BÁCH TRƯỢNG
TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa
môn Thích Bảo Lạc
Chùa Pháp Bảo
Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008
Quyển 7:
Chứng nghĩa ký
Phần sau
1 Treo
đơn:
2 An
đơn:
3 Cùng làm
việc tập thể (phổ thỉnh):
4 Quy tắc
hằng ngày:
5 Phụ: Người
Xuất Gia
6 Qui tắc
sống chung
7 Qui chế
thiền đường và quy tắc tọa thiền.
8 Qui tắc
Phật thất
9 Phụ: sớ
hồi hướng Phật thất
10 Phân từng
khu phố (khất thực)
11 Lượm được
vật rơi
12 Phụ: Qui
tắc nơi tĩnh hành đường
13 Phụ: săn
sóc người bịnh
14 Văn Cảnh
tỉnh đại chúng
15 Phú (phó)
pháp
16 Phái Nam
Nhạc
17 Chi Thanh
Nguyên
18 Phụ:
Thiên Thai giáo quán tông
19 Phụ: Hiền
Thủ giáo quán tông
20 Phụ: Nam
Sơn Luật Tông
2.Chương 7: Phần sau - Đại chúng
2.1Treo đơn:
Treo đơn, xưa nói
là treo vắt lên. Vì tăng đi hành cước chỉ mang theo y bát nên gọi là quải đáp,
tức là y vắt mang theo vậy. Ngày nay đi tham học mang theo hành lý, đổi lại gọi
là quải đơn. Phàm dọn đơn, khi có tăng khách đến nhà lấy lễ tiếp đãi. Hỏi khách
đến có việc gì cho rõ ràng rồi tùy nghi mà đưa tới phòng. Khách từ xa đưa tới
gặp 2 chúng trưởng đưa sang phòng khách quí hay tới phòng chờ. Khách là thiền
tăng tới học đưa lên phòng tập thể, theo chúng đi quá đường, tụng kinh… Nếu
người không có y bát, chứng điệp, hành lý; thậm chí trông người diện mạo khả
nghi từ chối không cho đơn; chỉ cho xem Nội Qui nhà khách và điều lệ liêu xá
nêu rõ.
Chứng nghĩa ghi
rằng, y cứ kinh Phạm Võng, có nạn tăng giả mạo du hành, mặc áo vá đi khất thực
có hai thời điểm: a) từ ngày 15 tháng giêng đến 15 tháng 3 b) từ 15 tháng 8 đến
15 tháng 2, là trong 2 thời kỳ đó. Nguyên vì người học đạo đi xa, không xa hơn
10 dặm; tìm thầy học đạo ra khỏi một tòng lâm vào một chùa khác, cho chí đi
khắp đó đây chưa từng nghỉ ngơi. Việc dọn đơn vì thế phải xảy đến vậy. Vì Tri
Khách tùy nghi dẫn tới đơn không được coi thường; vị Trụ Trì sẵn lòng từ bi
đừng xem thường dọn đơn; nên giữ đạo phong thường trụ, Phật pháp mới tồn tại lâu
dài là hoàn toàn do nơi đây. Ngài Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng, chiếc đơn
dùng khi có tăng hành cước, vì chịu đói khát, nóng lạnh, trải qua nhiều gian
khổ. Nay may được có chỗ đỡ đầu, dù không biết tu hành nhưng biết hổ thẹn. Nhà
tu ghé đến nên ân cần cúng dường cho thọ dụng không dám lỗi phần. Cho nên nói
rằng ai từng là du phương xem như khách bàng quan vậy.
2.2An đơn:
An đơn tức là đặt
đơn, quải đáp tức hành lý, tăng trở về chùa; ở lại một đêm gồm bửa ăn. Một hai
bửa là khách qua đường, gọi là khách tăng tạm thời. Nếu khách ở lại một vài
tuần, gọi là đại quải đáp; vì khách ở lại lâu nên biết đồ đạc hành lý có thể để
ở đâu, liền đưa khách vào nhà gọi là an đơn. Nhưng gặp trường hợp này người xin
ở lại, tri khách hỏi xem lai lịch rõ ràng; nhắm lưu được nên cho lưu lại, đưa
khách tới phòng ngủ, mời tới phòng khách thọ trai, để khách tự nhiên muốn tụng
kinh tùy ý, sau một hai hay ba hôm.
Thưa trình Hòa
Thượng doãn nạp. Khách ở qua đêm phải thông báo cho Duy Na biết ghi vào sổ lưu,
ghi rằng, ông… khoảng… tuổi, có tới chùa ở lại. Ông là người xã… quận… huyện… tỉnh…
con ông bà… Lúc chưa đi tu làm nghề gì… tại cơ sở… xuất gia tại chùa… năm…
tháng…
Thầy bổn sư là…
thọ Tỳ Kheo ngày… tháng… năm… tại đại giới đàn…
Ngày kế, sáng
sớm điểm tâm xong, sau khi nghe hai hồi bảng chuẩn bị đầy đủ hương đèn nghi tiết
hướng dẫn lên phòng Phương Trượng đứng bên ngoài cửa đợi thị giả thông báo Hòa
Thượng. Hòa Thượng ra ngồi, xong tri khách chấp tay bạch: có thầy… đến thăm Hòa
Thượng. Kế tri khách tới lễ 3 lạy xong, Phương Trượng có hỏi gì cứ thành thật đáp.
Thăm hỏi xong đưa đến Thiền đường, báo 3 hồi bảng. Giám Tự cuốn rềm màn lên,
đại chúng đứng nguyên; tri khách trước lễ 10 phương Phật hướng lên phía trước
thầy nói: Các thầy cùng tham dự tiến vào hành lễ, lễ xong; tri khách lui về
chỗ. Duy Na tiếp đưa khách tới vị trí, hoặc nhà đông, hoặc nhà tây theo đơn
cùng theo chúng, hầu mở cuộc vấn đáp ngắn gọn. Duy Na hỏi tên ghi sổ, cho mang
hành lý vào phòng, sửa soạn giường ngủ, thời kinh tối. Tham thiền lần đầu mang
tọa cụ lên chánh điện, tọa thiền xong, Duy Na bảo: có thầy mới đến thiền đường
đó, chúng ra làm lễ, lễ xong trở lại chỗ. Duyệt chúng đưa lên phòng Phương Trượng
làm lễ, lễ xong trở về chỗ. Duy Na lãnh chúng tới liêu chính tuần tự bảo gõ 2
hồi bảng chiều. Phương trượng mời khách dùng trà, Duyệt chúng tiếp đãi. Ngày kế
buổi sáng, Duy Na nói rằng, Thầy khách lên điện hành lễ, chúng ra cùng lễ. Tân
khách lạy Phật 3 lạy xong hướng qua phía thầy phương trượng ngồi, lạy 3 lạy rồi
xoay sang hai bên chúng, mỗi bên xá một xá xong. Duy Na dẫn tới Chúng trưởng, Duyệt
chúng, Hương đăng… mỗi nơi xá chào xong, bèn xá Duy Na rồi về chỗ nghỉ ngơi.
Nếu thầy Phương Trượng mời dùng cơm, duyệt chúng tiếp đãi hay tùy Ngài có người
tiếp riêng.
Chứng nghĩa ghi
rằng, đặt đơn an chỗ, chính vì cầu đạo mà đến. Chủ khách cả hai không nên phụ
lòng nhau. Trụ trì (Phương Trượng) nên tỏ ra có đạo đức chân thật, săn sóc ân
cần. Người tới học cần có tâm nhẫn nại chịu khó tham học. Sách Chích Cổ ghi
rằng, xưa tại huyện Diệp - Nhữ Châu có học viện rộng lớn nơi Quy Tĩnh thiền sư
làm trụ trì tánh nghiêm khắc lạnh lùng, chúng nễ sợ Ngài. Phù Sơn ở xa tới lúc
trời tối, nghe uy danh thiền sư, đặc biệt tới tham vấn. Lúc đó gặp trời tuyết
giá, Quy Tĩnh trách mắng đuổi đi, đến đổi tiểu vải ra đất, quần áo đều thấm
ướt. Tăng giận bỏ đi, song chỉ đi một đổi xa còn tiếc nuối trở lại ngồi chờ.
Giây lát thiền sư lại mắng rằng ông chưa chịu đi sao? đợi tôi đánh hả? Viễn
nói: Viễn nhớ hai người ở xa nghìn dặm, đặc biệt tới tham vấn Hòa Thượng Thiền
sư, sao để cho giọt nước tràn đi. Sư cười bảo: hai người các ông tới đây đúng
là cần tham thiền, liền sai tri khách dọn đơn, chẳng lâu sau sung chức điển
tọa, làm cho chúng khổ sở cơ cực. Quy Tĩnh đi khỏi chùa, Viễn khách lấy bột gạo
trộn dầu nấu cháo ngũ vị thật chín nhừ. Quy Tĩnh trở về cháo đã để sẵn nơi tòa
ngồi của sư. Viễn đến, sư hỏi:
-
Ông lấy bột gạo có liên quan trộm đồ của thường trụ. Viễn nói: sự thật có lấy
bột gạo, ngưỡng mong được trách phạt. Sư Quy Tĩnh sai lấy y bát thưởng công
trực, lại đánh 30 gậy rồi tha cho. Quy Tĩnh một hôm ra ngoài chùa thấy Viễn ở
dưới hàng ba. Sư hỏi: đây là hành lang của chùa, ngươi đã ở đây lâu rồi có từng
trả thuế nhà không? Lại truy đòi tiền thuế. Viễn không đổi sắc mặt vào chợ xin
tiền hoàn lại, nhưng không chịu ra khỏi chùa. Quy Tĩnh bảo với chúng rằng, Viễn
thật tâm muốn tham thiền bèn cho trở về. Sư thượng đường đối giữa chúng giao
hoàn y lại v.v…Ôi, cổ nhân gần thầy, chọn bạn sớm chiều không dám lười nhác như
thế! Đến như bếp núc, vác xuẩn, lính thủy, lính bộ, binh dịch như chưa từng
biết lao nhọc. Người đời nay áo cơm đạm bạc, bèn nghĩ người xưa công việc bề
bộn lao khổ mà an nhàn riêng một cõi; an nhiên học đạo là thế đấy! Như Trụ Trì
ngày nay chỉ lấy việc đời tự buộc hoàn toàn không biết học kinh nghiệm để tạo
điều kiện mà khích lệ người học Phật.
Đức độ cao
phong như thế xem chừng không đáng phục; chủ khách hai đàng cô phụ nhau, thật
là đáng tiếc!
2.3Cùng làm
việc tập thể (phổ thỉnh):
Nếu có việc làm
chung tập thể, trước tiên phải thông báo nơi nhà khách như sau:
Đại chúng khi
nghe hiệu lệnh bảng tập họp nên có mặt đông đủ để cùng làm việc (làm vườn,
trồng cây). Tại nhà kho Giám thâu chuẩn bị trước đồ dùng (dụng cụ) đầy đủ: đợi
nghe bảng hiệu xong, đem phân phát mỗi người. Chiếu Nội Quy làm việc buổi sáng
cho hoàn tất theo sự chỉ định.
Đại chúng mỗi
người trước sau thứ tự ra khỏi chùa lúc công tác không được giởn đùa, nói cười
thô tháo. Mỗi người tự lo bổn phận trong sự chú tâm, làm công tác xong lại trở về.
Chứng nghĩa ghi
rằng, phép làm việc chung, trên dưới đều ngang nhau. Những ngôi chùa trên núi
công việc quá bề bộn, nhân gặp lúc có bảng hiệu nhóm chúng là phải đi hết. Dù
Trụ Trì cũng không được muốn lánh việc nhọc; ai có bệnh duyên không nên miễn
cưỡng. Người già yếu được phép nghỉ. Đại chúng sống chung mọi việc khai, giá
cũng phải hiểu nhau để trợ duyên.
Y cứ theo ngài
Chí Siêu tại Đồng Châu, đời Đường người Bằng Dực nương chùa Khai Hóa ở Tinh
Châu xuất gia với Tán thiền sư. Làm Trụ Trì bổn tự, thân tâm thanh tịnh, điều
hành việc chúng chuyên cần đem lại an ổn số chúng có đến cả trăm người. Quần
áo, thức ăn luôn đầy đủ, mỗi khi có việc nhọc ắt lấy mình làm gương trước. Ôi !
Trụ Trì thời xưa phần đông đều như thế đấy cho nên tòng lâm hưng thạnh. Trụ Trì
đời nay ở chỗ sang vinh, đẩy nhọc cho người còn riêng mình lẩn tránh; muốn chấn
chỉnh lại tòng lâm thật khó thay!
2.4Quy tắc hằng
ngày:
Quy tắc hằng ngày
6 quyển trước đã phân biệt rõ các công việc. Đây chương nói về đại chúng bèn
nêu chỉ người, người đang thực hành, không luận người nào, làm việc gì, nêu
chung nhứt nhứt không sai phạm. Người trách nhiệm trong ngoài hàm chỉ chung mỗi
mỗi tuân thủ những điều sau:
1- Giới đức đôn
hậu: vì gốc tuệ giác làm cơ sở của Niết Bàn
2- Phải nhẫn
chịu mọi đạm bạc mà an bần lạc đạo (sống nghèo an lạc vui đạo) giữ vững đạo tâm
3- Vắng lặng
thuần nhất, ý thức với việc chính không để phân tâm
4- Bỏ việc
riêng tư, dứt tà, hiến công giữ chánh
5- Nhu hòa nhẫn
nhục, tôn trọng kính người
6- Theo chúng
nghe lịnh, giữ oai nghi chỉnh tề
7- Chuyên cần
tu tập không lười biếng bỏ bê
8- Tuân quy tắc
xử chúng, nhìn thẳng không a dua
9- An phận chú
ý, không để quên sót
10- Theo quy
tắc cùng gấp rút tu hành.
Mười điều trên
đây tổng tóm lược đại cương thiện pháp không dấu che mà tỏ trần. Còn có những
việc cấm cần nêu ra ở sau.
Chứng nghĩa ghi
lời cổ nhân dạy: nói một trượng không bằng làm một thước, nói một thước không
bằng làm một tấc. Ô Sào thiền sư gọi thi hào Bạch Cư Dị bảo rằng:
“Chớ làm các
điều ác
Vâng làm những
điều thiện”
Dị hỏi: đứa trẻ
3 tuổi có biết đạo không?
- Sư nói: đứa
bé 3 tuổi vẫn đắc đạo mà ông lão 80 tuổi tu không đắc đạo. Lời nói chí lý thay!
Chín việc cấm
đó là:
1- Không được
phá giới căn bổn
2- Không được
trong khi tụng giới vô cớ tùy tiện theo chúng
3- Không được
bất hiếu với cha mẹ
4- Không được
mạ nhục sư trưởng
5- Không được
cố vi phạm lịnh cấm của chính quyền, nhà nước
6- Không được
la cà gần gũi người nữ
7- Không được
sau khi thọ giới mà không biết giới tướng
8- Không được
thân cận thầy tà
9- Không được
uống rượu, đánh bạc.
Không phạm chín
điều trên đây gọi là giới đức đôn hậu. Nếu phạm nhẹ bị phạt đuổi khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi
rằng, Như Lai những ngày sau cùng lấy việc duy trì giới luật làm tông chỉ
thường luận đàm. Rời bỏ sự bàn lý, lý làm sao có được. Các nhà Thiền, Giáo phải
đủ giới hạnh như sương tuyết mới kham làm mô phạm lâu dài đâu thể đem chất độc
làm nên đề hồ (bơ sữa).
Vì thế, muốn
duy trì Phật pháp không diệt, con người phải có ý chí. Như nói đi nghìn dặm
phải bắt đầu một bước; một bước chưa đi chẳng thế nào đến nơi được, đường xa
nghìn dặm khởi đi từ bước thứ nhất, phải nên biết như thế. Từ thân này cho đến
Phật thân, tức đây là một bước. Song chắc hẳn không thể do dự không tiến lên,
vì tiến tới thời một bước này trong mỗi niệm an toàn. Dừng lại một bước phải
nghỉ ngơi, không phải một bước là tới được nghìn dặm đâu! Luận về tiến bộ ở
ngay bước đầu không có, nên tiến sâu trong tham sân si mà trong đó mỗi thứ có
vướng mắc riêng, nên phải tự biết, tự điều phục.
Và sau đây thêm
6 việc ngăn cấm:
1. Không được
bày vẽ ăn ngon
2. Không được
mặc quần áo lòe loẹt
3. Không được
bàn nhảm việc đời
4. Không được
tranh luận tiền bạc
5. Không được
canh tác, nuôi súc vật
6. Không được
làm mai mối cho trai gái, làm việc hội hè như thế gian.
Sáu việc trên
không phạm gọi là an bần lạc đạo. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng đuổi khỏi
viện.
Chứng nghĩa ghi
rằng, sáu điều trên đối với tăng trách nhiệm ứng phó, tăng ở tịnh thất… nên
biết hổ thẹn không dám phạm, huống chi chúng ở tùng lâm ư? Vì ăn đồ ăn ngon bị vị
giác câu thúc, mặc đồ lòe loẹt bị sắc trần trói buộc, bàn phiếm, tranh biện đắm
trong tham độc. Canh tác, nuôi gia súc phá giới trọng sát sanh. Hội hè họp
chúng làm phát sanh nhiều việc tệ ác khác. Lại 4 điều trước chư tăng dễ phạm; 2
việc sau chỉ những người trách nhiệm phạm (làm). Những điều này đều gây oán hận
là gốc khổ cả. Lương Hoàng sám ghi rằng: những gì là gốc khổ oán hận? Đó là mắt
ham sắc đẹp, tai thích tiếng hay, mũi ưa nếm hương, lưỡi đắm vị (mùi), thân ham
lòe loẹt thường bị 5 trần ràng buộc. Do vậy trải qua vô số kiếp đi trong đêm dài
tăm tối không thể giải thoát được, nên giữ an bần lạc đạo.
Không làm 5
việc như sau:
1- Không được
vô cớ ra ngoài đi chơi, lân la tới nhà thế tục
2- Không được
học theo ứng phó từ chương, xướng ca nghề tạp
3- Không được
học thiên văn, địa lý, phù thủy, lư hỏa v.v… những việc ngoại.
4- Không được
học nội công, luyện khí và phép vô vi phái Bạch liên, tà đạo
5- Không được
hô hào làm những công tác vô ích v.v…
Không phạm 5
việc trên gọi là tĩnh thức việc làm chính. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng cho ra
khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi
lời cổ nhân nói rằng, một tấc thời gian là một tấc vàng. Lời này cảnh tĩnh
người học đạo phải biết thời giờ dễ qua, không nên luống phí vậy. Nếu phạm 5
việc chỉ làm mất tấc bóng quang âm bèn đánh mất tâm thuật của mình, há chẳng
răn dè sao?
Pháp Lương
Hoàng Sám ghi rằng, mỗi một người nên khởi tâm giác ngộ, biết đời là vô thường;
thân người không tồn tại lâu dài. Tuổi trẻ, tráng niên ắt suy nhược chớ có
trông cậy dung dưỡng, tự kiểm hành vi ô nhiễm của mình. Vạn vật vô thường đều
quy về chỗ diệt, nếu không tin tinh cần tu chuyển nghiệp, không do đâu ra khỏi
được. Cho nên phải tĩnh thức trong phận sự chính mình.
Cũng không được
làm 6 việc như:
1.
Không được quyên góp (mộ hoá, hóa duyên) phi lý
2.
Không được lạm dụng của tín thí
3.
Không được lấy dùng vật của thường trú tăng
4.
Không được làm hư hại đồ vật dụng mà không bồi thường
5.
Không được dấu chúng mà ăn
6.
Không được không bạch chúng biết mà đụng đến vật tăng vô chủ.
