tượng Bồ Tát tới số nghìn, làm như thế
trong 20 năm. Tướng xấu biến thành phước tướng, môi đẹp đỏ mà răng ẩn bên
trong, tiếng nói trong trẻo mà da dẽ hồng hào. Sau gặp lại tướng công chúc mừng
rằng: Thầy nay tướng tốt nên ngồi sỏng trên pháp tòa làm đại chấn tông phong mà
năm ra đời làm hưng thạnh giáo pháp, nhẫn đến ở Kính Sơn 12 năm và thọ 79 tuổi.
Tụng Kinh, lễ đức Quan Âm dễ thay đổi yểu thọ thành thọ mạng vậy. Ngoài ra,
chùa Thọ Xương tại Ôn Châu có Tuyệt Chiếu Huy ngồi hạ yên lặng, nơi phòng ngủ
treo Thánh tượng Quan Âm mỗi đêm lễ lạy. Một hôm bổng thấy bình nước sạch từ
suối xuất hiện làm toàn thân ông vô cùng khoan khoái. Từ đó thêm niệm cung kính
càng sâu, gương trí càng sáng; do tụng kinh lạy Phật mà cảm huệ vậy.
Lại một câu
chuyện khác, có người tên Chiếu Liêu Nguyên ở chùa Thiên Đồng vốn mang nhiều
chứng bịnh, năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Võ, bịnh tình ông ngày càng nặng, thầy
trụ trì khuyên ông niệm thánh hiệu Quan Âm. Mỗi ngày Chiếu niệm 10,000 hiệu tới
năm sau vào ngày 17 tháng 10 lúc giờ ngọ ông tự nghĩ bịnh tình mình dẫn tới cái
chết không xa; nếu không đổi lại niệm hiệu Phật A Di Đà việc niệm mới hăng hái
hơn. Bổng nhiên thấy một người đàn bà tay cầm tịnh bình xuất hiện mà lại hiện
ngay trước mặt, Chiếu thất kinh hồn vía lên mây. Sau định thần nghĩ kỹ lại, biết
đó là Bồ Tát thị hiện, Chiếu khóc sướt mướt kể tội lỗi cầu xin sám hối. Chốc
lát không còn thấy gì cả trải qua 5 ngày bịnh khổ tiêu hết. Đây do lễ bái mà
trừ dứt bịnh như thế.
Sách Cao Tăng
truyện ghi rằng: niên hiệu Nghĩa Hy năm đầu ở chùa Gia Tường huyện Sơn Âm có
tăng Huệ Kiền tự biết sắp chết bèn phó thác nghỉ an dưỡng, tâm thành cầu đức
Quan Âm dự thấy được tướng Thánh. Bịnh tuy chưa lành nhưng thần sắc như bình
thường; người thị giả thường nghe hương lạ trong khoảnh khắc Thầy viên tịch.
Tăng tục nghe vậy ai cũng rất đẹp lòng. Đây do lễ bái mà cảm ứng sanh về Tịnh
Độ vậy.
Nói tóm lại,
Quan Âm đại sĩ đối với chúng sanh chuyên niệm thật tin sâu, thật hành lâu ngày,
thành khẩn tha thiết, hoặc tụng kinh hoặc lễ lạy đều đạt được sự cảm thông tới
nguyện lực của Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
1.11
Lễ vía Đại Thế Chí
Ngày 13 tháng 7
là lễ vía đản sanh của Bồ Tát Thế Chí. Nghi thức giống như vía Phật Dược Sư.