Chứng nghĩa ghi
rằng, công tức là không phải việc tư; dựa theo tiền tài mà nói; chánh tức là
không tà, phỏng theo ái ngữ mà nói. Song 6 điều này đa phần dựa tài vật thuyết
minh theo kinh luận ghi rằng, nếu vật thuộc người khác, người khác mới được giữ
gìn. Đối vật của người dù một cộng cỏ, một lá rau người ta không cho không được
lấy, huống gì trộm cắp? Vì do chúng sanh chỉ thấy lợi trước mắt, nên dùng mọi
cách vô đạo mà lấy; dẫn đến vị lai phần nhiều bị hoạn họa. Thế nên luôn phải
giữ tâm công chính, duy trì 6 điều này.
Có bài kệ cổ
ghi rằng:
Tâm ta như đòn
cân
Cân đo vị công
bằng
Tâm ta giống
vách tường
Ngay chính giữ
thẳng đường
Công chính làm
người phục
Công chính lấy
làm gương
Người vâng công
giữ chánh
Kẻ trong sạch
ai đương?
4 việc cần nên
an nhẫn như sau:
1- Không được
miệng mắng chưởi, thu tay đánh đấm
2- Không được
bị nhục chẳng nhẫn hiện sân ra trên nét mặt
3- Không được
dùng oai lực uy hiếp người
4- Không được
khi dễ người già cả.
Chứng nghĩa ghi
nơi chương đề cập tu hành rằng, chớ có sân giận. Bởi vì một niệm sân tâm khởi,
trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở toang. Khinh mạn như núi cao, nước chảy
không mòn. Vã, phi lý sân thô mà lại dễ trừ; chấp lý phát sân tế mà khó dứt.
Thế hay xuất thế cũng vậy, nếu không đạt nhẫn từ ắt bại ngay nơi niệm sân. Cho
nên người quân tử lấy từ nuôi đức, lấy nhẫn dưỡng tâm; việc nhỏ không nhẫn
được, mưu lớn phải loạn. Kiếp đao binh hung hiễm do chứa sân chiêu cảm do ngã
chấp mà ra. Cho nên chứa sân làm sao thường có thật ngã được chứ! Biết ngã chấp
vốn không, sân kiêu tự dứt; hiện tại, tương lai hẳn chứng đạt thể vô ngã. Sách
Chích Cổ ghi rằng. Hòa Thượng Tín Mộc Trăng phủ Vân Môn ở Thiệu Hưng, có vị
tăng nương theo học khoảng 10 năm, thủ lễ rất mực, đến nổi tiếng khen đồn xa.
Mới đầu chẳng nói tới phải trái, một lần khen sư ngoái mong quyến thuộc. Về sau
chư tăng tin lời dèm pha trong sách không chấp thuận, sư thật sự bị vu xấu. Sư giận
nói giữa chúng rằng: thị phi có che dấu được không? Chỉ có thần biết mà thôi!
Rồi không ai hỏi nữa. Ôi! Xưa cho ta câu chuyện đáng suy nghĩ! Nay đáp lại lấy
oán, tôi đề cao cái đức của kia, vu khống (mắng) của kia là việc xấu của ta hay
nhẫn nhục mà không cải. Đó mới là nhẫn nhục nhu hòa chí cực vậy. Lương Hoàng
sám ghi, đối với chúng sanh không có sự sai biệt khi nhập bình đẳng quán, không
nghĩ kẻ oán người thân mà thường dùng con mắt thương yêu nhìn khắp chúng sanh.
Nếu như chúng sanh ôm tâm oán đối với Bồ Tát khởi tâm ác nghịch, Bồ Tát là chân
thiện tri thức, khéo điều phục tâm, vì chúng sanh nói pháp mầu. Ví như biển cả
hết thảy những độc hại không làm hư hoại được, Bồ Tát cũng như thế. Người ngu
vô trí không biết báo ân; cũng như chúng sanh khởi vô số việc ác không làm loạn
động tâm Bồ Tát. Đó chính là nhẫn nhục nhu hòa vậy.
Không làm 4
việc như sau:
1.
Không được cười giởn vô độ
2.
Không được nói bàn lớn tiếng
3.
Không được thay hình đổi dạng
4.
Không được đứng ngồi nghênh ngang.
-Chứng nghĩa
ghi rằng, oai do đức hiển lộ không phải oai của thế lực; nghi do tâm biểu tỏ,
không phải dối hiện cái nghi. Ngoài ra oai do nghiêm trì giới hạnh chúng đức
mới trang nghiêm; nghi do động tĩnh hợp cách tiến thoái thảy an nhiên. Nên nói
rằng hạnh trong sạch đều do đạo nghi, thanh bạch hoàn toàn do giới phẩm. Tỳ
Kheo ung dung hành đạo, cảm niệm người học sĩ để an vui; xuất gia Phật tử an ổn
hành hạnh khất thực. Thu phục ngoại đạo bỏ tà theo chánh. Cho nên có câu rằng,
oai nghi bằng cách dạy vô ngôn. Lại oai nghi gọi là điều ngự, có nghĩa là điều
thân không vọng động, miệng không vọng ngữ (nói dối), ý không vọng tưởng. Điều
động được 3 nghiệp thiện như thế thời 6 căn tự thu nhiếp. Chích Cổ ghi rằng,
Thiền sư Pháp Vân Bổn lúc bình thường làm việc dừng lại, ngó thẳng không chớp
mắt, nhập chúng 30 năm chưa từng hé môi cười một tiếng. Khi đứng trông như
Thánh tượng đứng thẳng không ngồi. Mâm cổ giả dùng tên thịt cá là không ăn. Bởi
một thân oai nghi tề chỉnh như thế không hổ hình tướng người xuất gia. Trong
làm mô phạm cho tăng chúng, ngoài làm lợi lạc cho tín đồ xét hai tiếng “oai
nghi” đâu có luống phí!
Lại cũng không
làm 4 việc như:
1- Không được
nghỉ tụng kinh không có lý do
2- Làm việc
không được biếng trể
3- Không được
không cảnh cáo người ác
4- Không nên
làm hại việc có ích, không được làm điều vô ích.
-Chứng nghĩa
ghi rằng, cần tu hành nghiệp; cần là không biếng lười; tu là gia công sửa lỗi;
không để thì giờ trôi qua vô ích, tinh tấn vượt qua. Hành nghiệp có 2 phần là
thế, xuất thế; vì hành nghiệp xuất thế là chính, là yếu. Kinh ghi rằng chớ
khinh việc thiện nhỏ mà cho là không có phước. Như giọt nước tuy nhỏ dần dần
cũng đầy cái chum (đồ chứa) lớn. Việc thiện nhỏ không chứa không thể thành
Thánh. Chớ khinh thường việc ác nhỏ vì cho là vô tội. Việc ác nhỏ tích chứa
cũng đủ để làm mất thân người. Đây là lời chư Phật dạy ai dám không tin? Cho
nên phải tinh tấn tu thiện nghiệp xuất thế.
Và sau đây là 6
việc không nên phạm:
1- Không được
khiêu khích khẩu chiến
2- Không được
kết nạp bọn đảng
3- Không được
gian trá không thật
4- Không được
gièm chê bậc danh đức
4- Không được
vu cáo hủy hại người thanh tịnh
5-Không được
khinh mắng người trật vai áo.
-Chứng nghĩa
ghi theo Lương Hoàng Sám rằng, ngoài ra lỗi của miệng lại là cửa của mọi oán
họa. Chư Phật răn nhắc không được nói lưỡi đôi chiều, ác khẩu, nói đặt điều,
lời trau chuốt. Nên biết nói mách qué, lời ngọt cốt tạo việc thị phi gây họa
không nhỏ, chiêu báo rất nặng. Luận việc xử thế con người, tâm ôm độc hại;
miệng phun lời độc, thân làm hành động độc. Vì ba độc này làm hại chúng sanh; chúng
sanh bị độc liền kết oán hận quyết tâm muốn báo thù, hoặc trong đời này theo ý
muốn, hoặc sau khi chết theo tâm. Oán đối như thế đều do 3 nghiệp. Trong 3
nghiệp, khẩu nghiệp thật sâu nặng, cho chí thọ báo còn gieo các mầm độc. Vì thế
xử sự với mọi người nên y cứ bài kệ này:
Điều lợi thứ
nhất:Sang
Mới làm cho
chúng an
Đừng mở lời hai
lưỡi
Dè chừng chớ
nói càng
Phàm ra làm
việc gì
Nên chớ phụ
nhơn tình
Mời gởi hăm hăm
đến
Tòng lâm trăm
tệ sanh
Việc làm ra đảm
trách
Chớ mua một
người lành
Một người lành
mua được
Mọi việc đều
đảo khuynh.
Thêm 15 việc
không làm như sau:
1- Không được
gàn bướng gây sanh sự
2- Không được
nói sai kinh luận
3- Không được
dối phô chiếm cơ duyên cổ đức
4- Không được
vô tri biên thuật làm người lầm
5- Không được
chiêu nạp người xấu
6- Không được
tự lập đồ chúng
7- Không được
chuyên giữ trẻ nít và sa di nhỏ tuổi
8- Không được
dùng việc bất minh muốn làm thầy người
9- Không được
dụ dỗ đệ tử người khác, phản lại bổn sư
10- Không được
vô sự đột nhập cửa công
11- Không được
vọng bàn thời sự đắc thất, thị phi
12- Không được
có tâm khinh ngạo các bậc tiên thánh, tiên hiền
13- Không được
đem đồ đạc của Tam Bảo cho người
14- Không được
xâm chiếm sản nghiệp người khác
15- Không được
xông khói nhúm bếp riêng.
Chứng nghĩa ghi
rằng, thủ ý an phận lại còn có 20 lời khuyên như sau:
1) Tăng viện
lấy vô sự làm hưng thạnh
2) Tu hành lấy
hợp cơ duyên làm an ổn
3) tinh tấn lấy
trì giới là đệ nhứt
4) tật bệnh lấy
giảm ăn làm thuốc thang
5) sân phiền
lấy nhẫn nhục làm giải pháp hay
6) thị phi lấy
không biện bạch làm giải thoát
7) đãi người
lấy thành thật làm chân tình
8) làm việc lấy
tận tâm làm công cán
9) nói năng lấy
ít lời làm ngay chính
10) trên dưới
lấy từ hòa làm tấn đức
11) học vấn lấy
chuyên cần làm nhập môn
12) nhân quả
lấy minh bạch làm không lỗi
13) già bịnh
lấy vô thường làm sách tấn
14) Phật sự lấy
tinh thành làm quan yếu
15) Kính khách
lấy khiêm nhường làm sự cúng dường
16) sân vườn
(chùa) lấy cây thật làm trang nghiêm
17) gặp việc
lấy dự toán làm không nhọc
18) xử chúng
lấy cẩn ngôn làm thường lễ
19) gặp nguy
lấy không loạn để ứng phó
20) giúp vật
lấy từ bi làm căn bản.
Chú ý như thế
mới ít lỗi lầm. Có bài kệ như sau:
Ta là người
xuất gia
Quá bán con nhà
nông
Phải nhớ lúc
bần cùng
Giữ an phận thủ
thường
Giá như người
giàu sang
Lạc giữa chốn
thiền môn
Nên biết nghĩa
pháp không
Nguyên yếu tâm
ngươi chết
Người sợ tâm
bất tử
Tâm tử nghèo
cũng tốt
Giữ được phận
an bần
Trọn đời không
não phiền.
Cần phải tuân
theo Nội Quy không làm 7 việc như:
1- Không được
sai mà không làm; cấm đoán lại chẳng ngưng
2- Không được
có lỗi bị phạt mà không tuân theo
3- Không được
lấy danh nghĩa chùa mà không ở trong tăng giới
4- Không được
ngang ngạnh ngăn cản người trách nhiệm làm việc
5- Không được
vì việc làm sửa đổi thành qui tắc
6- Không được
không thưa thầy bạn khi tự ý làm sai
7- Không được
kết giao người có lỗi bị đuổi.
Bảy việc trên
không phạm gọi là tùy thuận Quy luật. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng đuổi khỏi
viện.
Chứng nghĩa ghi
rằng, trở lên bên trên là 10 khoa cộng gồm 67 việc đều giữ mà không phạm gọi là
tùy thuận qui chế. Lại nói rõ ràng hơn từ Tam quy, ngũ giới, giới Sa Di, Tỳ
Kheo, Bồ Tát, Bách Trượng Thanh Quy, cho chí lễ nghi 300 oai nghi, lục độ, vạn
hạnh… Luật pháp thế gian liệt ra không phạm gọi chung là tùy thuận qui tắc,
không có nêu nơi 7 điều trên.
Phụ: 10 điều tu
thân của Ngài Liên Trì (trích sách Đàm Lâu Pháp vựng)
1- Không có tâm
khi dối
2- Không được
tham tiền của
3- Không được
sử gian
4- Không được
dùng mưu
5- Không được
che dấu lỗi
6- Không được
phung phí
7- Không được
gần người nữ
8- Không được
ngồi lê
9- Không được
lánh nhọc
10- Không được
phí thì giờ.
* Nguyên chú
ghi rằng, nói tâm khi dễ, hễ trộm vật của thường trụ, lừa đảo vật của tín thí
như Phật tượng, kinh điển, đồ trai tăng, hội hè, tạo tự, đúc chuông, làm cầu,
đắp đường… tất cả những tài vật như thế mà lấy dùng riêng. Cho đến dối người,
dối quan, dối trời, dối thần…những việc ám muội đều gọi là khi dối. Dù không
trộm, lừa đảo như đã nói, chỉ thích ham chứa giữ tiền bạc, keo rít không cho,
bỏ của ra để thu lợi, cho vay lấy lời đều gọi là tham tài. Lúc đáng nói nín
thinh không nói; đáng can ngăn ngồi trơ nhìn không can ngăn. Ngoài biểu lộ
người ngu khờ, trong ẩn chứa điều đáng chê trách đều gọi là sử gian. Không chịu
an thân chỉ tạo mưu tính kế, hoặc mưu tính chỗ ở, hoặc mưu đồ chúng, mưu toan
kinh sám, mưu tính đàn thí, mưu làm pháp chủ, làm giới sư; cho chí kết giao với
bè bạn xấu ác, ra vào cửa quan. Tâm tánh ác độc, tư cách khả ố, đốc sử đặt
điều, trái lý nhiều việc v.v… đều gọi là dùng mưu cả. Khinh người, cười người,
quát nạt người, làm thầy người, ghen tài người, bêu riếu người; nhận người đào
tẩu, chiếm tài sản người, khiêu khích thưa kiện, không nhường nhịn người đều
gọi là che dấu tội họa. Phô trương phòng xá, ăn uống sung túc, quần áo hoa hòe,
chủ nhiều sản nghiệp, tinh chế đồ dùng, xem thường ngũ cốc… Phóng túng giao du,
nuôi dưỡng tôi tớ, đút lót nhiều cho bọn đảng… một mực không biết hỗ thẹn đều gọi
là phung phí. Tăng ni nhỏ tuổi kết làm bạn đạo. Phụ nữ bái làm cô nương lui tới
gia đình vọng tộc, tìm kết thâm giao không tránh khỏi sự gièm pha đều gọi là
thân cận người nữ. La cà tới nhà giàu, chầu chực cửa sang… Hoặc mượn thi văn
biển ngạch, hoặc mượn quyền thế, hoặc đòi hỏi tiền bạc… Suốt ngày bôn ba không
nghĩ tới tu tịnh đều gọi là ngoại diện. Sớm tối lễ tụng xao lãng bê tha, công
tác Phật sự trì trệ không theo chúng đều gọi là lánh nặng tìm nhẹ. Mạng người
qua hơi thở, thời khắc không đợi người. Việc chết chưa tường tấc bóng đáng tiếc,
để luống qua ngày trống rỗng gọi là luống phí thì giờ. Chín việc trước quan hệ
tới giới và một việc sau nói đến nỗ lực không ngừng vậy.
2.5Phụ: Người
Xuất Gia
Răn những việc
không tốt, có 32 điều trích từ Vân Thê pháp vựng như sau:
1) Ngồi ngay
trước Phật thọ người lễ bái bất tường
2) Mắng người
trước Phật: bất tường
3) Trên pháp
tòa chỉ trích người và buộc miệng tố cáo bậc tiên hiền sai lỗi: bất tường
4) Cầm y thọ
người lễ
5) Đang ăn mắng
người
6) Phân biệt
thức ăn ngon dỡ sanh tâm chê ghét
7) Gấm vóc, the
lụa mỏng may tăng y dùng hằng ngày
8) Giường nằm
dùng mền đôi, chiếu đôi, lụa mỏng làm nệm, tơ lụa làm màng
9) Dáng sớm
mắng chửi người
10) Hiềm ghét
tín thí khinh chê nhỏ mọn
11) Mua bán nô
bộc (tôi tớ), cung ứng dịch sứ như nhà hào phú
12) Người khác
lao lực riêng mình nhàn hạ.
13) Người nghèo
khó riêng mình giàu sang
14) Tuổi trẻ
làm pháp sư, làm thầy thí thực, làm sư trụ trì
15) Tuổi trẻ ỷ
bẩm chất thông minh, khinh chê bậc kỳ lão
16) Ỷ tuổi lớn
hạ cao, khinh khi lớp đàn em
17) Vô cớ được
tặng trọng hậu
18) Người đem
lòng chí thành tiếp ta, ta lấy tâm xảo trá đối xử lại
19) Ưa thích
bàn việc lỗi người và che lỗi mình
20) Lấy đồ vật
Tam Bảo làm lợi cho người thế tục
21) Ân sủng đệ
tử Sa Di cho ăn ngon, mặc đẹp
22) Phát ngôn
khích động thô lỗ làm cho người khó chấp nhận
23) Có nhiều
người hộ pháp, nhiều kẻ cúng dường liền tự tôn tự đại
24) Không có
bịnh sai người đổ đồ dơ
25) Trong khi
bịnh sân giận với người phục vụ
26) Mặc y đi
tiểu giải
27) Gặp những
tai họa như thủy nạn v.v… oán hận trời đất
28) Thiếu nợ
người, nghe người chết sanh tâm vui mừng
29) Chưa nói đã
cười trước
30) Lúc vô sự
luôn sầu than
31) Dốt đặc
giáo lý, vọng bàn cổ nhân, coi thường mọi người
32) Có chút ít
hiểu biết tự cho là tổ sư. Những việc trên làm tổn phước tổn thọ, phần nhiều
rước lấy tai họa cho nên gọi là bất tường; phải cùng nhau giữ giới răn dè.
Chứng nghĩa ghi
sách Thiền Tông Bí yếu rằng, Thiền sư Thừa Hạo chùa Ngọc Tuyền đi tham vấn sư
Đắc Tháp phát sáng tâm yếu đạt được Đại tự tại tam muội, tạo chế mũi trâu,
người đời gọi là Ngưu Đầu Khố, chép danh hiệu lịch đại tổ sư, bèn nói rằng: chỉ
có Văn Thù, Phổ Hiền sánh kịp con. Theo sách dẫn trên nên tòng lâm nhân đó gọi
là Hạo bố côn. Giữa niên hiệu Nguyên Phong làm Trưởng chúng ở động Nhương Dương
ẩn tu, có một tăng làng cũng đến tham học. Sư thấy mặt mắng rằng:
-
Ngươi có đạo lý gì dám vác mặt tới đây làm trò đùa ư?
Tăng nhân giận
xung thiên, tìm tới Lộc Môn như đã nói, rồi bỏ đi luôn. Ôi! đây là một dạng
thức bất tường đó vậy. Có pháp sư Tề Ngọc thời Tuyên Hòa năm thứ 6 ở Thượng Trúc,
thấy có một ông tăng mất quy cách liền quở rằng: ông vô tri như súc sanh vậy.
Sau hối hận nói: vị ấy tuy là người hư, mắng là súc sanh có tội với Tam Bảo. Từ
đó 3 năm luôn đối trước Phật sám hối lỗi lầm. Như thế ngõ hầu mới chuyển việc
xấu ác chẳng lành trở nên thiện lành vậy. Nhưng tại sao ban đầu ta không giữ
lời cẩn trọng nhỉ? Người có học lấy đó tự soi sáng tâm mình vẫn hơn.
2.6Qui tắc sống
chung
Tâm dừng ảnh dứt,
ổn định danh lam. Nội Qui tu tập đồng chí hướng phải tham vấn bậc kỳ túc để
hiểu sâu mà trăm mối do từ đời này sang đời sau phải biết. Nhân do tri kiến mỏng
cạn nên sơ tâm dần lui sụt làm cho giềng mối đạo mất hướng; mô phạm đa phần sai
trái, tập nhiễm lâu ngày trở thành thói tệ.
Trụ trì… ấn ký.
Tự thẹn đức
mỏng, tài sơ rỗng tuếch lời Phật dạy, không pháp chi báo đáp, muốn quay lại đi
đến chỗ đồi phong. Chỉ mong bậc hiền nhân trở lại cùng tôn trọng giới luật Phật
chế. Tổ răn mực thước điều trị ba nghiệp, diệt trừ tội lỗi, ở chốn tòng lâm như
thế vốn phải tuân hành. Nếu không được như vậy không đủ sức sống chung.
Phạm 32 việc
sau đây cho ra khỏi viện:
1-
Phạm giới căn bản đuổi khỏi viện.
2-
Tu thiền cốt ở thật tham thật ngộ, người lộng ngôn, khẩu đầu thiền
3-
Tụ năm tụ ba chơi đùa trước cửa sơn môn tán gẫu hay ngồi không bị phạt không
tuân hành: đuổi.
4-
Uống rượu, xem người đùa vui bị phạt đuổi khỏi viện. Nếu bị bịnh nặng không
rượu trị bịnh không lành phải bạch chúng mới được uống; hút thuốc bị phạt.
5-
Cố cho người có tội trở lại, tính làm hại tòng lâm, làm náo loạn người tốt.
6-
Tranh cãi phải trái, châu miệng chửi rủa, thu tay đánh đấm bất cứ ngay gian.
7-
Đúng lý không nhẫn, phạm lỗi mà sân, đúng lẽ không phạt người phạm lỗi.
8-
Lúa thóc các thứ mà không thưa Trụ trì tự bán dùng riêng bị phạt đền bồi xong,
đuổi luôn
9-
Xâm tổn của Tam Bảo như xắn bớt tre gỗ, hoa quả cho người bồi thường xong,
đuổi.
10- Xin của thí
giữ ở chùa vẫn tự đi xin thêm; xét việc nặng nhẹ để xử phạt, không tuân đuổi
khỏi viện.
11- Đem việc
công giữ làm việc riêng và theo thói tục cố hữu không phải của người tu hành
liền cho ra khỏi viện. Biết mà không nêu lên cùng bị phạt.
12- Với mắt
không tinh dối luận kiến thức người; phát ngôn không tự biết sai trái cho ra
khỏi viện.
13- Công phu,
tọa thiền ngao du ra ngoài không theo chúng bị phạt. Trừ đi công việc công, hay
bị bịnh, không tuân bị đuổi.
14- Cải vả
trong thiền đường bị phạt, nơi chánh điện dấu không nêu lên; đợi ra khỏi nhà
nêu lên, toàn ban làm việc trong chùa cùng bị phạt.
15- Trừ việc
công không ở tại liêu mình mà tới phòng khách tự tung phóng túng bị phạt.
16- Như chơi
bài, đánh bạc nặng phạt đuổi khỏi viện. Chức sự không nêu ra cùng bị phạt.
17- Vô sự không
được trong lúc bửa ăn đùa cười.
18- Không được
tranh chỗ ngồi, không được chẳng theo chỗ ấn định.
19- Không được
đứng lên trước khi chưa kiết trai.
20- Không được
cầm chén vào bếp lấy thức ăn, vi phạm bị phạt.
21- Lúc uống
trà, nghe Quy Ước, trừ việc công không theo chúng bị phạt. Không được sai mượn
người lấy trà bánh đem về phòng cho; người lấy cùng bị phạt.
22- Kinh sách
của thường trụ, hàm quyển trang trong đều không cho mượn đem ra khỏi chùa, vi
phạm bị phạt. Cũng không được tự ý lấy, phải bạch chúng mới mượn.
23- Khinh khi
bậc kỳ đức, nói lời xấu ác, sanh tâm phỉ báng.
24- Không nghe
người chức sự kết buộc tội thành điều mà bất mãn tố cáo bị phạt.
25- Không có
bịnh nặng lén chúng ăn uống riêng bị phạt. Ghé nhà bạn bè ở cách đêm bị phạt.
26- Các phòng
nghe chuông báo thức không dậy bị phạt. Ỷ mình có công không chịu tuân phục
theo, phạt nặng.
27- Phàm nhận
vật của tín thí mà không cho người chấp sự biết nhận vội, phạt đền bồi, trừ bạn
bè thân quen.
28- Để râu tóc
dài, từ chối thẳng không cho ở.
29- Trời nóng
nực oi bức không được chỉ mặc quần đùi. Mùa đông trời lạnh đốt lửa cùng đội nón
bị phạt.
30- Tiền bạc
của Tam Bảo thu chi có sổ sách, vào mỗi kỳ họp phải báo cáo. Không ghi rõ hoặc
gian dối bị phạt.
31- Ở trong
chúng ra ngoài gây lộn, nghiêm đuổi, dựa cớ ấy bằng cách cất đơn, không cho
nhập vào lại.
32- Bao che
người có tội nặng (lỗi lớn) và trẻ nhỏ hoặc lén kết nạp đồ chúng bị phạt đuổi
Tòng lâm không
có tăng trông coi trong ngoài bất chánh. Những điều tệ xấu làm sao chấm dứt;
quy tắc làm sao tái lập được? Vị thầy trông coi phải tận tâm xem xét không được
theo tình cảm riêng. Nếu người nào phạm chiếu quy luật phạt. Không phạt, vị
tăng trách nhiệm bị phạt.
Bên trên là 32
điều quy định đúng, là quy tắc hành đạo. Đại chúng sống chung nên tôn trọng để
duy trì nề nếp.
Ngày…tháng…năm
Trụ trì … cẩn
bạch.
-Chứng nghĩa
ghi rằng Phật tổ (Thích Ca) lập giáo pháp, kiến tạo tòng lâm giúp chúng tu tập.
Nghiêm tu thanh tịnh là báo đáp 4 ân và làm cho 3 nghiệp thanh tịnh. Cho nên
Trụ Trì không tiếc thân mạng, vét bùn, khuân nước vì để nuôi dưỡng tài năng,
nung đúc Thánh trí. Sân chùa không thể không rộng lớn, lễ pháp không thể không
nghiêm minh, quy tắc không thể không lập. Lập qui tắc trên dưới mới yên; lễ
pháp nghiêm gian thù lui bước; cửa chùa đủ rộng thời có tinh thần tôn sư trọng
đạo. Luận về khiêm nhường tiếp vật, như núi dung, biển nạp. Phong cách trụ trì
hễ gặp việc thi hành, không được mặt lạnh quay đi, phòng những việc tế vi, sửa dần
lỗi lầm của mình, ngỏ hầu mới có thể làm cho trong ngoài về sau thay đổi vô sự
mà được an lạc vậy. Song muốn điều động được người trước hết phải điều chỉnh
chính mình mới mong điều phục một phần thói quen của người khác. Xem kẻ khác
như chính bản thân, bỏ cái Ta theo người, theo quy tắc xưa (lão Tổ: Tổ Bách
Trượng) mới làm được. Sách Chích Cổ ghi rằng, Nam Đảng Không thiền sư tư chất
thông mẫn, tri kiến sâu rộng, giữ gìn giới luật tinh nghiêm. Hội hè mời Ngài
đều không đi …Có người đón thầy tới nhà thọ trai, cúng dường tiền vật lập chùa.
Ngài nói: gánh công bỏ của mới quý đẹp, nhưng dấu chúng mà ăn không phải tự phá
giới sao? Cuối cùng Ngài chẳng tới dự.
Ngu Am có bài
thơ ca tụng rằng:
Sùng Giác mất
bổng lộc
Cần cù chăm
thảo mộc
Chay tịnh lập
sơn cốc
Hai việc phước
đức luân.
Ông muốn cần
được phước
Tôi tôn trọng
giới luật
Sơn môn có ngày
tàn
Giới luật như
kim cang (bất hoại).
Cúng dường chỉ
là một việc nhỏ; túi rỗng lọt hạt cải, từ đáy một lỗ hổng thấm lọt được kim
khâu. Toàn thân Bảo Giác do ngươi mua chuộc được, ngươi không thấy Văn Thù tái
thế là bậc thầy thanh lương; giữ luật trọn đời không hề giải đãi sao? Ta là
những hạng người gì mà dám không dùng đầu đội ư?
2.7Qui chế
thiền đường và quy tắc tọa thiền.
(xem chương 8: mục
tiết lạp ở dưới)
Qui chế tịnh
nghiệp đường có 16 điều như dưới đây:
Luận biển sanh
tử khôn dò, nếu không niệm Phật làm sao vượt qua được. Đạo Bồ Đề cao vợi, nếu
không có cõi Tịnh độ làm sao nương tựa được. Nay đại chúng cùng thấu rõ chỉ
chuyên niệm hồng danh 6 chữ lập nguyện cùng nhau, nỗ lực nhất tâm bất loạn; chỉ
sợ thời gian lâu, đi xa dễ sanh lười biếng, sự thật mất còn danh, lao lực lập
thành không gia tâm sách tấn; không lấy gì ràng buộc thân tâm; hẳn phải có
chương điều mới mong chỉnh đốn ta - người. May được cùng giữ qui tắc mà nhắc
khuyên nhau, không tranh ngã tranh nhân để cho tịnh nghiệp chóng thành. Đài sen
sớm nỡ thấy Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương. Thân này chứng tam muội được như thế
thời ước nguyện không mất. Xin được nêu ra 95 quy ước sau đây:
1- Thời khóa
hằng ngày 10 giờ niệm Phật; đến 9 giờ (tối) quán tưởng (tham thiền) và một thời
lạy sám hối. Dù đông lạnh, hạ oi cũng không được lơ là.
2- Mỗi nửa
tháng có trăng và không trăng, tụng luật Tứ Phần giới bổn; tụng gọn ít là kinh
Phạm Võng. Quỳ gối chấp tay đọc lời phát nguyện và hồi hướng sanh Tây Phương.
3- Gặp Khánh
Đản Phật A Di Đà và Quan Âm, Thế Chí thành tâm thiết lễ tưởng niệm
4- Mỗi năm hai
tháng, tháng giêng, tháng hai đều có 2 kỳ niệm Phật để cầu nguyện vạn vật đổi
mới, trời đất canh tân; nhằm nói lên ý nghĩa mạng người vô thường, ngày tháng luống
qua.
5- Mỗi ngày lúc
chiều nên cúng xuất sanh thí thực. Đọc chú Biến Thực chân ngôn 49 lần, niệm
hiệu Phật 1000 lần để giúp đỡ quỉ thần
6- Mỗi ngày
niệm Phật, thọ trai (dùng bửa) đều đắp y
7- Nên cấm chỉ
rong chơi không được ra ngoài xem ngóng, lên phố nhàn du. Trừ phi đi thăm bịnh
cha mẹ, sư trưởng, có thể tạm thời xin phép, ngoài ra đều không được.
8- Xin phép ra
ngoài nên có ngày giờ nhất định. Nếu quá hạn không về, phạt quỳ hương
9- Nên miễn
nghinh đón khách quí tiếp đãi đàm đạo ít lời vì thì giờ qua nhanh. Nếu gặp nhân
duyên hỏi Phật pháp, không nêu ở phần này
10- Nên che dấu
việc tạp. Phàm Kinh sách, giấy mực, thi, kệ, chữ viết… tất cả để chỗ cao, không
được hời hợt xem thường.
11- Không nên
trả lời ngoài kinh tạng. Giả như người đến tự viện cũng không hẹn ngay. Dù trả
lời không được, chỉ cần tụng kinh A Di Đà, lạy sám Tịnh Độ, niệm Phật mà thôi.
12- Trong chùa,
trừ niệm Phật ra, tất cả không nên nói tạp. Giả sử có việc cần hỏi đáp cũng nên
nhỏ nhẹ
13- Niệm Phật
bị hôn trầm dùng cờ hiệu nhỏ đi tuần để nhắc nhở tĩnh táo lại; cờ hiệu tới
không đứng lên bị phạt
14- Có lỗi
không sám hối, can ngăn không trừ, phạt quỳ hương. Phát tức nổi xung gây gỗ đôi
bên đều bị phạt. Một người nhẫn, một người sân, người sân bị phạt
15- Phàm có lỗi
nên cùng khuyên nhau theo Nội Quy, khiến người kia lập tức sám hối ngay. Không
được để cách ngày, đêm
16- Vô cớ xông
vào phòng, tụ lại bàn chuyện nhãm bị phạt quỳ hương. Không phải có việc quan
trọng, giờ chỉ tịnh (ngủ) không về chùa phạt hương.
Những điều quy
định trên nếu phạm, Duyệt chúng phải nêu ra. Đưa ra nhưng đương sự bất tuân là
đuổi. Biết mà không đưa ra, cả 2 cùng bị phạt quỳ.
Ngày…tháng… năm
Trụ trì… cẩn
ghi.
-Chứng nghĩa
ghi rằng, tông Tịnh Độ thành lập ở Đông Độ bắt đầu từ Ngài Lô Sơn Huệ Viễn.
Ngài khuyên người bỏ cõi Ta Bà, cầu sanh về Tịnh Độ. Giáo thuyết ấy lấy kim
ngân làm vật ô nhiễm của tâm; lấy tước lộc làm cái khổ hoạn của thân, lấy nữ
sắc chiếc búa chặt mạng sống, lấy ăn ngon mặc sang, nhà cao cửa rộng làm hố hầm
đọa lạc của ba cõi. Chỉ mong thoát khỏi thân người sanh lên 9 phẩm sen, được
thanh tịnh mà dứt hết bẩn nhơ. Nên Ngài quy tụ các nhà trí thức, 18 vị hiền tài
khắc hoa sen, 6 thời lễ tụng, tinh thần khẩn thiết lúc lâm chung (chết) mỗi
người được như sở nguyện. Từ đó về sau lời dạy ấy được tôn trọng. Người tu tịnh
nghiệp sanh về nước Cực Lạc thay thế nhiều người. Song trong đó có danh mà
không thật. Tới mạt Đường người chuyên tâm niệm Phật cũng không phải là ít. Cho
tới ngày nay lòng người đã tệ bạc, tội lỗi ngày càng phát sanh. Tụ tập nhiều
người mạo danh là Liên Xã, dối cầu ăn mặc hay giữa nam nữ có phần phức tạp;
sanh nhiều tệ đoan thường hay xảy ra. Cho nên người trong Liên Xã thà ít không
nên kết nạp nhiều; cho chí việc nam nữ lộn xộn trong cùng tổ chức. Việc như thế
xưa kia chưa từng có; người nữ thường nên phải ở nhà niệm Phật chớ xen lẫn giữa
đàn ông. Tránh tiếng đời gièm pha để hộ trì chánh pháp không thể xem thường.
Dựa theo Tư Tề đại sư trong sách Nghiệp Đường Minh ghi rằng, nhà gọi là tịnh
nghiệp, chỉ nghĩa là gì; chỉ là duy nhất tinh chuyên niệm Phật Di Đà. Tâm chưa
được thuần nhất, nghiệp hẳn là bất tịnh, chỉ mê cùng tán loạn sống ắt nhóm
bịnh. Bọn người như vậy ra khỏi nơi đây nên hợp thời kiểm soát, hoặc cần chăm
hoặc biếng lười. Lười thời phát gắt gõng, cần chăm nên tiến bộ. Nỗ lực một đời
quyết gặp Phật A Di Đà. Ngoài ra ở chùa Tư Phước thuộc Hồng Lũy Sơn tại Bắc
Kinh có Triệt Ngộ thiền sư nói rằng “Tâm hay tạo nghiệp, Nghiệp do tâm tạo,
nghiệp tùy tâm chuyển. Tâm không thể chuyển nghiệp tức bị nghiệp buộc, nghiệp không
tùy tâm chuyển tức là tâm năng buộc”.Tâm có thể chuyển nghiệp, tâm hợp với đạo,
tâm hợp cùng Phật tức là hay chuyển nghiệp. Nghiệp chuyển tâm buộc, tâm nương thường
phận xoay vần tạo ra thọ, tức là nghiệp buộc mọi cảnh giới hiện hữu hết thảy
quả báo đời sau đều chỉ do nghiệp mê lầm. Duy tâm hiện ra, chỉ nghiệp cảm nên,
cho nên cảnh trước mắt, quả báo đời sau đều có nhứt định. Do nghiệp hay buộc
tâm chỉ tâm mới hiện khởi. Cảnh hiện báo về sau đều không nhứt định. Do tâm hay
chuyển nghiệp, nên nếu người đang tạo đúng hay buộc tâm, cảnh hiện hữu về sau
nhứt định đưa tới quả báo mà liền phát tâm quảng đại tu hạnh chân thật. Tâm
cùng Phật hợp, tâm hợp với đạo tâm hay chuyển nghiệp. Tiền cảnh, báo về sau
định nhưng bất định. Lại tâm hay chuyển nghiệp, tiền cảnh hậu báo khi bất định,
nhưng đại tâm bổng lui sụt, việc tu tập kém khuyết nên nghiệp hay buộc tâm, tức
là tiền cảnh, hậu báo bất định mà định. Nhưng nghiệp sẵn tạo đã qua không thể
nại cớ cho là may mắn phát tâm nhưng cơ duyên do ta tạo nghiệp, chuyển nghiệp
mà không do người khác. Như ta phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc hay
quán sát y chánh báo hoặc niệm danh hiệu, niệm niệm tương tục nối luôn không
dứt thời tâm và Phật hợp, hợp rồi lại hợp; hợp đến chỗ chí cực tức tâm hay
chuyển nghiệp mà tiền cảnh của Ta Bà chuyển thành Cực Lạc. Đầu thai quả báo địa
ngục chuyển làm bào thai hoa sen thành người tự tại an lạc cõi Lạc Bang. Nếu
ngay lúc tâm nghĩ gì, tâm hoặc ngẫu nhiên mất thăng bằng hoặc bỗng sanh lui sụt
không hiệp cùng Phật thời nghiệp hay buộc tâm mà tiền cảnh vẫn lưu báo về sau,
vẫn đương nhiên trở lại thọ khổ của chúng sanh. Song ta có chí thoát khỏi cầu
sanh Tịnh Độ có thể thản nhiên mà cảnh giác, phấn chí mà phát tâm.
2.8Qui tắc Phật
thất
Luận về Phật thất
nguyên vì hiểu rõ chu kỳ lẽ sanh tử. Bảy ngày là một kỳ, mỗi ngày 6 thời không
gián đoạn. Ban đầu một thất, 2 thất cho đến 3, 4 thất. Bốn phương thính chúng câu
hội, nhất thời thắng hội rộng khai. Chỉ sợ lười dễ sanh, tinh tấn khó đến, nếu
không ràng buộc lấy gì sách tấn thân tâm. Không có quy tắc lấy gì để người tin kính,
nên cẩn trọng lược ghi những điều qui tắc như sau:
1- Trong 7 ngày
đầu nên buông hết vạn duyên, phải dụng công không dứt, cần yếu là nhứt tâm bất
loạn. Xem như trước mặt là một hội liên trì vậy.
2- Canh 5 nghe
chuông liền thức dậy xuống giường, sau khi rửa mặt xong, tất cả chúng đều vào
điện niệm Phật, không được nằm yên không dậy, lánh nhọc an thân.