Trước tiên niệm:
Nam Mô Tây
Phương Cực Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Kế tụng:
Phật thuyết
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, chương Quán Thế Chí, kế quán Bồ Tát Đại Thế Chí. Vị Bồ
Tát này thân hiện lớn nhỏ cũng như Quan Thế Âm, mặt tròn sáng mỗi mặt 125 do
tuần chiếu sáng 250 do tuần, nhấc thân lên hào quang chiếu tới 10 phương các
cõi hiện sắc vàng tía. Chúng sanh có duyên đều được thấy, chỉ trông thấy vị Bồ
Tát này nội một lỗ chân lông phát ánh sáng là thấy hết ánh sáng thanh tịnh của 10
phương chư Phật. Vì thế danh hiệu của Bồ Tát này là Vô Biên Quang, lấy trí huệ
quang chiếu khắp tất cả khiến lìa 3 đường ác được lực vô thượng. Do đó hiệu vị Bồ
Tát này là Đại Thế Chí. Bồ Tát Đại Thế Chí đội mão Thiên quan có viền 500 hoa
báu, mỗi hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài là cõi nước thanh tịnh của 10
phương chư Phật. Thân tướng cao lớn đều ở trong cõi đó, hiện trên đảnh đầu có
nhục kế nổi lên như hoa Bát Đầu Ma, ở trên nhục kế có một bình báu đầy cả ánh
sáng hiện làm Phật sự. Ngoài ra, các hóa tướng khác như Quan Âm v.v... không có
khác. Lúc Bồ Tát bước đi 10 phương các cõi đều chấn động; đang khi chấn động ấy
hiện ra 500 ức hoa báu, mỗi hoa báu cao tốt trang nghiêm như cõi Cực Lạc. Khi
Bồ Tát ngồi, cõi nước, 7 báu đồng loạt dao động, từ hạ phương cõi Phật Kim
Quang đến phương trên cõi Phật Quang Minh Vương, ở khoảng trung gian có vô số
phân thân. Phân thân Phật Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thảy đều nhóm
họp. Cõi nước Cực Lạc ở trên không, các vị ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp
mầu, độ chúng sanh khổ. Làm pháp quán này là quán sát thấy Bồ Tát Đại Thế Chí,
tức là thấy sắc thân Đại Thế Chí. Quán tướng vị Bồ Tát này gọi là pháp quán thứ
11, trừ sạch được tội sanh tử trong vô số kiếp a tăng kỳ. Làm pháp quán này
không ở bào thai mà thường du hành qua các Phật quốc thanh tịnh.Tiếp theo
tụng:
Nam Mô Đại Thế
Chí Bồ Tát (108 biến).
Tụng xong, niệm
chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Kế Duy Na quỳ bạch:
Cung kính nghe
rằng: Thế Chí đại sĩ, vốn trước kia nhân duyên lấy tâm niệm Phật mà nhập cõi vô
sanh. Nay ở cõi này người nhiếp tâm niệm Phật quy về Tịnh Độ. Đó là vì Chúc
Thánh cõi Tây phương thường hiện pháp niệm Phật tam muội. Nhớ Phật niệm Phật,
hiện tại, tương lai, ắt được thấy Phật, như người nhiễm mùi hương, thân thoảng
hương thơm. Pháp thí dụ này thật là thấm thiết. Nay gặp ngày Thánh đản kính lễ
cúng dường.
Lại nguyện: Đại
sĩ thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con thường cầu mong gia bị; cũng như Đại
sĩ tịnh niệm kế tục được đại định hết báo thân này được sanh về nước Cực Lạc.
Bạch xong, cử tán:
Thế Chí Đại sĩ,
bình báu lung linh
Thâu nhiếp niệm
Phật thệ nguyện rộng thênh
Biển cả bao la,
hầu cận Di Đà
Trừ mê cứu khổ
thoát khỏi Ta Bà
Nam Mô Đại Thế
Chí Bồ Tát (3 lần).