3- Sáng mặt
trời đã lên liền dùng cháo. Sau khi dùng cháo xong vào ngay chánh điện niệm
Phật, chờ một cây nhang tàn mới đứng dậy đi kinh hành. Kinh hành mãi đến khi
cây hương còn một tấc trở về chỗ ngồi niệm Phật. Cây hương khác đốt khẩn niệm
hiệu Phật, nghe 3 hồi chuông dứt, đồng loạt nghĩ niệm. Nghỉ giải lao dùng trà
xong, gõ mõ nhỏ khởi sự tiếp tục niệm.
4- Ngồi niệm
tới hương cháy hơn một tấc, hai vị lãnh chúng Đông Tây đứng lên xoay mặt vào
nhau xá một xá, nhìn lên tiến tới đi từ từ lên cầm phan chắc nơi 2 tay bước đi đều,
theo hàng đôi. Giây lát, mõ dẫn 2 hàng người cùng đi, không được đi sai lộn.
Thấy người nào ngà ngật, người cầm phan lớn tiếng niệm Phật đánh thức tĩnh đưa
phan cho người đó cầm. Đương sự liền đi kinh hành, người cầm phan trước bèn
ngồi thế chỗ y. Cứ theo phan, người kinh hành niệm Phật không thể ngủ, và lần
lượt như thế mà nhắc nhỡ nhau. Đến lúc cây nhang còn hơn một tấc, mõ dẫn trở về
chỗ ngồi, phan cũng trở về chỗ. Hai bên đối diện, người cầm phan cắm vào giá
rồi về chỗ, cây nhang vừa cháy hết như trên.
5- Người cầm
phan cần phải xem kỹ nếu thấy mắt nhắm tuy vẫn ngồi ngay, đầu thẳng, miệng niệm
theo chúng. Người này hoặc hơi hôn trầm hoặc đang lúc đắc ý, không nên giao phan,
không nên trao đổi qua lại, nếu đưa phan qua bị phạt. Nếu người đầu hơi cúi gật
mới đưa phan cho cầm
6- Người hôn
trầm thấy phan đưa tới tâm sân nổi lên không tiếp cầm phan bị phạt quỳ một cây
hương.
7- Người cầm
phan trên tay mà tự ý chạy rối loạn hàng ngũ bị phạt
8- Người cầm
phan, thấy có người hôn trầm đáng đưa cho cầm mà không đưa bị phạt
9- Kinh hành
nên đi thứ tự không được rối loạn chen trước lấn sau, nghểnh cổ lắc đầu bị
phạt. Nếu lánh nặng tìm nhẹ mình trần vào phòng, luận bàn tạp nhạp phạt gấp
đôi.
10- Ngoài công
tác ra, trừ việc Phật sự chung, thì giờ trống nên nhiếp tâm niệm Phật. Nếu dụm
đầu lại nói chuyện bị phạt. Nếu lấy cớ có việc đi ra ngoài thả bộ, phát hiện ra
được bị phạt nặng. Giả như có việc chung không đến được nên báo cho lãnh chúng
biết rồi mới đi, ai vi phạm bị phạt.
11- Tàn một cây
nhang xong, ai trực trong ngày rót trà hai bên, chúng tuần tự uống trà. Không
được trà dư đổ hắt ra đất, ai phạm bị phạt. Làm vỡ chén phải đền. Dùng trà xong
mới đứng lên, người nào đứng dậy trước bị phạt.
12- Lúc đi đại
tiện giới hạn một tấc hương, đi tiểu hạn nửa tấc hương. Vô cùng lúc với người
khác không được nói cười giao đầu kề tai nhau, ai phạm phạt quỳ hương
13- Khi tọa
hương cây hương cháy quá hai tấc, Duyệt Chúng phải tuần tra hai bên xem có ai
chưa tới, đem dời bồ đoàn (tọa cụ) ấy tới trước Phật, lúc người đó đến liền
chấp tay quỳ niệm hương xong, nhè nhẹ đứng lên lễ Phật, xoay qua lễ Phương
Trượng, rồi tự cầm bồ đoàn về chỗ ngồi..
14- Người sơ cơ
không ngồi kiết già được có thể ngồi bán già cũng được; cần thiết là phải ngồi
thân ngay thẳng
15- Tiếng niệm
Phật cần phải rõ ràng dứt khoát, không được cao quá, cao thì niệm không lâu
được; cũng không được thấp quá, thấp là bị hôn trầm (ngủ gật), chỉ cần tiếng
phát ra giữa môi và lưỡi; tâm niệm miệng xướng, tai nghe cho chí đứng - nằm -
ngồi luôn luôn giữ một câu niệm A Di Đà Phật. Như thế mới tin được tiếng, tiếng
nhiếp niệm; niệm niệm nhiếp tiếng đó là công phu, lâu ngày tự nhiên trở thành
thuần thục.
16- Trong lúc
tu Phật thất gặp bịnh duyên nên tin tưởng đức Phật A Di Đà là vô thượng y
vương. Nếu cố gắng nỗ lực không rời ma bịnh liền tiêu. Nếu như không thể tiếp
tục được nữa cần phải nghỉ ngơi nên báo cho chủ thất biết, kế đến cho đại chúng
biết. Phải dẹp bồ đoàn rồi mới ra khỏi chỗ. Không được cố kéo dài bịnh dây dưa
làm hỏng tịnh nghiệp. Nếu có việc riêng ra khỏi chùa mà không báo cáo, bị phạt
nặng.
17- Ở trong
chúng hoặc đi tới lui hợm hĩnh, lời nói gây xích mích, sách động loạn chúng,
đuổi khỏi chùa
18- Trong chúng
có lỗi, Duyệt Chúng đưa ra mà không chịu nhận bị phạt; người biết mà không nêu
ra cùng bị phạt.
19- Trong đạo
tràng có người già bịnh nên tìm cách tùy thuận không nên câu nệ quy tắc, như
tùy hỷ niệm Phật; tạm đến rồi đi cũng không có nơi điều quy định này.
20- Dùng cháo
tiểu thực đốt 3 cây nhang, dùng ngọ trai đốt 4 cây. Tụng thời kinh Tịnh Độ, lễ
12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng Bồ Tát mỗi vị 3 lạy. Ba tự quy,
lạy Tổ xong, uống trà, nghỉ giải lao xong đi kinh hành niệm Phật. Niệm 1000 lần
hay quy định theo giờ giấc 15 phút, 30 phút hoặc 45 phút hoặc một tiếng đồng hồ
xong trở lại hồi hướng.
Mỗi người về
chỗ nghỉ ngơi, thầm niệm Phật rồi đi ngủ đúng theo thời biểu qui định không nên
sai trái.
21- Đêm thứ 7
hoàn mãn phần hồi hướng, niệm Sám Văn Tây Phương; quỳ niệm Phật, Bồ Tát, Tự quy
y xong, lui ra lễ Tổ. Đại chúng tới phòng Phương Trượng đảnh lễ 3 lạy và chờ
Ngài khai thị xong, lễ tạ xong mỗi người tự lui về chỗ. Mỗi khi mãn thất, học
chúng đi, đứng, nằm, ngồi đều thầm niệm Phật, kỵ nhất là bàn nhãm nói tạp; 2
thất, 3 thất đều áp dụng như thế.
22- Lấy trong
Nội Quy mà nói phạt đều là phạt quỳ hương niệm Phật. Do vì nhân địa mà ngã
xuống, trở lại nhân địa mà đứng dậy. Chỉ nên một lần ngã mà đứng dậy chứ không
nên vụt đứng vụt ngã, tự sai lầm không nhỏ vậy.
Trụ trì… cẩn
sao lục.
Ngày… tháng…
năm…
Chứng nghĩa ghi
rằng, qui tắc tu tịnh nghiệp cùng Nội Qui Phật thất, tuy phân hai nhưng chú mục
cảnh sách, đại bộ thật ra không có khác nhau. Phật thất thời gia công hành trì.
Tư Tề đại sư nói rằng: “niệm Phật không là điều khó, khó là ở chỗ nhất tâm.
Nhứt tâm cũng không khó, khó ở chỗ dứt gốc ái”. Nên quán thân thể nầy bẩn hôi
khó mà nói hết được, trong ngoài và ở giữa không có một vật nào trong sạch cả.
Cái thân này đã như vậy, thân khác cũng như thế; che dấu ác tâm thâm căn, cẩn
thận chớ sanh tham đắm. Nên quán cõi Cực Lạc thuần là hoa sen sanh, không gá thai
của cha mẹ nên thọ mạng vô cùng thanh tịnh.
Lúc nhứt tâm
niệm Phật, hoa sen liền hóa sanh, nếu người niệm không gián đoạn quyết định
được vãng sanh nước An Dưỡng. Lại nói rằng, Nam Mô A Di Đà người nào mà chẳng
niệm được. Nếu niệm không cảm ứng như mẹ con khó gặp nhau. Đi, đứng và ngồi,
nằm luôn phải buộc cột tâm niệm niệm tiếp nối liên tục, niệm đạt thành một
khối. Niệm Di Đà như thế, Di Đà tự hiện đến, quyết định sanh Tây Phương, trọn đời
không thoái chuyển.
2.9Phụ: sớ hồi
hướng Phật thất
Tấu vì: mắt biếc
rỡ ràng, thấy sen xanh hàng cây la liệt. Hào quang uyển chuyển, trời người vui
hưởng ánh trăng đầy. Bốn tám nguyện mở bày sâu rộng, tiếp độ đều mà chẳng nói
không, độ hằng hà sa chúng ngu mông (muội). Niệm 10 niệm mà vãng sanh xong,
nhiệm mầu ứng hiện vô song, lòng từ che phủ bao dung.
Nay có Phật
thất dâng sớ văn hoàn tất, đối trước Phật xướng tuyên công đức. Ngưỡng mong oai
đức từ bi, rủ thương chứng tri.
Đọc tại chùa …
thành phố… Vâng lời di giáo Thích Ca Như Lai mở khóa tu tịnh nghiệp này. Pháp
sự Sa Môn …cúng Phật và cúng các bậc hiền Thánh, tạo nên Phật thất.
Trụ trì Tỳ kheo
…
Đạo tràng Phật
thất có … chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… vị.
Hôm nay cúi đầu
niệm hương, nhất tâm đảnh lễ Thánh chủ hai cõi Di Đà, Thích Ca, Quan Âm, Thế Chí
các bậc đại Thánh hiền trên tòa kim liên. Đoái mong cảm thông cho việc làm của chúng
con. Nhân vì chúng con thân mạng chẳng đồng song tâm niệm vẫn một. Tự nghĩ rằng
sanh ra nhằm đời mạt pháp trôi nổi trong sóng dục mãi quên về, cách Thánh càng
xa, cận ánh từ quang mà khó thấy. Bèn nương tòng lâm mở bày Phật thất trong
vòng 7 ngày dụng công tu tập, nguyện nhất tâm bất loạn, quyết định chọn ngày …
tháng… đến ngày… kết thất. Mời thỉnh bốn chúng câu hội về bổn tự trì niệm hiệu
Phật A Di Đà muôn đức hồng danh trong 7 ngày đêm.
Lại nguyện: lời
kinh lan ra khắp xứ trừ sạch căn trần. Lúc niệm hiệu Phật tăng phước huệ, dù
tăng, dù tục đều kết nên nhân của chín phẩm, hoặc nữ hoặc nam cùng hẹn đạt quả
nơi ba bực (thượng, trung, hạ) mong được như vậy. Ngưỡng mong từ bi nhiếp thọ.
Văn sớ đã tỏ
bày trên nguyện Tam Bảo chứng minh.
Văn sớ hồi
hướng (kết thúc) Phật thất.
Ngày… Tháng…
Năm….
Trụ trì … dâng
sớ.
Chứng nghĩa ghi
rằng theo sách Trùng đính Tây Phương công cứ rằng: vào rằm tháng 5 năm thứ 53
đời Càn Long, Lục Cận Đường tại Tô Châu, giáng đàn bảo các con rằng, có một
biến cố rất là quan trọng mọi người không thể nào chạy trốn thoát, người người
đều phải tử vong, các con có biết không? Hiện tại chúng ta bốn đại nhẹ nhàng,
tinh thần khoẻ mạnh, chưa từng nghĩ một sớm nằm trên giường bệnh hồn phách ly
tan không biết đâu là đâu không nhận ra đông tây, chẳng phân được nam bắc.
Đường trước mờ mờ tơ hào không nắm được, theo nghiệp xoay vần phải thọ khổ vô
cùng. Chỉ có khi còn mạnh khỏe lo tu tịnh nghiệp, đến lúc chợt thấy Phật tới
tiếp dẫn sanh trong hoa sen thọ mọi điều vui, sống lâu vô cùng. Các con có chí
về đạo này nên ta giảng ba môn tín, hạnh, nguyện. Tín là tin có cõi Tây Phương Tịnh
Độ, cũng như tin cõi Ta Bà là có thật thời Tịnh Độ đâu không phải là thật hữu.
Cùng trong viên minh giác hải khởi niệm là đến, cũng giống như cùng một xứ cùng
một thành, cất bước là tới ngay. Đã tin cõi Tịnh Độ quyết định hẳn đến. Lại nên
tin pháp môn niệm Phật như mặc áo, ăn cơm; mặc áo chống lạnh, ăn cơm trừ đói,
niệm Phật khỏi sanh tử. Nay tin, mai không tin chưa gọi là chân tín mà phải tin
hết lòng. Một niệm bổng nhiên không tin chưa gọi là chân tín. Từ nay trở đi cho
tới khi chết một lòng tin ráo riết không một tơ hào nghi hoặc mới là chân tín
(tin thật).
Đã tin có cõi
Tây Phương, lại tin có pháp môn niệm Phật. Nói suông lời tán dương có ích gì
cho việc sanh tử? Cho nên phàm người phát lòng tin phải nên theo đúng lời dạy
thực hành. Ngày nay tin liền thực hành hôm nay, ngày mai tin liền thực hành
ngày mai, cho chí mong từng chữ thật là khẩn thiết. Thế gian tin Phật niệm Phật
cũng không thiếu chi người, nhưng hoặc vì họ mong hiện đời này giàu có hoặc cầu
đời sau được phước thọ (sống lâu), được làm thân người không bị đọa lạc. Đây là
trái với ý chỉ Phật dạy. Phật dạy ta thoát khỏi sanh tử, ta lại men vào sanh
tử. Phật dạy ta sanh về Cực Lạc, ta lại bám víu Ta Bà. Một đời tin niệm phó cho
đông hải cũng như làm ruộng gieo giống xong bèn chờ hạt nẫy mầm, có đúng không?
Cho nên người phát tâm tin chân chánh nên hành hạnh chân. Hành hạnh chân nên phát
nguyện tha thiết, trọn đời nầy quyết định không sanh lên cõi trời hay cõi
người, ắt hẳn cần sanh cõi Tây Phương Tịnh Độ. Niệm Phật như thế mới tùy thuận
lời Phật dạy, không đến nổi luống uổng thời gian. Các con nên cố gắng lên!
2.10
Phân từng khu phố (khất thực)
Y cứ khi Phật còn
tại thế chư Tăng ban ngày phân ban đi khất thực. Ở Đông độ chưa tuân theo qui
định này. Nên tòng lâm hoặc có ruộng vườn làm của hoặc thâu nhận của tín thí
cúng dường. Mỗi tiết đông, tiết hạ hoặc gặp năm mất mùa, Trụ Trì đốc suất chúng
đi khất thực một lần. Lúc đi khất thực, tri khách, Duy Na, Giám viện đồng tới phòng
Phương Trượng để qui định ngày họp chúng sáng hoặc chiều. Sau khi nghe hai hồi
bảng, Phương Trượng sai thị giả đi mời chúng tới trai đường bàn việc đi hoá
duyên (hoá trai). Tới ngày ấn định, nghe hiệu lệnh đại chúng đắp y vân tập Phật
điện chờ ra khỏi chùa đi khất thực. Tri khách mời Phương Trượng niệm hương, Duy
Na cử bài tán hương. Phương Trượng lễ Phật xong, Duyệt chúng nhịp khánh, đại chúng
đồng niệm Phật 3 lần. Thủ chúng cầm tích trượng đi trước, chúng thứ tự mà đi.
Thị giả bưng bát đi kế bên Phương Trượng, nhận đồ cúng đưa thị giả bỏ vô bát.
Tri khách chia 2 bên phố đi khất thực, chư tăng hàng một đi chậm rãi, có oai
nghi trật tự. Đứng cho ngay ngắn, đi phải cho đều không được so le, nếu muốn đi
tiểu trước phải giải y gởi cho người đồng hành. Chọn chỗ kín tiểu giải xong,
rửa tay sạch sẽ liền theo chúng đắp y nhập đoàn. Nếu gặp thí chủ mời uống trà
hoặc dùng ngọ trai tới chỗ thọ thực, cần phải giữ oai nghi phép tắc, khiến
người ta thấy đem tâm cung kính, phát lòng hoan hỷ. Cho đến khi trở về chùa
phải đến chánh điện đứng theo thứ tự thường lệ. Duy Na nhịp khánh, đại chúng
đồng tụng bài tán hương, Phương Trượng lạy Phật. Đại chúng cùng lạy Phật 3 lạy rồi
ngồi vào bàn thọ trai. Tối hôm đó, đại chúng dùng cơm thừa trong ngày. Mấy việc
vừa nêu trên cần phải biết. Mang vác gạo thóc về chùa, Giám viện giao qua tri
khố, kiểm điểm số lượng nhập vào kho, trình báo cho Trụ Trì biết và yết bảng
báo cáo với đại chúng. Việc này liên quan tới huệ mạng chư Tăng. Đi đường ban
chức sự phải giám sát (xem xét) không để xảy việc đáng tiếc. Do lầm nhân quả ăn
của thường trụ (Tam Bảo) liền phải trả ngay.
- Chứng nghĩa
ghi rằng, phân bố theo Tây Vức tại mỗi chùa chư Tăng đông không thể nào một gia
đình cúng nổi; đi khất thực tùy khả năng thí chủ cho nhiều ít mà phân tán ra,
cho nên gọi là phân vệ, tức phân theo khu phố.