Tụng Bát Nhã,
sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y…
Chứng nghĩa ghi
rằng: 3 vị Thánh ở Tây phương là Phật Di Đà ở giữa, Quan Âm bên trái và Thế Chí
bên phải. Hôm nay lễ vía dùng pháp quán của kinh mà quán Đại sĩ. Theo nghĩa
viên thông mà hiển tỏ bổn nhơn, nguyện lớn rằng, Bồ Tát Đại Thế Chí trong vô số
kiếp trước lấy niệm Phật nhập đại định; Ngài thường ở thế giới này đốc nhắc
chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật hỏi Bồ Tát
Viên Thông nơi chương tựa thứ nhất rất rõ ràng, đời nay đã xưng các Tổ liên
tông là Viễn Công, huống chi hệ truyền thừa chư Tổ Trung Hoa mà Bồ Tát Đại Thế
Chí là Tổ của pháp môn niệm Phật lâu đời. Trong chương đó có ghi rõ: pháp niệm
Phật đã là tuyệt vời không pháp nào hơn, như mẹ con tưởng nhau thật là thuần
khẩn khó nói. Tôi trước một lần thấy sanh tâm cảm động mà không tự biết, tiếp 3
lần đọc tụng niệm cảm càng sùi sụt, càng than thở ân đức Phật, chư Bồ Tát khó
báo đáp. Từ đó trở về sau mỗi lần niệm Phật, trước tiên tôi tụng chương này một
lần thành kính như là khóa tụng quen thuộc. Một lần đọc tụng là một lần phản
tỉnh, có thể nói sự lợi ích không nhỏ vậy. Tôi đã tu pháp môn này mà được sự
gia bị, mong các bậc thiện nhân cũng hành trì như thế. Mỗi lúc niệm Phật, trước
nhất tụng chương này để niệm Phật đắc lực. Quả như đúng pháp tu hành ắt được
tiếp dẫn vãng sanh. Nguyện rộng lớn nơi chương này tưởng rằng giải thích sơ
lược thêm, thấy trong ngày giỗ Ngài Viễn Công lấy niệm Phật khởi đầu và niệm 10
niệm. Lúc ngủ nhập pháp quán văn, quán Kinh Chương 13, quán có kèm theo lời khuyên
4 điều:
1- Khuyên phát
tâm niệm Phật
2- Khuyên thật
tâm niệm Phật
3- Khuyên cầu
sanh Tịnh Độ
4- Khuyên niệm,
tụng tu cùng lúc.
Như thế hợp
nhất gọi là niệm Phật thiết yếu, cho in ấn để lưu hành thật là cần thiết nên
truyền đạt sâu rộng.
1.12
Vía Địa Tạng Thánh Đản
Ngày 30 tháng 7
âm lịch là vía Địa Tạng đản sanh. Sau thời Kinh Lăng Nghiêm sáng, tới phần đảnh
lễ Phật, Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư. Duy Na cử tán: Lư hương… Nghi thức
giống như Phật Dược Sư. Niệm:
Nam Mô Đại Từ
Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).
Tiếp theo tụng
Kinh Địa Tạng bổn nguyện, bài kệ phẩm thấy nghe được lợi ích như sau:
Ta quán Địa
Tạng lực oai thần
Vô số kiếp nói
không cùng tận
Thấy nghe đảnh
lễ trong một niệm
Lợi lạc trời
người khó định phân
Hoặc nam hoặc
nữ hoặc long thần
Hết báo thân
phải đọa đường ác
Chí tâm quy y
Đại sĩ thân
Tuổi thọ thêm
tăng trừ tội chướng
Sớm mất mẹ cha,
biệt người thân
Chưa rõ thần
hồn nương chốn nào?