Nghĩa của khất
thực xem chương mở đầu phần chứng nghĩa về thâu nhận đồ cúng có nói rõ. Vì Phật
bậc Năng Nhân xuất thế dạy chúng Thích Tử không chứa vật thừa để đắm tâm tham,
ngăn phòng đạo nghiệp. Chỉ giữ một bình bát tùy thân, 3 y mặc trên người, gặp
mỗi lúc cần thực phẩm đi đến nhà chúng đệ tử tại gia khất thực. Không chọn giàu
nghèo, sang hèn mà đi khất thực bình đẳng. Đây là cung cách đi khất thực của
đức Phật vậy. Ngài Tiêu Sơn Tánh Hải nói rằng, giới của Tỳ Kheo lấy 4 việc xả
bỏ, 4 pháp nương tựa làm gốc. Bốn việc xả bỏ là giới đương giữ, 4 pháp nương
tựa là chỗ đang ở chùa viện, đó là 4 nơi nương tựa: 1) ngày thứ nhứt thường đi
khất thực, ngày thứ nhì giặt giũ y phục, ngày thứ ba ngồi dưới gốc cây tại lan nhã
(vắng lặng), ngày thứ tư có bịnh lấy thuốc thục trị liệu; không đi khất thực
đều mắc vào tà mạng để sống. Kinh Quyết Hậu Niết Bàn ghi, 4 vị tăng trở lên
cùng ở chung được nhận 8 món đồ bất tịnh thời bửa ăn tăng tịnh thực có thể miễn
đi khất thực. Cùng ở chung già lam (chùa) chúng có thể khỏi ngồi dưới cây, thí
chủ cúng thức ăn có thể miễn trét phân; cúng thuốc men thường miển lấy thuốc củ
nát, thời 4 nơi nương tựa đều mở cho. Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng, hồi
Phật tại thế phân bố đi khất thực là theo đúng gia phong vậy. Tòng Lâm Đông Độ không
thể làm theo không phải dám phế bỏ mà cũng do hoàn cảnh khiến như vậy. Luận về
thành thị ô hợp nam nữ tụ hội; chỗ núi non vắng vẽ là nơi tịnh tu của người
xuất gia, phân tán đó là được, hợp đó là rối loạn. Hơn nữa ở trong chúng rồng
rắn lẫn lộn dễ sanh sự làm mất thanh danh. Cho nên các bậc tôn túc xưa mỗi vị ở
nơi hang lạnh dứt tiếp xúc; cày ruộng bừa đất, ngày ăn một bửa nuôi thân. Không
có vọng tưởng khác tức bỏ thành thị ở Tòng lâm, cũng phải lo chuyện đi quyên
giáo; không để đại chúng suốt ngày bươn chãi mà bỏ phế đạo nghiệp. Tuy không
phải Phật dạy, cũng phù hợp tâm Phật là mỗi năm đi khất thực một lần cũng còn
giữ được mẫu mực mà theo. Nếu là du tăng đi khất thực đúng ra không đi đơn độc
một mình. Tôi, Nghi Nhuận nói rằng, trụ trì tòng lâm tôn trọng điều Phật dạy
thường đi khất thực. Ở đây đưa ra một việc để nêu lên những việc khác. Vua
Khang Hy nói Nam Nguyên Tín thiền sư ở chùa Tây Phương tại Duy Dương, lãnh
chúng 30 năm, không lên yết kiến, chẳng chúc mừng không làm việc thế gian. Ngài
chỉ lấy đạo làm chính, mùa đông, mùa hạ một tấm áo nạp; lạnh nóng chỉ một bình
bát, khất thực bình đẳng; noi theo đó làm việc thường, sống thọ ngoài 70 tuổi,
do chưa hề một ngày biếng lười. Trừ sách ngữ lục ra, còn có một quyển thi kệ
hành cước. Nay chép ra mười bài cho người sau học hỏi. Luận về nghi thức của
Phật trước đây có kệ rằng:
1- Phật xưa có
dạy ôm bình bát
Ngày nay bắt
chước chẳng hai cơ
Đạo vốn Không
ai người thừa kế
Trăng dọi đáy
hồ sóng hoa rơi
2- Cắt tóc, đắp
y chẳng nệ hà
Sống đời khất
sĩ hạnh cao xa
Bịnh suy tâm
thoái nay tuổi già
Chín đĩnh dây
tơ mỏi vọng vào…
3- Khất thực tự
nhiên sống thanh bần
Đội trời, đạp
đất không nhiễm trần
Bình bát hiện
hoa chẳng phải sành
Trước mắt trông
người thật tín thành.
4- Thẹn vì
phước mỏng tài năng mọn
Một bát trọn
đời thêm chẳng thuận
Bé mọn tùy
duyên an giữ phận
Hiểu rõ kiếp
không ấy trường xuân.
5- Đường dài
bình bát chẳng ai thân
Động tĩnh hữu
vô khắp xa gần
Giàu có tùy
duyên nhờ rải phước
Công thành quả
mãn được thi ân.
6- Trọn đời chớ
bảo trì bát chăm
Hạt gạo làm
tiêu kiếp đói thầm
Chợ búa lánh xa
trần vắng lặng
An nhàn vui
hưởng giữa thế nhân.
7- Khất thực
trên đời đâu nhọc lao
Tiêu tán cống
cao ngã mạn nhào
Sự tạp, lý
thanh lọc trì bình
Gia phong
nguyện lực hạnh thanh cao.
8- Chợ sớm nhao
nhao lẳng tựa dầu
Vui trong khất
thực để quên sầu
Xiển dương lời
Phật không chi khác
Trừ sạch chướng
ma dứt ác mau.
9- Khất thực
trí cao rộng ươm mầm
Viện đình việc
đáng phải kiên tâm
Chẳng y từ lực
vung ba cõi
Ai tin tông Tổ
đạo cao thâm.
10- Trí huệ
chưa từng riêng lại qua
Một bát dứt
nghi truyền pháp gia
Biết rõ não
phiền đà dứt sạch
Nhập định không
sai ấy chính ta.
Hỏi: đi khất
thực không cần tham thiền ư?
- Đáp: đúng nhờ
tham thiền để biểu hiện nghi khất thực đâu có gì trở ngại chứ? Xưa đức Thế Tôn
một hôm dạy A Nan rằng: giờ khất thực sắp đến con nên vào thành trì bát. A Nan
vâng dạ.
- Phật bảo: con
đã trì bát, nên theo nghi thức của 7 vị Phật quá khứ.
- A Nan bèn
hỏi: nghi thức của 7 vị Phật quá khứ như thế nào?
- Phật bảo A
Nan: A Nan phải vâng lời.
- Thế Tôn
nói:bưng bát đi đi!
Căn cứ theo
đây, Phật lấy thiền cơ làm nghi thức khất thực thật rõ sáng tỏ.
Ngày nay người
có ý chí đối với đạo, nên đi khất thực, thật quả đã tin lời dạy giữ thực hành,
nghi thức giống thời Phật, tại sao trở ngại việc tham thiền?
2.11
Lượm được vật rơi
- Tăng chúng lượm
được vật rơi liền thưa Giám Viện biết lấy để giữ trong kho. Niêm yết bảng 2 chữ
vật rơi để tiện làm cho người mất đồ biết tới nhận lại. Nếu người lượm được đồ
mà không cho vào kho bị phạt nặng đuổi khỏi viện.
Người mất đồ
dán giấy, trên giấy (phiếu) viết: tôi tên là … vào giờ .. . ngày…tháng…năm…
đánh mất món…
Nếu ai thấy
lượm được đem lại xem kỹ rồi hoàn lại. Nếu mạo nhận (nhận gian) bị phạt nặng
đuổi khỏi viện.
-Chứng nghĩa
ghi rằng, nhặt vật rơi như tình cờ có một vật bỏ rơi đưa cho vào kho tạm giữ
một thời gian không phải cất dấu lâu dài. Xưa nay tòng lâm sau 2 bên trai đường
(nhà ăn) có bảng thường niêm yết 2 chữ vật rơi, chữ lớn. Đôi khi phải đổi dán 2
chữ khác cho đúng. Bởi vì Phật chế giới trộm cắp dù một cọng cỏ, một trái ớt
không cho thời không được lấy. Nếu lượm vật rơi đem cất giấu, tức là của không
cho mà lấy cũng phạm giới ăn trộm; vì trưởng dưỡng lòng tham trái lời Phật dạy.
Người quân tử
đạo Nho còn không giữ vật phi nghĩa, huống gì ông tăng cất giữ vật rơi để
trưởng dưỡng lòng tham ư? Vì thế, cho vật lượm được đem vô kho rồi niêm yết làm
cho người biết tới nhận lại. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng, đời Tùy có vị
tăng giàu có tới tá túc ở chùa Tịnh Đức tại Ích Châu. Ban ngày ra ngồi bên
đường đọc kinh, mọi người truyền đồn là người giải thoát. Lúc bấy giờ tại Lăng
Châu có quan thích lại Triệu Trọng Thơ nghe tin nên tới thử, bèn cưỡi ngựa đi
qua. Ông ta giả vờ đánh rơi xâu tiền, vị tăng ngồi đọc kinh tự nhiên chưa hề
thấy gì. Đi một đoạn xa. Thơ sai người lại lấy tiền, tăng cũng vẫn không nhìn.
Ngay lúc đó Thơ quay lại hỏi vị tăng rằng:
- Xâu tiền dưới
đất, thấy có người lấy đi sao không nhận lại giùm?
- Không phải
vật của bần đạo dối nhận làm gì?
Thơ xuống ngựa
làm lễ, thán phục rồi đi …
2.12
Phụ: Qui tắc nơi tĩnh hành đường
Tĩnh Hành Đường
cũng gọi là Niết Bàn đường. Ấn Độ gọi là vô thường đường. Người đời gọi là bệnh
xá, qui tắc chung gồm 15 điều lập nên khu nhà nầy để cho người bịnh. Vì chúng
sanh tham đắm tới chết vẫn không biết. Phật dạy dời đổi chỗ khiến cho ta biết
vô thường, sắp đến, làm cho tâm niệm phấn khởi, tĩnh táo vượt qua mà lo gấp tu
hành. Xử dụng nhà này nên nghĩ đến thân mạng vô thường nhanh như hơi thở. Người
khỏe mạnh còn thế huống gì người bịnh ư?
Lại phải quán
thân này bốn đại không điều hòa, trăm đốt muốn rã rời; ăn uống giảm dần, thuốc
thang hết hiệu quả. Tiểu tiện ra trên giường, rên rỉ nằm liệt chiếu, như cá bơi
trong chảo dầu bỗng chốc bị nóng bỏng. Như đèn trước gió, trong tích tắc tắt
ngúm. Nên biết thân này không tồn tại lâu, hẳn phó thác cho tử thần. Đường
trước mờ mờ chưa biết về đâu. Nếu việc gì chưa xong làm cho xong cố giữ tâm
không cho vướng bận. Người nào chưa được như thế sớm cầu Tịnh Độ quyết định
vãng sanh phải buông hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật có những điều riêng như
sau đây:
1- Trong nhà
một giường rộng (đôi) dành cho người bịnh nhẹ. Giường chiếc cho người bịnh
nặng. Nếu dùng lộn xộn bị phạt
2- Người bịnh
nên kéo màng lại để tránh gió, che mùi hôi hám. Nếu người không quen, bị rét
khó trị, nên buông màng xem xét bịnh nhân
3- Người bịnh
nặng vào nhà tịnh dưỡng, trước bàn Phật chuẩn bị hương đèn. Giám Viện, Thư Ký,
Duy Na … theo sau đưa vào. Đọc lời trăn trối của bịnh nhân liền viết ra trên
giấy, chẳng chịu viết tùy theo sự tăng giảm của người bịnh, bị phạt. Bịnh nhân
nếu không muốn viết, và không chịu nằm giường; nếu bịnh nhẹ không cần phải viết
giấy (di chúc). Chỉ tới trước Phật đốt hương đèn rồi Giám Viện đưa vào nằm.
4- Người trách
nhiệm tĩnh hành đường (bệnh xá) phải khỏe mạnh, lấy lòng từ làm chính ghi sổ
ngày … tháng … năm nào có ai vào nhập bịnh xá. Sau ghi ngày, tháng và năm xuất viện.
Nếu quên ghi bị phạt.
5- Trong bệnh
xá nên tùy thời rưới quét sạch sẽ. Quần áo bệnh nhân nên hợp thời giặt phơi.
Thuốc thang cần lưu tâm châm chế không được lơ là biếng trể
6- Người bịnh
trong phòng chỉ một hay hai, Thầy hương đăng lo chăm sóc. Như nhiều phải mời
thêm người phát tâm săn sóc bịnh. Nếu 3 lần mời không được người nào, chiếu việc
trong liêu luân phiên chăm sóc, ba ngày đổi một phiên; hoặc bịnh nhân muốn bỏ
tiền thuê người giúp, nên chấp thuận.
7- Trong chúng
có bác sĩ (thầy thuốc) nên đứng trong ban Điều Hành. Người chưa am tường mà
nhận trị bịnh bị phạt. Làm hại người bị đuổi khỏi viện; tham lợi đều bị đuổi.
8- Người bịnh
cần thuốc thang, ăn uống, Tri khố, Tri ẩm thực, Điển tòa lo thuốc men, thức ăn
uống đem cho, không cấp cho bị phạt. Nếu cái đáng cho mà không cho, trước chúng
biện minh, nếu ai tự ý bạc đãi bất công bị phạt.
9- Người bịnh
nặng nhập bệnh xá cần phải phó thác việc tang nghi, buông bỏ hết mọi duyên,
nhất tâm niệm Phật. Lại chăm sóc người bịnh nặng phải 2, 3 người luân phiên
ngày đêm không rời. Hễ có việc ra ngoài cũng miển. Nếu sắp lâm chung liền báo
nhà khách, tri khách cắt đặt ngay một số người tới niệm Phật cho tới lúc đi
luôn. Theo Đại Tạng kinh Vô thường, lúc lâm chung nên có biện pháp lo liệu.
10- Tuân lời
Phật dạy, vị tăng tịch nên thay quần áo sạch. Lúc nhập quan, khi trà tỳ
(thiêu), nhập tháp đều đọc chú Tỳ Lư rải cát bên trong. Không được quên rải cát
này. Nên mời thỉnh các bậc cao tăng trì chú nhiều nhiều càng thêm mầu nhiệm; ít
nhất cũng niệm được 1080 biến chú này: Án a mộ già, phế lỗ giả na. Ma ha mẫu
nại la mạ nê. Bát Đầu ma, nhập phược ra. Ba la dã đa dạ hồng. Căn cứ theo kinh
văn đem cát tán sa đặc này, đặt lên thi thể người mất được lợi ích không thể
nghĩ bàn
11- Người bịnh
nhẹ nên ngồi yên niệm Phật. Nếu không tôn trọng ra ngoài đi dạo gây nhiều rắc
rối cho ra khỏi phòng.
12- Người trách
nhiệm bệnh xá và người chăm sóc bệnh nhân chớ hiềm ghét dơ dáy, đừng làm trái ý
bệnh nhân càng làm gia tăng bịnh, chớ rời giường bịnh lâu khiến người bịnh cần
không đáp ứng kịp. Nếu có tâm tham hoặc để ý muốn của cải nên cho, làm khó thời
người bịnh phiền não, cũng đừng nổi sân. Chỉ nhiếp tâm tạo phước, đừng tham của
người bịnh đáp tạ lễ. Nên biết rằng trong 8 loại phước điền chăm sóc bịnh nhân
là số một, nên tích cực làm việc tận tình.
13- Phàm người
bịnh nặng mỗi lần có mồ hôi xông lên nên dùng khẩu trang che miệng hay lá thuốc
cứu xông, lá tùng bách đốt v.v… Dùng lửa nhỏ ngọn xông khói, không làm phương hại
tới người khác.
14- Tăng du
phương và tăng ở xa tới mà bị bịnh. Tri khách hỏi lai lịch rõ ràng mới nhận,
liền viết tờ chi tiết, ghi sổ v.v…
15- Đám tang vị
tăng bắt đầu từ bịnh nặng cho đến khi chết, cuối cùng đặt nơi Tổ đường. Xem
chương Trụ Trì phần đăng vị ở trước. Lược bớt gia giảm châm chước mà dùng.
Ngày … tháng…
năm….
Trụ trì … cẩn
lục.
-Chứng nghĩa
ghi rằng, xưa có cư sĩ Việt Nhiên Triệu Linh Căng chọn chùa Pháp Luân tại núi
Nam Nhạc, Tĩnh Hành Đường ghi rằng: thường trong các thứ khổ, bịnh khổ là sâu
nhất; trong các loại phước săn sóc bịnh là phước hơn cả. Vì thế cổ nhân lấy có
bịnh làm thiện tri thức; nhắc người lấy săn sóc bịnh làm phước điền. Nay ở tòng
lâm có người bịnh phải đưa tới Tĩnh Hành Đường; không những ở đó tu tĩnh cải
nghiệp để bịnh lành mà cũng muốn người (bịnh) ban đêm yên tỉnh một mình có dịp
suy gẫm đại sự, đâu có luống phí chứ? Đã theo lệnh đường chủ săn sóc thuốc thang,
lại nhắc nhở thường trụ cung cấp đầy đủ nhu cầu cho người bịnh. Đây là qui tắc
của đức Phật trước kia, đời nay không được như vậy, người bịnh không tự xét soi
lỗi lầm càng làm gia tăng thêm phiền não. Đường chủ chỉ còn cái danh mà sự thật
là hư giả, hay trái lại dấu sự hiềm hận; của Tam Bảo nên cung cấp hằng ngày còn
hơn là phó mặc bỏ bê không an ủi. Bịnh nhẹ do vậy trở thành nặng, bịnh nặng đưa
tới cái chết không đáng thương sao! Cho nên những vị chức sự chúng thường trụ
phải biết săn sóc bịnh là phước điền mà từ bi tìm cách giúp đỡ, để trừ dứt bịnh
khổ và trở lại hồi phục. Người bịnh phải biết rõ nhân quả, tĩnh táo nhận ra tội
lỗi, có tâm hối hận ăn năn tức là cơ hội lành mạnh. Tâm đã trong sạch, bịnh
cũng tự trừ. Như có bị nhức đầu nóng trán, kêu khổ thầm lặng suy tư thọ bịnh là
ai? Đã không thấy người, bịnh từ đâu đến? Người - bịnh cả hai đều quên còn có
vật nào khác giúp thấy rõ phân minh; nhìn đúng như thế là bịnh kia chấm dứt.
Lại trong qui tắc, vị tăng mất đọc chú Tỳ Lô tán sa như kinh ghi rằng, đem chân
ngôn này chú nguyện (gia trì) trong đất cát rải trên người chết và rải nơi tháp
mộ người chết ấy, nếu ở ác thú hợp thời liền được ánh sáng và thân thể, trừ
diệt được các tội báo làm cho thân khổ được sanh về nước Cực Lạc v.v…
2.13
Phụ: săn sóc người bịnh
Luật Tứ Phần, Phật
dạy: từ đây tới lúc chết nên săn sóc bịnh nhân, phải cần chăm nom người bịnh.
Nếu muốn cúng dường Ta, trước hết nên cúng dường người bịnh, cho chí đi trên
đường gặp lúc chúng xuất gia, có người bịnh; Phật dạy 7 chúng đều đứng lại chăm
sóc. Nếu bỏ đi không săn sóc người bịnh đều qui kết có tội. Đúng là tứ đại (thân:
đất - nước – gió - lửa) khó điều hòa; túc nghiệp khó tiêu trừ. Người xả tục
xuất gia, cô thân độc ảnh nghèo, bịnh nối nhau, không người hầu cận. Nếu không
được chăm sóc bịnh nhân, mạng sắp an nghỉ (dứt). Lại Tăng Kỳ Luật ghi rằng, đi
đường gặp chúng xuất gia có người bịnh liền phải kêu xe chuyên chở (tới bệnh
viện) cúng dường đúng pháp. Nhẫn đến lúc chết cũng phải lo tẩn liệm, mai táng
không được bỏ bê. Phàm người săn sóc bịnh luôn phải nói lời êm nhẹ, đừng dùng
lời thô ác. Đến lúc lâm chung phần nhiều những ác nghiệp đều hiện ra không thể
lập tức trừ dứt được. Cho nên người chăm sóc bịnh nhân nên biết dùng phương
tiện đặc biệt khéo léo nói lời an ủi khuyên người ấy niệm Phật. Nếu không niệm
lớn được thời chỉ thầm niệm và làm cho niệm niệm nối tiếp nhau một tích tắc
không ngừng. Thừa phước lực này mà làm nhân vãng sanh Tịnh Độ. Luận Đại Trí Độ
ghi rằng, từ lúc sanh ra làm thiện đến lúc lâm chung ác niệm khởi, bèn sanh nơi
ác đạo. Từ lúc sanh tạo ác đến lúc lâm chung khởi niệm thiện mà được sanh lên
cõi trời. Nên đưa kinh tượng tới chỗ người bịnh (như kinh Di Đà, tượng hoặc
hình Phật A Di Đà, Quan Âm) ghi rõ tên kinh, tên tượng nói với người bịnh khiến
mở mắt xem thấy để được tĩnh táo. Chăm sóc người bịnh như thế, công đức rất lớn
vậy.
-Chứng nghĩa
ghi rằng y cứ trong kinh tạng, Phật thuyết Sanh kinh, chương tật bịnh 26 ghi
rằng, tại vườn ông Cấp Cô Độc có một vị Tỳ Kheo bị bịnh sống riêng một mình,
không có thức ăn, thuốc thang, không đứng dậy nổi. Tiểu giải tiết ra, người
bịnh nằm liệt trên giường nhìn quanh tứ phía không một ai đến giúp đỡ cả. Lúc
bấy giờ Ngài A Nan trông thấy tới bạch Phật. Phật đích thân tới chỗ vị Tỳ Kheo
bịnh và hỏi rằng:
- Nay con bịnh
có cần xem xét thuốc thang, giường cụ gì không?
Vị Tỳ Kheo bịnh
bạch Phật rằng:
- Con có một
mình không người chăm sóc, không có đồ ăn uống, thuốc men; và nhà con cũng rất
xa.
Phật hỏi: khi
mạnh khỏe con gặp người bịnh có thăm hỏi an ủi không?
- Bạch Phật
không.
Phật bảo: khi
mạnh con không săn sóc người, không thăm nom an ủi người bịnh, ai phải chăm sóc
con đây?
Thiện ác có
đối, tội phước có báo. Ân sanh thành đền đáp lại, nghĩa tuyệt lơ là. Phật đỡ
ngồi dậy muốn lấy nước tắm rửa Tỳ Kheo; lúc đó có Thiên Đế tắm thay Phật. Phật hỏi
ông ở thiên thượng nơi thơm tốt sạch sẽ, có thể nhẫn giúp tắm rửa bẩn thỉu cho
người bịnh không?
- Thiên Đế đáp:
Phật là thầy cứu giúp hết thảy chúng sanh 10 phương công đức tràn đầy mà còn
chăm sóc bịnh nhơn, huống chi tôi tội phước chưa dứt mà không tạo thêm phước
sao?
Lúc đó Phật rửa
tay, Thiên Đế xối nước tắm rửa sạch, bịnh nhơn nằm lại và uống thuốc thang tức
thời lành bịnh. Phật vì đó nói kinh liền lúc đó vị Tỳ Kheo chứng quả (A La Hán).
Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Nên chăm sóc
bịnh nhân
An ủi và hỏi
thăm
Thiện ác có báo
ứng
Trồng cây kết
trái khăm.
Lại nữa, sách
Thiền Lâm Bảo Huấn ghi câu chuyện rằng, xưa có Cao Am ở với Vân Cư nghe đệ tử
bịnh đưa tới Tĩnh Hành Đường than thở rằng, nếu ta ra đời sớm chiều có người hầu
hạ, thậm chí co thân, đun nước, chưa từng chẳng cho ăn uống, hoặc gặp tiết trời
hơi lạnh được vỗ về, an ủi hỏi han áo, có đủ ấm không? Hoặc gặp lúc trời nóng,
quan sát gương mặt hỏi: có nóng quá không nhỉ? Không may chẳng được ai giúp,
không hỏi người có hay không có chúng thường trụ tận tâm giúp đỡ hoặc người
trách nhiệm hoặc người khác. Cao Am quát nói:
-Xưa Bách
Trượng vì ông già bịnh mà lập chúng săn sóc, các ông không bịnh, không chết hay
sao?
Ngài Vân Thê
Liên Trì nói rằng, trong kinh gọi 8 loại phước điền, săn sóc bịnh là phước điền
số một, đâu chẳng vì Người tu không nhà, cô thân hồ hải, phiêu lưu bịnh khổ
thật đáng thương xót! Làm chủ tăng phường mà bịnh không ai lo cho ta, chết
không ai chôn, đâu là đạo từ bi chứ? Chính vì thế Trụ trì nên cố gắng để khuyên
người giúp đỡ người lâm bịnh.
2.14
Văn Cảnh tỉnh đại chúng
Đại
sư Từ Giác, Trách Công thuật:
Kết tập Thanh
Quy là nền tảng của đại chúng mà trong 8 môn đều từ đây phát sanh. Cho nên ở
quyển cuối này đưa ra nghĩa tổng quát. Luận về hai cây quế rủ che bóng, một cây
trổ hoa thơm ngát, từ hồi tòng lâm thiết lập, điều chính yếu là chúng tăng. Là
vì khai thị chúng tăng nên có trưởng lão để làm biểu tượng cho chư tăng, có Thủ
tọa gánh vác việc chư tăng, có Giám viện điều hòa chúng tăng; có Duy Na cúng dường
chư tăng, có Điển tòa vì chúng làm việc. Có trị tuế vì chúng xuất nhập, có Tri
khố vì chúng tăng ghi hết còn, có Thư ký vì chúng giữ gìn Thánh giáo; có Tạng
chủ tiếp đón đàn na, có Tri khách vì chúng tăng mà thỉnh mời, có thị giả vì chư
tăng mà duy trì y bát, có liêu chủ vì chúng mà phụ trách thuốc thang. Có đường
chủ vì chúng mà hong phơi; có dục chủ, thủy đầu vì chúng ngăn che ấm lạnh. Có
than đầu, lô đầu vì chúng mà xin đồ. Có Hóa chủ làm việc nhọc, có Trang chủ,
tri viên, mài mực vì chúng tăng mà dọn dẹp. Có tịnh đầu vì chư tăng mà cấp hầu,
có tịnh nhân để như trợ duyên hành đạo thập phần hoàn bị đồ dùng cho thân, trăm
việc thành vạn sự không lo.
Nhất tâm hành
đạo được rãnh nhàn là ngoại vật thế gian tôn quí. Thanh tịnh vô vi, chúng Tăng
là trên hết, hồi niệm công sức của nhiều người, há không biết tri ân báo ân
sao? Sớm tham, tối vấn không bỏ tấc bóng để mới báo đáp ân Thầy. Tôn ti có
chừng mực, cử chỉ đàng hoàng để đền ân thủ tọa, ngoài tuân luật lệnh, trong giữ
qui tắc để đền ân Giám Viện. Lục hòa cùng chung ở, như nước với sữa hòa hợp để
trả ơn duy na. Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn này để đền ân điển
tọa. An ổn tăng phòng, cất giữ vật rơi để tri ân trị tuế. Vật của Tam Bảo một
tơ hào không phạm tới để đáp ân tri khố. Tay không rời bỏ bút, ý chuyên đạo
nghiệp là ân thư ký. Cửa sáng, bàn sạch, lời dạy soi tâm là ân tạng chủ; có tài
dấu kín, mọi việc đắp bồi để báo ơn tri khách. Ở ắt có thường, gọi ắt đến trước
là công ơn thị giả. Một bình một bát, xử chúng như sơn để báo ân liêu chủ. Thà tâm
bịnh khổ, cơm thuốc tùy nghi để báo ân đường chủ. Nhẹ nhàng êm thấm, không mê
lầm nhân để báo ân dục chủ, vận thủy. Ngậm miệng khoanh tay, nhún mình nhường
người để báo ân hỏa đầu quân, lô đầu. Xét đức hạnh mình tự hổ nên cúng để đền
ân hóa chủ. Kể công nhiều ít, đo lường của kia từ đâu đem đến để đáp ân trang
chủ, tri viên. Gánh nước, tải củi để báo ân tịnh đầu. Tự yêu tiếc phúc, rộng mà
dễ tùy, gọn mà dễ làm để báo ân tịnh nhân. Đó là việc bên lề tòng lâm, đạo
nghiệp làm mới tồn tại trên cả cơ duyên một đời giữ làm chưa xong. Kẻ sĩ trung
lưu nuôi dưỡng Thánh thai, chí như khi chưa ngộ bổn tâm cũng không bỏ bê, là
chân tăng bảo, là ruộng phước thế gian. Trong thời kỳ mạt pháp, cập bến lành
tức chứng quả nhị nghiêm[17]. Nếu như tòng lâm chẳng duy trì, thời xe pháp
không quay, chẳng có trưởng lão để lãnh đạo chúng. Ba nghiệp không điều hòa, 4
oai nghi không nghiêm chỉnh không phải là tài đốc suất chúng của thủ tọa. Lượng
bao dung không rộng, tâm yêu thương chúng không dày không xứng để giữ chúng của
Giám Viện. Người tu hành bất an, đám bại hoại không mặc tẩn không phải cách
điều khiển chúng của duy na. Sáu vị không ngon, ba đức không tinh khiết không phải
cách phục vụ chúng của điển tọa. Liêu phòng (nhà) không sửa, đồ đạc không đầy
đủ không phải cách làm chúng an ổn của trị tuế. Cất giữ của Tam Bảo, giảm bớt của
chúng tăng không phải cách phục vụ chúng của Tri khố. Ván viết không cân, chữ
viết dối tháu không phải là vai trò biên chép của Thư ký. Bàn ghế không ngay,
làm ồn không ngớt không xứng phần vụ quản thủ của Tạng chủ. Ghét nghèo yêu
giàu; trọng tục khinh Tăng không phải vai trò của Tri khách. Lễ phép chẳng
kính, tôn ti không theo không xứng làm nhịp cầu giữa chúng của thị giả. Phạt
đuổi chẳng nghiêm, giữ gìn chẳng cẩn không phải là cách cư xử của liêu chủ.
Không cung cấp giúp đỡ, làm bịnh nhân phiền muộn không phải cách đối đãi của
đường chủ. Nước nóng không đầy đủ, lạnh ấm không điều hòa không phải trách
nhiệm của dục chủ, vận thủy. Chuẩn bị thiếu sót làm cho động chúng không phải
việc làm của thán đầu, lô đầu (lo than củi, đèn dầu). Gặp của bất công, không
tận lực hết lòng, không xứng vai trò hóa chủ đem cúng chúng. Đất có lợi, người
vô công không phải người thay chúng của trang chủ, tri viên, ma đầu. Cạo đầu
không đúng lúc, các duyên không đủ, không phải việc phục vụ chúng của tịnh đầu.
Cấm mà không bỏ, ra lệnh không làm theo không phải thuận chúng của tịnh nhơn.
Như ở trong tăng chúng mà khinh thầy chê pháp, giữ tánh tùy tiện, không phải để
báo ân Thầy giáo thọ. Ngồi nằm sái phép, đi đứng vụt chạc không phải để báo ân
Thủ tọa. Khi dễ vương pháp, không đoái hoài đến tòng lâm, không phải để báo ân
Giám Viện. Trên dưới bất hòa, tranh cải quyết liệt không phải để báo ân duy na.
Ham ăn đồ ngon, chê bai món dỡ không phải để báo ân điển tọa. Tha hồ thọ dụng
không nghĩ tới người sau, không phải để báo ân trị tuế. Tham lam lợi dưỡng,
không tiếc của Tam bảo không phải để báo ân tri khố. Hoa hòe bút mực, văn
chương lã lướt, không phải để báo ân thư ký. Khi dễ kinh luật, xem đọc ngoại
điển không phải để báo ân tạng chủ. Liên lạc kết giao với người đời, tiếp xúc
người sang chẳng phải để báo ân tri khách. Quên lời mời thỉnh, trọng công
truyền lịnh, không phải để đền ân thị giả. Làm hư hại đồ dùng, che dấu tỏ gian
không phải để báo ân liêu chủ. Giận nhiều, vui ít không hợp người bịnh không phải
để báo ân đường chủ. Gõ nhịp gây ra tiếng, dùng nước không biết tiết kiệm chẳng
phải để đền ơn dục chủ, vận thủy. Tự tham lam vơ vét ngăn chặn mọi người không
phải để đền đáp hỏa đầu quân, lô đầu. Không nghĩ tới tu hành mà an nhiên thọ
của cúng không phải vì để báo ân Hóa chủ. Suốt ngày đầy đủ, không dụng tâm tu
không phải để báo ân trang chủ, tri viên, ma đầu. Khạc nhổ lên tường, vung vãi
xả rác lung tung chẳng phải để báo ân tịnh đầu. Thanh sắc bao biện, sai sử vô
chừng chẳng phải chỗ báo ân tịnh nhơn.
Trở lên chỉ nêu
một ít điểm cần yếu, chưa bao hàm hết qui tắc thiền môn, mong bỏ xấu theo tốt
để cùng làm cho xong bổn phận người xuất gia, những mong ở hang sư tử trở thành
sư tử. Trong rừng chiên đàn thuần toàn loại chiên đàn khiến 500 năm sau được
gặp lại tại hội Linh Sơn. Muốn biết Phật pháp hưng suy, quan trọng do tăng đồ,
Tăng là phước điền nên phải tôn trọng. Trọng tăng tức là trọng pháp, khinh Tăng
là khinh pháp. Trong giữ nghiêm minh, ngoài gìn cẩn mật. Thiết đặt cơm cháo
cúng dường, một sáng rỡ ràng, công việc tòng lâm hiển nhiên phải nhận làm nên kính
trọng, đãi ngộ đồng đều. Không nên tự tôn tự đại, cũng như cống cao ngã mạn;
đem việc riêng đền việc công. Vạn vật vô thường đâu thể bảo đảm được bền lâu! Một
mai gặp lại chúng, mặt nào nhìn nhau. Nhân quả không sai sợ khó trốn tránh.
Luận Tăng là Phật tử thọ cúng không gì hơn được trời, người thảy đều cung
kính.
Đức Thế Tôn
2600 năm còn lưu bóng mát che chở đàn con cháu. Trong ánh hào quang là một phần
công đức dùng mãi không cùng. Chỉ biết phục vụ chúng mà chẳng sợ lo nghèo. Tăng
không phân phàm thánh mà chung hết thảy mười phương. Đã gọi của thường trụ hẳn
nên phân đều, đâu có sanh tâm phân biệt, khinh thường thánh tăng lưu lại qua
đêm; nếu ở lại 3 hôm có quyền nhận của cúng dường. Tại tăng đường cúng dường
bửa ăn sẵn lòng cung cấp. Khách tục còn phải tiếp rước, huống tăng già há chẳng
quan tâm? Nếu sẵn sàng với tâm rộng lượng mình tự được phước vô cùng. Chư tăng hòa
hợp, trên dưới đồng lòng, thường biết khuyết toàn cùng nhau bao bọc. Việc trong
nhà bẩn chớ để bên ngoài hay biết. Tuy nhiên đối với việc không phương hại,
chắc ít ai đoái tới, ví như vi trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt của sư
tử mà thôi. Không phải thiên ma, ngoại đạo có thể phá hoại được giáo pháp; chỉ
có đệ tử của Phật mới làm Phật pháp suy tàn. Nếu muốn đạo pháp mãi lưu truyền,
Phật pháp tiếp tục lâu dài, làm phát huy Tông tổ mong lấy văn này làm chuẩn
mực.
-Chứng nghĩa
ghi, Thiền sư Minh Giáo Cao, Thiên Tôn Tăng nói rằng, giáo hẳn tôn kính tăng, vì
sao vậy? Vì Tăng ấy lấy Phật làm tánh, lấy Như Lai làm nhà, lấy pháp làm thân,
lấy huệ làm mạng, lấy thiền duyệt làm món ăn. Cho nên không theo họ tục, không
kinh doanh như người đời; không tu hình thức, không tham sanh, không sợ tử.
Không tiếc gì năm vị, người xuất gia phòng thân có giới, nhiếp tâm có định,
biện giải có huệ, lời nói răn dè. Ba nghiệp thanh tịnh và cuối cùng thân không
nhiễm, lời nói chắc chắn, suy nghĩ cẩn thận đúng, tinh thần sáng suốt, nên suốt
ngày không rối loạn, lời nói tỏa huệ vậy. Trọng đức dứt mê lầm là điều hiển
nhiên, lấy đây làm nhân tu hành, lấy đây làm quả đạt thành. Có từ có bi, có đại
thệ, có đại huệ. Từ ấy là luôn muốn cho mọi vật được an ổn, bi ấy là luôn muốn
làm khô cạn mọi sự khổ, thệ ấy là thề cùng với mọi người nhận rõ chân lý, huệ
ấy là lấy chánh pháp soi sáng quần sanh. Thần mà thông đó, trời đất không thể yểm
che, mật (kín) mà hành đó quỉ thần không thể lường được, đó là quảng diễn giáo
pháp vậy. Luận bàn không trở ngại đó là hộ pháp vậy. Phấn đấu không đoái tới thân,
hay nhẫn được những cái mà người ta không nhẫn được; hay làm được cái mà người
ta không làm được, đó là chánh mạng. Ăn như vậy mà ăn, ăn mà không làm nhục, đó
là thiểu dục vậy.
Áo nạp, bát
niền mà không bị nghèo. Người vô tranh có thể nhẫn mà không nhẹ thể; người vô
oán năng động mà không tổn hại. Lấy thật tướng đãi vật, lấy đức từ tu thân, cho
nên ở trong thiên hạ được kính trọng. Người không nói dối nên được tin tưởng;
đến như pháp vô ngã nên nhường là thật. Có oai đáng kính, có nghi đáng noi
theo. Trời, người vẫn mong nhưng nghiễm nhiên có phước ở đời, hay dẫn dắt cõi
tục. Người quên mình dù thác làm cầm thú mà không keo lận. Kẻ đọc tụng dù nóng
lạnh nhưng không bỏ bê, lấy pháp xuất xử - làm việc. Đi vào khắp nẻo nhân gian,
tới nơi làng xóm; thấy danh như tiếng dội lại, thấy lợi như bụi trần, thấy vật
sắc như tia chớp lòe. Đất bằng hợp lối xe đi mà không là hèn mọn, vì đạo mà xử
sự. Dù ở nơi núi sâu non thẳm, lấy cỏ làm sáo che thân, ăn cây rừng mà sống an
nhiên tự tại không bị lợi danh thu hút, thế quyền khuất phục. Tạ ân vua, các
quan hầu không đề cao là người độc lập. Lấy đạo tự thắng, dù hình ảnh đáng
thương mà không cô độc, vì cùng ở chung. Lấy pháp làm quyến thuộc, gặp đủ người
trong bốn biển mà không bị hổn loạn là do sở học. Ngoài 3 tạng, 12 bộ kinh,
sách của bách gia chư tử khác đạo không thể không thông hiểu.
Tổ thuật lại
pháp ấy hẳn có văn có chương vậy. Người hành trung đạo chẳng không chẳng hữu là
học thấu đáo. Lìa niệm tức thanh tịnh hợp nhất chân như, là không chỗ phân biệt,
Tăng quí nơi con người là tâm rộng rãi, là đức vẹn đầy vậy. Đó là Đạo lớn, đó
là hiền không phải hiền như người đời nói. Đó là Thánh không phải Thánh như thế
thường nghĩ. Hiền Thánh xuất thế nổi bật vậy. Tăng như thế há không đáng tôn
sao? Ôi thôi, đạo pháp đã tới thời mạt vận, cách Thánh càng xa! Tuy là người
xuất gia mưu cầu đạo lại đi tranh danh đoạt lợi cho mình. Thấy Phật pháp suy
tàn bèn làm cho pháp môn sáng tỏ, dạy giềng mối đem lại niềm tin cho nhiều
người. Thật là lợi lạc cho đàn hậu học để khắc ghi đạo mầu từ đó. Người từng
đem tâm KHÔNG cầu pháp, quyết chí theo thầy mà gần nhất là việc hiển danh lập
thân, xa là cách phàm chứng thánh, tái lập lại thời tượng pháp, ai bỏ tục làm
Tăng?