Anh em, chị em
và thân nhân
Trưởng thành
tới nay chưa nhận rõ
Hoặc vẽ hoặc
họa Đại sĩ thân
Niệm lễ thiết
tha không rời bỏ
Hăm mốt ngày
niệm hiệu ân cần
Nhiều thân hình
Bồ Tát hiện ra
Cho biết nơi
nào quyến thuộc sanh
Giá rơi ác thú
tìm cứu sạch
Nếu ai không
lui sụt sơ tâm
Liền được sờ
đầu truyền Thánh ký
Người muốn tu
vô thượng Bồ Đề
Nhẫn đến 3 cõi
khổ thoát ly
Chính là đã
phát tâm đại bi
Trước nên quán
lễ tượng Đại sĩ
Hết thảy các
nguyện sớm đạt thành
Nghiệp chướng
toàn dứt chẳng còn chi
Có người phát
tâm tụng kinh điển
Muốn qua bờ
giác độ quần sanh
Duy lập nguyện
này khó ví sánh
Đọc rồi quên
rồi phế bỏ nhanh
Người này bị
nghiệp chướng trói buộc
Kinh điển Đại
Thừa chẳng nhớ rành
Cúng dường Địa
Tạng với hương hoa
Y phục, uống
ăn, tọa cụ và
Nước trong
trước Đại sĩ bày ra
Một ngày một
đêm đem uống đó
Phát lòng tôn
trọng cử cay nồng
Rượu thịt, tà
dâm, vọng ngữ không
Trong 21 ngày
chớ sát sanh
Hết lòng niệm
tưởng Đại sĩ danh
Trong mơ thấy
nhiều loại tướng hình
Tỉnh ra mới
biết ấy điềm lành
Đúng lúc tai
nghe dạy đọc Kinh
Chẳng quên
trong ngàn vạn lần sanh
Do vì Đại sĩ
khó nghĩ suy
Hay khiến người
này đạt tuệ trí
Chúng sanh
nghèo cùng và tật bệnh
Quyến thuộc
chia ly, nhà cửa suy
Trong cơn mộng
mị thấy bất an
Người cầu sai
quấy không toại ý
Chí tâm niệm lễ
tượng Địa Tạng
Mọi điều xấu ác
đều tiêu tan
Thậm chí giấc
mơ được bình an
Y, thực dồi dào
quỉ thần can
Vào núi rừng,
qua biển an toàn
Cầm thú độc và
người hung ác
Ác thần, ác quỉ
và gió độc
bao nhiêu khổ
não hết thảy nạn
Chỉ nên lễ lạy
và cúng dường
Bồ Tát Địa Tạng
đại sĩ tượng
Như vào núi
rừng, hoặc đại dương
Bấy giờ các ác
đều tiêu sạch
Quan Âm lắng
nghe Ta giảng tường
Địa Tạng sâu
rộng khó nghĩ lường
Trăm nghìn vạn
kiếp nói không cùng
Lực Đại sĩ đây
rộng tuyên dương
Người nào nghe
được danh Địa Tạng
Nhẫn đến chí
tâm kính lễ thường
Dâng y phục, ẩm
thực, hoa hương
Nhận trăm nghìn
phước báu cúng dường
Hay chỉ nhân
đây cầu pháp giới
thành Phật
thoát sanh tử đại dương
Vì thế Quan Âm
ngươi nên biết
Báo cho khắp
hết các cõi tường.
Tiếp tụng:
Án Tam Đà ra
già đà ta bà ha (108 lần).
Duy Na bạch:
Lại vì gió vàng
chuyển động, mở khai điềm tốt kim dung, sương ngọc thấm nhuần, hiển bày tướng
đẹp ngọc hào. Đại sĩ đản sanh lung linh tuyệt đẹp. Trăng thu vừa tắt, ngước lên
khắp bầu trời sáng tỏ, thánh đức trong sáng hồng ngọc. Nghĩ lại chúng con đang
ở đời mạt pháp, tội lỗi chồng chất, mong thoát vòng khổ, ắt nhờ gió lành phủi
quét được lên cõi an vui, toàn nương ánh từ để thong dong tự tại. Nay gặp lúc
Hoa Đàm xuất hiện, kính dâng hương hoa phụng hiến. Đệ tử chúng con lại nguyện:
gậy vàng hươi sáng, minh châu chiếu rạng; cuồng si u ám, mở ngục sắt không môn;
nóng bứt trừ sạch; ngôi nhà lửa tiêu tan. Trời người đều lợi lạc, âm dương thảy
nhờ ân.
Bạch xong, cử
tán:
Đại sĩ Địa Tạng
nguyện rộng sâu
Phá thành sắt
bằng ngọc minh châu
Gậy vàng dộng u
minh thông thấu
Đảnh lễ tôn
tượng niệm xưng danh
Vô số cõi chan
hòa tiết trời xuân
Nam Mô Địa Tạng
Vương Bồ Tát (3 lần).
Chứng nghĩa ghi
sự độ sanh của Ngài Địa Tạng theo các Kinh Bồ Tát Địa Tạng bổn nguyện, Địa Tạng
thập luân Chiêm Sát thiện ác nghiệp báo v.v.. mà bản kinh sau thuyết minh đầy đủ.