Cho nên cần
phải tu thân, ít nói, giữ gìn sau như trước. Chuyên lo việc học, cẩn trọng lo
hành pháp, tránh ác làm lành. Vâng lời Thầy hết lòng, có giỏi cũng không tự
khoe khoang. Việc ác khởi lên phải nhanh chóng trừ dứt, giữ nhân nghĩa đã hành
đúng chưa? Nếu nhổ tận gốc nghèo thời vui mà quên lo lắng; thấy liền nghĩ như
nhau, đương nhân chẳng nhượng. Danh lợi không làm động được chí nguyện; sanh tử
không đủ quấy rối người có tâm ưu tư. Trí có đủ để phá tan mê lầm, lòng từ có
thừa để nhiếp hóa người. Lúc khốn phải giữ mình thanh tịnh, khi đạt nên khiêm
nhường thiên hạ, làm cho chân phong đang bệ rạc có cơ tái chấn hưng. Đuốc tuệ
lu mờ làm cho tiếp tục sáng tỏ, đó gọi là đại trượng phu vậy. Xứng đáng gọi là
sứ giả Như Lai thân đâu không an nơi Tăng bảo; diệt gian dối phức tạp mới là
yêu mến bậc hiền. Trước ái mộ kẻ thượng hiền, sau thời chìm lặn vào hạng hạ
ngu. Bọn người như đây thật đáng thương xót! Đọc lời cảnh sách này tâm nên suy nghĩ:
Phật pháp hưng suy do tăng hành xử. Cho nên trọng tăng là trọng pháp, khinh
tăng là khinh pháp đó. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng. Muốn
ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng…
2.15
Phú (phó) pháp
Phú pháp nguyên
gọi là phó y từ Tổ Tổ nối truyền, lấy pháp y làm biểu tín, truyền tới Đông Độ
đời Lục Tổ, do sanh ra tranh chấp nên chấm dứt từ đó mà không giao phó y nữa. Gần
đây phú pháp cũng gọi là phó y, đặc biệt giữ cái danh vậy. Pháp tức là tâm, tâm
không thể thấy, đâu có qui tắc mà thấy được. Đúng là nhờ thầy khai đạo đem tâm truyền
tâm thời việc phó pháp hoàn bị, cho chí dạy chọn phân tòa trong thời mạt pháp,
nhưng không ghi ra ở đây. Chỉ lược thuật nguyên tắc thiền tông cho người sau
biết pháp có căn cứ nguồn gốc; đồng thời cũng để cổ võ học nhân. Dựa theo thiền
tông nguyên lưu khởi nguyên từ đức Thế Tôn giơ cành hoa giữa chúng tại hội Linh
Sơn, Ma ha Ca Diếp ngộ được mỉm cười. Đức Phật bảo: Nay ta có chánh pháp
nhãn tạng
Niết Bàn diệu
tâm
Thật tướng vô
tướng
Không lập văn
tự
Chỉ thẳng tâm
người
Thấy tánh thành
Phật
Pháp môn vi
diệu
Phó chúc cho
ngươi
Ngươi khéo hộ
trì
Đừng để gián
đoạn.
Và Phật truyền
kệ rằng:
Pháp vốn pháp
không pháp
Không pháp pháp
cũng pháp
Nay lúc trao
không pháp
Pháp pháp nào
từng pháp…
Bèn làm sơ Tổ
(Ca Diếp) Thiền Tông. Tổ Tổ kế thừa theo thứ tự như sau:
Tổ thứ nhất là
Ma ha Ca Diếp truyền xuống A Nan tổ thứ hai, A Nan truyền Tổ Thương Na Hòa Tu;
Thương Na Hòa Tu truyền Ưu Bà Cúc Đa, Ưu Bà Cúc Đa truyền Đề Đa Ca, Đề Đa Ca
truyền Di Giá Ca, Di Giá Ca truyền Bà Tu Mật, Bà Tu Mật truyền Phật Đà Nan Đề,
Phật Đà Nan Đề truyền Phục Đà Mật Đa, Phục Đà Mật Đa truyền Hiếp Tôn Giả, Hiếp
Tôn Giả truyền Phú Na Dạ Xoa, Phú Na Dạ Xoa truyền Mã Minh. Mã Minh truyền Ca
Tỳ Ma La, Ca Tỳ Ma La truyền Long Thọ, Long Thọ truyền Ca Na Đề Bà, Ca Na Đề Bà
truyền La Hầu La Đa, La Hầu La Đa truyền Tăng Già Nan Đề, Tăng Già Nan Đề
truyền Già Da Xá Đa, Già Da Xá Đa truyền Cưu Ma La Đa, Cưu Ma La Đa truyền Xà
Dạ Đa, Xà Dạ Đa truyền Bà Tu Bàn Đầu, Bà Tu Bàn Đầu truyền Ma Nỗ La. Ma Nỗ La
truyền Hạc Lặc Na, Hạc Lặc Na truyền Sư Tử. Sư Tử truyền Bà Xá Tư Đa, Bà Xá Tư
Đa truyền Bất Như Mật Đa. Bất như Mật Đa truyền Bát Nhã Đa La, Bát Nhã Đa La
truyền Bồ Đề Đạt Ma, Tổ thứ 28 khởi đầu truyền sang Đông Độ là Tổ Thứ Nhất. Bồ
Đề Đạt Ma truyền tổ Huệ Khả, Huệ Khả truyền Tăng Xán, Tăng Xán truyền Đạo Tín,
Đạo Tín Đại Y Thiền Sư truyền Hoằng Nhẫn Đại Mãn thiền sư. Hoằng Nhẫn Đại Mãn
Thiền sư truyền Huệ Năng Đại Giám Thiền Sư. Huệ Năng Đại Giám thiền sư truyền xuống
hai nhánh: một nhánh tại Hồ Quảng cho Nam Nhạc tức là Hoài Nhượng Đại Huệ thiền
sư, nhánh thứ hai tại Thanh Châu cho Thanh Nguyên là Hành Tư thiền sư.
- Chứng nghĩa
ghi rằng phó pháp nguyên lưu xuất phát từ kinh Phó Pháp tạng, Kinh Đạt Ma Đa La
Thiền v.v…Về sau kế thừa các chi phái từ các sách Thiền. Nam Nhạc y theo Lâm
Tế, Thanh Nguyên dựa theo Động Sơn, đó là các sách lưu hành của Thiền tông. Hai
phái Thiền này rất thạnh hành. Theo Ngũ Gia Tông phái một quyển tập hợp tất cả
các hệ phái, rồi phải tái kết hợp biên tập tiếp tục không để lu mờ việc truyền
phú pháp. Tuy lấy tâm truyền tâm nhưng không thể không có kệ phó pháp, nếu
không có kệ hẳn làm cho chi phái rối loạn. Truyền lưu không theo tiêu chuẩn làm
cho pháp môn mất trình tự, cũng làm đảo lộn thứ lớp. Sách Ngũ Gia tông phái
trong đó mỗi phái được hoàn bị pháp mạch ngược dòng tìm nguồn, nên mỗi phái
thông suốt đủ tinh tường các danh lục như đã luận giải. Dựa sách Kim Sơn chùa
Giang Thiên tại Nhuận Châu quyển 9 ghi ngữ lục chí học thông sách Tố Lưu Tầm Nguyên
Đồ Thuyết kệ rằng: Tổ hành giới định thông Mới chứng được viên thông Pháp sáng
vượt thực tế Đạt ngộ lý chân không. Đây là môn hạ của Bích Phong Sơn Thiền sư, Tổ
Định thiền sư vào ở chùa Tuyết Phong, là Tổ chữ khởi đầu 47 dưới Bích Phong,
thành lập một phái riêng, kế thừa đến 20 chữ, hoàn toàn không phải từ chính
tông Lâm Tế xuất phát. Cho đến Huyền Hữu truyền Tổ ấn kiệt xuất Thiên Đồng Ngộ
Khánh Sơn sửa đổi hai nhánh mới dùng chữ “Viên” kéo dài cho tới nay; trước mắt
chữ “Không” sắp hoàn tất. Lòng người bất nhất, hoặc theo phái Tổ Long Sơn hay
lập riêng một phái, hoặc nguyên bài kệ từ chữ “Tổ” bắt đầu trở lại. Hoặc chữ
“Không” truyền thừa kế tiếp; nhưng mà chung cục không phải chỉ bấy nhiêu. Thiền
là tông lớn trong các tông luôn hưng long dòng pháp. Nên nghĩ tới cội gốc,
nguồn mạch cốt để tìm sự thật. Có chánh tông chánh phái thời nguồn mạch lưu
chuyển lâu dài, không đến đổi pháp Tổ nạ dòng (đục ngầu trào lên) được quy về
chánh phái. Đây là cuốn sách Ngũ Gia Tông phái đáng tham khảo phát hành rất lâu
tại phòng Kinh sách Tây Hồ chứ không phải ký ức của tôi nhớ ra đâu, đó gọi là
Tố Lưu Tầm Nguyên vậy (ngược dòng tìm nguồn mạch). Xin trích lục Lâm Tế Chánh
Tông đời 24 Thiền sư Hải Chu Vĩnh Từ biệt xuất kệ pháp phái Lâm tế như:
Phổ Vĩnh trí
quảng hoằng thắng đức
Tịnh huệ viên
minh chánh pháp hưng
Tánh hải trừng
thanh hiển mật ấn
Đại thừa diệu
đạo ngộ tâm đăng
Phật ân hạo mãn
lưu phương viễn
Tổ hạnh siêu
tông tục từ thâm
Giới định di
kiên thông nghĩa lý
Quy thành cẩn
thủ trấn thường tân
Phấn thiện
xương vinh nhân đạt bổn
Vi tường long
thạnh phục truyền đăng
Công duệ tịch
chiếu dung chân tế
Bảo cảnh cao
huyền thể dụng thân
Nhiêu ích linh
văn thơ cảnh tú
Tín trì nguyên
ký tế thời trân
Liễu nhiên vô
kế không chư huyễn
Giác thọ khai
phu quả tự hinh.
Nghĩa là:
Trí sâu đức
rộng lưu khắp cùng
Tuệ viên tròn
sáng Phật pháp truyền
Tánh hải lặng
trang hiển mật ấn
Đại Thừa đạo
nhiệm ngộ tâm đăng
Phật ân chan
chứa thơm hương mãi
Hạnh Tổ vượt
tông nối dõi ân
Giới định kiên
cường thông nghĩa lý
Viên thành cẩn
trọng gìn như mới
Vun thiện bồi
vinh tới quả nhân
An tường hưng
thạnh lại thêm tăng
Công lao nhuần
nhuyễn sáng cõi chân
Gương báu treo
cao thể dụng phần
Lợi lạc linh
văn gôm nét đẹp
Giữ gìn nguyên
vẹn giúp muôn dân
Hiển nhiên
không kế không pháp huyễn
Bồ đề quả lộ
hiện tự thân.
Bài tụng này
gồm 120 chữ từ Tổ Hải Châu Từ kế chữ Vĩnh cùng bực với phái Bích Phong ở chữ
Định đồng hàng. Từ chữ Định đến chữ Không trong bài tụng này đồng bực chữ
Thanh. Sau chữ Phấn đối sự liễu ngộ pháp chân chữ Không là dứt, tức từ nơi bài
tụng này hiển lộ mật ấn, hiển tự khởi. Đó là phái Lâm Tế chánh tông không nên
bám víu liên tục và lập riêng các phái. Nếu từ chư Tổ lưu xuất các phái, đã có
lập kệ riêng của phái phải biết mình thuộc chữ gì trong bài kệ, ứng hợp với
phái chánh đây đồng bực chữ gì, thời ngược dòng tìm nguồn không đến đổi uổng
phí công lao. Đến sách phú pháp, phải từ đức Thế Tôn truyền cho Ca Diếp khởi
đi, Đông Độ từ Sơ Tổ khởi đi mãi cho tới thời cận đại có sách các tiểu phái ra
đời. Bỏ Tổ là tội rất lớn, lại thêm vong bổn (mất gốc) nữa. Do người, kế thừa
nên Tổ đạo mỗi ngày càng suy vi. Kế đây lược bàn về nguồn mạch: tông môn lấy nhứt
niệm không sanh làm chánh kiến. Gạt văn tự là bị chướng ngại, giá người sau khi
ngộ bổng la lên lâm cơ cũng trọng chỗ thấy mà khinh gốc gác. Gặp sự ngụy tạo
cũng không xét kỹ vẫn lưu truyền, gian ngụy do đây xuất phát, song ngụy tạo lẫn
lộn với sai lầm. Học rộng là biết rõ nguồn gốc thiền tông, lầm lẫn đối với
trong tiểu chú giải lời Phật Tổ, đăng tải Kheo huyền tố bi ký, riêng có Thiên
Vương Ngộ xuất hiện, sau Mã Tổ có Viên môn, Pháp nhãn cũng qui về dưới Mã Tổ.
Kế tục sau sách Ngũ Đăng Hội Nguyên là Chỉ Nguyệt lục đều là tiểu chú giải,
thêm sau đó vẫn còn hồ nghi. Vào đời Nguyên đến giữa Nguyên Vân Hác Thụy có tập
Tâm Đăng lục dẫn thẻ ghi các bi ký làm đảo lộn tôn thống làm uổng phí công
tuyển chọn của Ngũ Đăng, ra sách Tể Lôn Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư đều thuộc
loại ngụy tạo này. Lại trước khi Nam Nhạc còn sống sau có Thanh Nguyên, trước
có Đại Huệ Cảo, kế có Hổ Kheo Long, huynh đệ làm đảo ngược lại qua Viễn Môn trụ
tập ngũ đăng tục lược. Phái Thanh Nguyên lầm đưa vào Lộc Môn Giác đời thứ 5
thuộc môn hạ Trường Ông Như Tịnh. Tổ tôn đảo lộn vị trí, đời thứ lầm lẫn. Kế
đăng tiếp tục các sách đều là sách sai lầm như thế cả. Phái Nam Nhạc lẫn lộn cả
Hải Châu làm một, sai lầm lục vô văn là một ý mạch nguồn thế đại. Tổ đạo đổi
giòng đâu thể không loạn. Khương Hy giáp thành may có Hành Dương Lạc Hà là Trí
Giai Thiền sư chấp bút đính chánh cho ấn hành một cuốn danh lục, mới nêu rõ
những lầm lỗi sách cũ của Tổ phụ, để giúp người sau thu thập được điều mới y cứ
theo lịch triều năm Giáp Tý biên niên, nghiên cứu các châu quận hẻo lánh thay
người sau trước. Bậc Thầy truyền thọ, lai lịch tông phái, thuật cổ luận kim,
việc nhiều lời ít, không quá rườm rà. Công việc nhằm sửa đúng cái sai thật đáng
nói ở chỗ dụng tâm. Luận bàn chỗ đúng, ngòi bút sắc cạnh thật vô tư đối với
sách Tể Lôn Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư. Như hai bên sát phạt lẫn nhau. Ngoài ra,
Như Mộc Trần Mẫn có Thiền Đăng Thế Phổ, Đàm Kiết Nhẫn với Ngũ Tông Cứu, Sơn
Hiểu Triết với Sùng Chánh Lục và Bảo Tích lục, Tế Thủy Quảng có Hiển Chánh
Thuyết, Mai Cốc Duyệt với Lâm Tế Chánh Tông lục, Thạch Nguyên Vân với Tịch Vọng
Thuyết, Điền Tỳ Tế với Đông Minh Tổ Đăng Lục, Cự Linh Dung với Tục Tăng Bảo
truyện, Đoạn Khởi Trứ có Nam Nhạc Cách Tổ, Tương Lưỡng Aám với Tôn Thống Biên
Niên, Lạc Độc Tiên với Tục Chỉ Nguyệt lục, Trứ Am Vấn với Tục Đăng Tồn Cảo, Mật
Vân Ngộ với Tịch Vọng Bạt và Mộng Thuyết lục v.v… Hễ có liên hệ với Hải Châu
Từ, Bảo Phong Nguyên, Vô Văn Thông v.v… đều lầm lẫn. Không những không phân
tích phản đối từ cuốn 1 đến cuốn 4 luận khảo năm tông 2 phái về khởi nguyên.
Khảo chánh là Thanh Nguyên Tư khi còn sanh tiền và sau Nam Nhạc, trước là huynh
sau đệ vậy. Lại luận Thiên Hoàng Ngộ chỉ một người cùng huynh đệ Dược Sơn
Nghiễm đồng xuất thân từ Thạch Đầu Hy Thiên. Ngộ truyền cho Long Đàm Tín, Long
Đàm Tín truyền xuống Đức Sơn Giám, Đức Sơn Giám truyền xuống Tuyết Phong Tồn.
Tuyết Phong Tồn truyền cho hai người là Nguyên Sa Bị và Vân Môn Yển. Sở dĩ nói
tông Vân Môn vì Thanh Nguyên đời thứ bảy, Nguyên Sa Bị truyền cho La Hán Sâm,
Sâm truyền cho Thanh Lương Ích. Vì thế gọi Tông Pháp Nhãn từ Thanh Nguyên đời
thứ chín vậy. Dược Sơn Nghiễm truyền cho Vân Nham Thạnh. Vân Nham Thạnh truyền
cho Động Sơn Giới. Do vậy có tông Động Sơn Thanh Nguyên đời thứ năm. Nam Nhạc
Nhượng truyền cho Mã Tổ Đạo Nhất, Đạo Nhất truyền cho Bách Trượng Hoài Hải.
Bách Trượng Hoài Hải truyền cho hai người là Hoàng Bá Hy Vận và Quy Sơn Linh Hựu.
Hoàng Bá Hy Vận truyền cho Lâm Tế Nguyên nên gọi là tông Lâm Tế Nam Nhạc đời
thứ năm. Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịnh nên gọi là tông Quy Ngưỡng
cùng phái Nam Nhạc đời thứ năm. Năm tông này kế truyền chánh truyền có nguồn gốc.
Quyển 5 đến quyển 7 luận khảo về các đời tông Tào Động khá đầy đủ. Ngài Động
Sơn truyền cho Phù Dung Khải, Phù Dung Khải truyền cho Lộc Môn Giác, Lộc Môn
Giác truyền cho Thanh Châu Biện, Thanh Châu Biện truyền cho Từ Châu Bảo. Dưới
Châu Bảo có một phái kế truyền tới nay. Ngoài ra, Phù Dung Khải truyền cho Đơn
Hà Hưởng, Hưởng truyền cho Sùng Tiên Liễu. Sùng Tiên Liễu truyền cho Thiên Đồng
Giác, Giác truyền Tuyết Độc Túc Am Trí Giám, Giám truyền cho Thiên Đồng Trường
Ông Như Tịnh v.v… Hai phái này từ đời Tống đến cuối Minh hơn 500 năm không có
thuyết khác, tiếp tục sai lầm đưa tới Lộc Môn Học đời thứ 5. Lầm lỗi y cứ dưới
Ngài Như Tịnh. Đây đều biện chánh. Quyển 8 đến quyển 14 luận về các thế hệ tông
Lâm Tế khá đầy đủ để tham khảo, như Hưng Hóa đối với tông Lâm Tế, Tuyết Nghiễm
đối với Vô Chuẩn, Minh Thông đối với Thiên Kỳ đều xa thế hệ. Bàn về Hải Châu
Phổ Từ là thế hệ Vạn Phong Thời Uûy cùng Bảo Tạng Trì là huynh đệ. Hải Châu
Vĩnh Từ là thế hệ Đông Minh Thời, liên hệ tới Hải Châu Phổ Từ ở trước là cháu
pháp điệt. Dựa vào chánh tông nguyên lưu, nối tiếp thế hệ Vạn Phong, Hải Châu Phổ
Từ trước truyền cho Bảo Phong Minh Tuyên, Bảo Phong Minh Tuyên truyền cho Thiên
Kỳ Bổn Đoan, nay còn lưu truyền. Từ Bảo Tạng Trì, Đông Minh Thời trở lại kệ
truyền pháp có 2 chữ Dực Thiện mà về sau Hải Châu Vĩnh Từ không còn nghi gì nữa.