Nay nêu lên sự tích Ngài ở Đông độ như sách Thần Tăng truyện ghi: đức Phật diệt
độ 1500 năm, Địa Tạng giáng sanh vào nước Tân La, nhà họ Kim tên là Kiều Giác
vào năm Vĩnh Trưng thứ tư. Năm lên 24 tuổi cạo tóc dắt theo bạch khuyển khéo
vâng lời theo tàu buôn ra biển. Đến vùng núi Cửu Hoa, huyện Thanh Dương, phủ
Trì Châu Đông, tỉnh Giang Nam, tọa thiền trên núi Cửu Tử sơn tuế nguyệt 75. Năm
Khai Nguyên thứ 16, đêm 30 tháng 7 Ngài thành đạo năm 99 tuổi. Lúc bấy giờ có
bậc kỳ lão, Mẫn Công rất thiện cảm nghĩ tưởng đến. Mỗi lần mời 100 vị tăng dự
cúng trai tăng, hẳn còn thiếu một vị, nên mời vị tăng tu trong động cho đủ số.
Vị này bèn xin một mãnh đất bằng áo cà sa, Mẫn Công ưng thuận. Y phủ giáp núi,
Công hết sức lấy làm hoan hỷ. Người con trai Mẫn Công cầu xin xuất gia tức là
Hòa Thượng Đạo Minh. Mẫn Công về sau cũng bỏ tục xuất gia, lại bái người con
làm thầy, cho nên nay hầu bên tượng mà bên trái là Đạo Minh, còn bên phải là
Mẫn Công, đó là sự tích này vậy…
Bồ Tát nhập
định 20 năm đến năm Chí Đức thứ 2 vào ngày 30 tháng 7 hiển thánh bước ra khỏi
tháp, đến nay trở thành một đại đạo tràng. Hiện Quả Lục ghi rằng: chúng tôi là
Vương Kiến một hôm không có bịnh bổng lìa đời. Có một người áo xanh dẫn đến
minh phủ trình thưa khúm núm. Kết quả là bắt lầm Vương Kiến ở núi Đông. Do đó
cho thả ra khỏi điện Minh phủ, thấy địa ngục Hắc Diệm ở giữa không, gào thét
như sấm vang, có 3 lão tăng ngồi thiền bên cây sao dùng tịnh thủy rảy nước cho.
Ngục tốt nghiến răng hét lớn: hãy dừng lại. Kế phía trước có viên tuần đi qua
đó là Quan Âm, Phổ Hiền và Địa Tạng vậy. Y cứ theo tích đây có thể thấy trong
Kinh Địa Tạng nêu rõ: niệm danh hiệu Địa Tạng, lễ tượng Địa Tạng được phước tiêu
tội, thật không thể nghĩ bàn.
Hết quyển ba.
[1] Bốn tâm:
tức là 4 tâm bao dung rộng lớn thương yêu khắp hết mọi loài chúng sanh. Đó là:
tâm từ vô biên, tâm bi không giới hạn, tâm hỷ và tâm xả không cùng tận.
[2] Ba đức:
có nhiều lối giải thích như Kinh Niết Bàn giải thích là: đức pháp thân, đức bát
nhã và đức giải thoát. Theo khía cạnh tự lợi, lợi tha của Phật giải ba đức là: Trí
đức: dứt sạch hết vô tri đủ vô thượng Bồ đề; Đoạn đức: đoạn sạch phiền não có
thừa vô thượng Bồ đề; Ân đức: có thừa đức đại bi cứu giúp tất cả chúng sanh.
[3] Ngũ
phước: 5 phước báu trên đời này là: giàu có, khỏe mạnh, sắc đẹp, sống thọ, chết
được an lạc.
[4] Long Hoa
tam hội: ba hội Long Hoa do đức Phật Di Lặc tương lai giáng sinh nơi cõi Ta Bà
này, sau khi đắc đạo sẽ mở 3 pháp hội tại rừng cây thân rồng trổ hoa màu vàng,
được mệnh danh là hội Long Hoa kỳ một, độ cho chúng sanh hạ căn hạ trí, hội thứ
nhì độ hạng trung căn và hội thứ ba độ kẻ thượng căn thượng trí.