Chùa Dực Thiện, nơi về sau Hải Châu Vĩnh Từ đã ở đó, nguồn mạch khởi từ Bảo
Tạng Trì là dưới Vạn Phong xuất phát ra một phái. Song Quang Trạch, Vô Văn,
Minh Thông đi xa thế hệ Thiên Kỳ, thời Bảo Tạng Trì, Đông Minh Thời sau Hải
Châu Vĩnh Từ 3 đời là sai lầm phát xuất từ đó. Lại luận cùng danh Vô Văn Thanh
có 67 người đời sau không rõ, cùng tên khác người. Nhận lầm Tổ người khác là Tổ
của mình, tự do sử dụng điển tịch (sách sử) ngụy tạo lấy ngoa truyền ngoa. Tóm
lại một lời nói rằng, truyện Phù Nghiễm của Vô Văn, Minh Thông họ Phù, người
quận Mân (Phúc Kiến), phủ Võ huyện Quang Trạch. Dựa theo sách Chánh Tông lục
đăng tải, Vô Văn quận Võ, sanh ngày 5 tháng 12 năm Giáp Tuất niên hiệu Chánh
Đức năm thứ 9 đời Minh vào giờ Tý, xuất gia năm 17 tuổi vào năm Gia Tĩnh thứ 9
tức năm Canh Dần. 20 tuổi thọ giới Tỳ Kheo năm Quí Tỵ. Năm Bính Ngọ, 33 tuổi đi
tham học. Lại Ngũ Đăng đăng tải Vô Văn sanh đời Tùy, con Châu Quan ở chùa núi
Long Tuyền vào năm Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh thứ 30. Tham khảo Ngũ Đăng toàn
thư đăng tải, Thiên Kỳ viên tịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Trị thứ 11 đến năm
Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh có cả 54 năm đâu có gần Quận Võ, Vô Văn, Minh Thông
chứ? Cho nên biết rằng Minh Thông thuộc thế hệ xa. Biết đây là thế hệ xa lấy
mọi ngụy trá sai lầm truyền tải. Cố nhiên hẳn biết như vậy không nên tranh
luận. Nên biết rằng đây không phải là Vô Văn, chắc hẳn không thể thêm 2 chữ
Tuyệt Học được. Lại nữa tên húy là Minh Thông không phải Chánh Thông; không thể
lẫn lộn được. Minh Thông truyền cho Phù Nghiễm - Nguyệt Tâm - Đức Bảo, Đức Bảo
truyền cho Huyễn Hữu. Huyễn Hữu truyền xuống 4 người: Thiên Đồng Mật Vân Ngộ, Vân
Môn Tuyết Kiêu Tín, Khánh Sơn Thiên Aån Tu, Bảo Phác Liên, song pháp mạch rất
thạnh. Thiên Đồng Khánh Sơn đúng danh lục là Huyễn Hữu, không phải truyện Phù
Nghiễm. Thuyết này tuy có xuất xứ, nhưng bị người bài bác rất nhiều. Dù không
quan hệ kệ truyền pháp làm y cứ, nhưng đối với Phù Nghiễm có cơ duyên khế ngộ.
Phù Nghiễm có phó chúc thu gọn không nên bài xích chê trách.
Hỏi: chánh danh
trước Thanh sau Nam, cớ gì trong đây vẫn đảo lộn thứ tự?
- Ðáp: Chánh
sanh trùng truyền đăng đời sau, trước anh sau là em theo lễ vậy. Nay trước Nam
Nhạc sau Thanh Nguyên, đời sau trùng pháp Thanh Quy làm thầy thiên hạ. Thiền –
Giáo - Luật đều trùng sách tôn Tổ trước của họ. Lại hỏi Bảo Tạng, Ðông Minh,
sau có Hải Châu, tuy phái nhỏ biệt xuất nhưng không loại bỏ. Trước Hải Châu Phổ
Từ, tuy chánh tông sai thiếu nhưng không bổ khuyết, tại sao?
- Đáp: lưu
truyền đã lâu và rộng khắp, đối với lịch đại Tổ theo thần vị thứ tự đời; và đời
sau, phú pháp đại diện một số đời đã biến đổi bên trong. Ở chỗ chính danh ngay
lúc ấy còn khó cải đổi huống gì nay đã hơn 100 năm lại càng khó sửa hơn
nữa.
Lịch Tổ tuy
không tâm phân biệt ở chánh danh chẳng thể không luận bàn, vì quyển sách đưa ra
lý nên sửa cho đúng. Nay nguyên bản không dám sửa, chỉ lược bàn điểm sai lầm
lẫn lộn như trên đã nói.
2.16
Phái Nam Nhạc
Hoài Nhượng truyền
cho Phổ Chiếu Đại Tịch tại Giang Tây. Mã Tổ Đạo Nhất truyền một đời cho Bách
Trượng tại Hồng Châu. (Đại Trí Hoài Hải), Hoài Hải truyền cho Hoàng Bá tại Hồng
Châu tức là Chánh Giác Đoạn Tế Hy Vận. Hy Vận truyền cho Lâm Tế Nghĩa Huyền
(Lâm Tế Chân Thường) là thế hệ thứ nhất tông Lâm Tế. Lâm Tế truyền cho Quảng Tế
Tồn Tương (Hưng Hóa Tồn Tương) ở Ngụy Phủ. Quảng Tế Tồn Tương truyền cho Huệ
Ngung (Nam Viện tại Nhữ Châu), Huệ Ngung truyền cho Diên Thiều (Phong Huyệt tại
Nhữ Châu), Diên Thiều truyền cho Tĩnh Niệm (Thủ Sơn tại Nhữ Châu). Tĩnh Niệm
truyền cho Vô Đức Thiện Chiêu (Thái tử ở Phần Châu). Thiện Chiêu truyền cho Từ
Minh Sở Viên - Thạch Sương tại Đạm Châu. Sở Viên truyền cho Phương Hội - Dương
Kỳ tại Viên Châu. Phương Hội truyền cho Thủ Đoan (Bạch Vân tại Thơ Châu, Thủ
Đoan truyền cho Pháp Diễn - Ngũ Tổ Đông Sơn thuộc Kỳ Châu. Pháp Diễn truyền cho
Viên Ngộ - Phật Quả - Khắc Cần - Chiêu Giác ở Thành Đô. Khắc Cần truyền cho Thiệu
Long - Giang Kheo tại Bình Hỗ, Thiệu Long truyền cho Ứng Am - Đàm Hoa - Thiên
Đồng tại Minh Châu. Đàm Hoa truyền Mật Am Hàm Kiệt - Thiên Đồng tại Minh Châu,
Hàm Kiệt truyền cho Tổ Tiên Mật Ấn - Ngọa Long phá am tại Khánh Châu. Mật Ấn
truyền cho Vô Chuẩn Sư Phạm - Phật Giám - Kính Sơn tại Hàng Châu, Phật Giám
truyền cho Tổ Khâm Huệ Lãng - Ngưỡng Sơn Tuyết Nghiễm tại Viên Châu. Huệ Lãng truyền
cho Cao Phong Nguyên Diệu ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Nguyên Diệu truyền cho
Trung Phong Minh Bổn ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Minh Bổn truyền cho Thiên Nham
Nguyên Trường - Ô Thương Phục Long, Nguyên Trường truyền cho Cao Phong Thời Ủy
- Đặng Úy tại Tô Châu. Thời Uûy truyền cho Bảo Tạng Phổ Trì - Đặng Úy tại Tô Châu,
Phổ Trì truyền cho Hư Bạch Huệ Thời - Đông Minh tại Hàng Châu, Vĩnh Từ truyền
cho Bảo Phong Minh Tuyên tại Nam Kinh, Minh Tuyên truyền cho Thiên Kỳ Bổn Đoan,
Bổn Đoan truyền cho Vô Văn Minh Thông. Minh Thông truyền cho Nguyệt Tâm Đức Bảo
ở Tiếu Nham tại Bắc Kinh, Đức Bảo truyền cho Huyễn Hữu Chánh Truyền ở Long Trì
tại Nghi Hưng. Chánh truyền truyền cho Mật Vân Viên Ngộ ở Thiên Đồng tại Minh
Châu, và Thiên Aån Viên Tu ở Khánh Sơn tại Nghi Hưng. Từ Đại Giám trở đi tới
đây là 34 đời.
Từ Viên Ngộ
Khắc Cần biệt xuất một chi là Đại Huệ Tông Cảo Phổ Giác tức Kính Sơn tại Hàng
Châu, Phổ Giác truyền cho Lại Am Đảnh Nhu ở Tây Thiền tại Phước Châu. Đảnh Nhu
truyền cho Mộc Am An Vĩnh ở Cổ Sơn tại Phước Châu, An Vĩnh truyền cho Mai Oâng
Ngộ Minh ở Tịnh tại Hàng Châu. Ngộ Minh truyền cho Nhược Khẩu Lãng Ích tại Thái
Nguyên, Lãng Ích truyền cho Phiệt Độ Phổ Từ tại Phần Châu, Phổ Từ truyền cho
Nhất Ngôn Đạo Hiển ở Tướng Quốc tại Lạc Kinh, Đạo Hiển truyền cho Tiểu Am Hành
Mật tại Tây Kinh, Hành Mật truyền thừa 2 người Ngưỡng Viên Khâm, Khâm truyền
cho Vô Niệm Trí Hữu tại Thọ Châu, Trí Hữu truyền cho Hình Sơn Hoài Bão, Hoài
Bão truyền cho Thiết Ngưu Đức Viễn tại Tần Lãnh, Đức Viễn truyền cho Nguyệt
Minh Liên Trì ở Châu Dương tại Thục Hồ, Liên Trì truyền cho Xuy Vạn Quảng Chân
ở Tụ Vân tại Trung Châu. Quảng Chân truyền cho Thiết Bích Huệ Cơ ở Trị Bình,
Khánh Trung tại Trung Châu, Huệ Cơ truyền cho Sơn Đăng Lai ở Cao Phong tại
Trung Châu. Khởi từ Đại Giám là 31 đời.
Từ Vô Chuẩn Sư
Phạm biệt xuất một chi là Đoạn Kiều Diệu Luân ở Tịnh Từ (chùa) tại Hàng Châu,
Diệu Luân truyền cho Phương Sơn Bảo Kiên ở Đoan Nghiêm tại Đài Châu, Bảo Kiên
truyền cho Vô Kiến Tiên Đỗ ở Hoa Đảnh thuộc Đài Châu, Tiên Đỗ truyền cho Bạch
Vân Trí Độ ở Phước Lâm tại Xử Châu. Trí Độ truyền cho Cổ Quật Tuấn ở Thiên Giới
tại Kim Lăng, Tuấn truyền cho Vô Tế Minh Ngộ tại Đông Phổ, Minh Ngộ truyền cho
Nguyệt Khê Trừng, Nguyệt Khê Trừng truyền cho Di Phong Dung. Di Phong Dung
truyền cho Bảo Phương Tấn ở Thiên Mục tại Hàng Châu, Bảo Phương Tấn truyền cho
Giả Ông Hiểu ở Đông Tháp tại Gia Hưng. Hiểu truyền cho Vô Thú Như Không tại Gia
Hưng, Không truyền cho Vô Huyễn Cổ Trạm Tánh Trũng ở Xa Khê tại Tô Châu. Trũng
truyền cho Nam Minh Huệ Quảng ở Hưng Thiện tại Gia Hưng. Quảng truyền cho Phổ Minh
Diệu Dụng ỡ Mã Hồ tại Gia Hưng, Dụng truyền cho Vân Phong Điều. Khởi đi từ Đại
Giám tới đây là 35 đời.
Trở lên là phái
Nam Nhạc.
2.17
Chi Thanh Nguyên
Hành Tư truyền
thừa cho Thạch Đầu Hy Thiên tại Hoành Sơn, Hy Thiên truyền cho Dược Sơn Duy
Nghiễm tại Lễ Châu, Duy Nghiễm truyền cho Vân Nham Đàm Thạch tại Đàm Châu.
Thạch truyền cho Động Sơn Lương Giới, là đời thứ nhất tông Động Sơn. Giới
truyền cho Vân Cư Đạo Ứng tại Hồng Châu, Ứng truyền cho Đồng An Phủ ở Phượng
Thê Sơn tại Hồng Châu, Phủ truyền cho Đồng An Chí tại Hồng Châu, Chí truyền cho
Lương Sơn Duyên Quán tại Đảnh Châu. Quán truyền cho Thái Dương Cảnh Huyền tại
Trịnh Châu, Huyền truyền cho Nghĩa Thanh ở Đầu Tử Sơn tại Thơ Chẩn, Thanh
truyền cho Phù Dung Đạo Giai ở Tích Châu tại Sơn Đông, Giai truyền cho Huệ Định
Tự Giác Chùa Vạn Thọ Lộc Môn Sơn tại Nhượng Châu. Giác truyền cho Đại Giác Phổ
Chiếu Hy Biện ở Thiên Ninh tại Thanh Châu, Biện truyền cho Đại Minh Bảo tại Từ
Châu, Bảo truyền cho Vương Sơn Thể tại Thái Nguyên. Thể truyền cho Tuyết Nham
Mãn ở Đại Minh tại Từ Châu, Mãn truyền cho Vạn Tùng Tú ở Báo Ân tại Yến Kinh.
Tú truyền cho Tuyết Đình Phước Dụ ở Vạn Thọ tại Thiếu Lâm, Dụ truyền cho Linh
Ẩn Văn Thái tại Cao Sơn. Thái truyền cho Hoàn Nguyên Phước Ngộ tại Bảo Ứng, Ngộ
truyền cho Hưởn Quật Văn Tài ở Hương Nghiêm, Tài truyền cho Tùng Đình Tử Nghiêm
ở Vạn An tại Nam Dương. Nghiêm truyền cho Ngưng Nhiên Liễu Cải ở Cao Sơn. Liễu
Cải truyền cho Câu Không Khế Bân tại Cao Sơn. Khế Bân truyền cho Vô Phương Khả
Tùng ở Định Quốc tại Tây Kinh, Khả Tùng truyền cho Hư Bạch Nguyệt Đơn Văn Tải
tại Cao Sơn. Đơn Cải truyền cho Tông Cảnh Đại Chương Tôn Thư ở Tiểu Sơn tại Bắc
Kinh. Tôn Thư truyền cho Đại Thiên Huyễn Hữu Thường Nhuận tại Cao Sơn và Bẩm
Sơn Thường Trung.
Từ Đại Giám trở
đi là 34 đời. Trở lên là phái Thanh Nguyên.
- Chứng nghĩa
ghi rằng, y cứ các sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, Tục Đăng Tồn Kiều, Chánh Nguyên
Lược Tập v.v… Hai tông Lâm Tế và Tào Động biệt xuất nhiều chi phái không thể
lục đủ hết được. Ở đây chỉ ghi một phái chính để làm sáng tỏ nguồn gốc. Sau Nam
Nhạc ngoài phái chính ra lại có thêm Đại Huệ Cảo và Đoạn Kiều Luân là hai chi
nữa, lấy người của chi phái đưa lên làm chỗ trọng yếu. Lại dưới Đại Giám 4 đời
kiệt xuất phái Qui Sơn Linh Hựu, Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, đó là
tông Qui Ngưỡng. Lại nữa sau Đại Giám 7 đời xuất hiện phái Vân Môn Yến, đó là tông
Vân Môn. Ngoài ra, dưới Đại Giám 9 đời có Pháp Nhãn Văn Ích, đó là tông Pháp
Nhãn. Như vậy, 3 tông này đều đã không có kế thừa cho nên không đưa ra gốc gác.
2.18
Phụ: Thiên Thai giáo quán tông
Thiên Thai một
tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi
rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm
sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống
Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí Nghiễm Đức An (Trí Giả),
Trí Giả là tổ thứ tư.
Lấy nhất niệm
hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở
quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở
Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai.
Trí Giả truyền
xuống Chương An Quán Đảnh Phi Phàm là tổ thứ năm, Phi Phàm truyền cho Pháp Hoa
Trí Uy là tổ thứ sáu, Trí Uy truyền cho Thiên Cung Huệ Oai là tổ thứ bảy, Huệ
Oai truyền cho Tả Khê Huyền Lãng Huệ Minh là tổ thứ tám. Huyền Lãng truyền
xuống Kinh Khê Trạm Nhiên là tổ thứ chín, Trạm Nhiên truyền xuống Quốc Thanh
Đạo Toại Hưng Đạo là tổ thứ mười, Hưng Đạo truyền cho Quốc Thanh Quảng Tu Chí
Hành là tổ mười một. Chí Hành truyền cho Vật Ngoại Chánh Định là tổ mười hai.
Chánh Định truyền cho Nguyên Tú Diệu Thuyết là tổ mười ba, Diệu Thuyết truyền
cho Thanh Tủng Cao Luận là tổ mười bốn. Cao Luận truyền cho Loa Khê Nghĩa Tịch Thường
Chiếu là tổ mười lăm, Thường Chiếu truyền cho Minh Châu Bảo Vân - Nghĩa Thông
Tánh Viễn là tổ mười sáu. Tánh Viễn truyền cho Tứ Minh Tri lễ Ước Ngôn Pháp Trí
là Tổ mười bảy. Pháp Trí truyền cho Nam Bình Phạm Trăn là Tổ mười tám. Phạm
Trăn truyền cho Tùng Giản Từ Biện là Tổ mười chín. Từ Biện truyền cho Xa Khê Trạch
Khanh là Tổ 20, Trạch Khanh truyền cho Trúc Am Nghi Ông Khả Quán là Tổ 21. Khả
Quán truyền cho Bắc Phong Nguyên Thật Tông Aán là Tổ 22, Tông Aán truyền cho
Phật Quang Pháp Chiếu là Tổ 23. Pháp Chiếu truyền cho Tử Đình Sư Huấn là Tổ 24,
Huấn truyền cho Đông Minh Huệ Nhựt là Tổ 25. Huệ Nhựt truyền cho Phổ Trí Vô
Ngại là Tổ 26, Vô Ngại truyền cho Nam Thiên Trúc Lâm Huệ là tổ 27. Lâm Huệ
truyền cho Đông Thiền Nguyệt Đình Đức là Tổ 28, Đức truyền cho Tôn giả Diệu
Phong Chân Giác Bách Tùng là Tổ 29. Đó là thời trung hưng của Giáo Quán Tông.
Kệ truyền pháp
của Thiên Thai Giáo Quán như sau:
Chân truyền
chánh thọ
Linh nhạc tâm
tông
Nhứt thừa đốn
quán
Ấn định
cổ kim
Niệm khởi tịch
nhiên
Tu tánh lãng
chiếu
Như thị trí đức
Thể bổn huyền
diệu
Nhân duyên sanh
pháp
Lý sự tức
không
Đẳng danh vi
hữu
Trung đạo viên
dung
Thanh tịnh phổ
biến
Cảm thông ứng
thường
Quả huệ đại
dụng
Thật tướng vĩnh
phương.
Dịch nghĩa:
Chân truyền
chánh pháp
Linh nhạc ấn
tâm
Nhứt thừa giáo
quán
Xưa nay hướng
chân
Khởi niệm lắng
trong
Tự tánh sáng
soi
Trí đức làu
thông
Thể tánh thậm
thâm
Nhân duyên sanh
pháp
Sự lý đều
không
Sẵn danh là hữu
(có)
Trung đạo viên
dung
Thanh tịnh vô
cùng
Mọi nơi cảm
thông
Trí huệ diệu
dụng
Thật tướng hằng
luôn…
Lại lập kệ tiêu
biểu thực hành như:
Phật pháp rộng
truyền
Tổ đạo sâu
hoằng
Thành lập tôn
chỉ
Năng sở tịnh
nhiên
Công hành thật
hiển
Thông tỏ hẳn
yên
Vạn pháp biến
hiện
Hai, ba tinh
chuyên
Ngộ nhập pháp
môn
Giáo hóa đồng
hành
Ta, người lợi
lành
Rốt ráo sáng
thanh
Khai thông
nguồn mạch
Chỉnh đốn cương
lãnh
Đời đời giữ
thường
Luôn làm thuyền
nương…
Từ đây trở
xuống các phái khá phức tạp, nay chỉ lục ghi một chi của Linh Phong. Ngài Bách
Tùng truyền Thiên Thai cho U Khê Vô Tận Truyền Ðăng là tổ thứ 30, Đăng truyền
xuống Hiểu Phong Linh Phong Ngẫu Ích Trí Cưu Tố Hoa là Tổ 31. Phái Linh Phong
giáo quán biệt xuất kệ như sau:
Trí sáng chân
như hiện
Bản tánh khởi
thật tu
Gốc chính phân
ngăn dứt
Nguồn chân biển
giác lưu
Giữ tín bồi
nhân tốt
Nguyện rộng đạo
càng sâu
Luật lệ bàn qui
tắc
Đạo pháp vững
ngàn thu…
Trí Cưu truyền
Thương Huy Tịnh Thạnh, Tịnh Thạnh truyền cho Cảnh Tu Chân Minh, Chân Minh
truyền cho Lý Nguyên Như Hồng. Như Hồng truyền cho Tố Liên Hành Châu, Hành Châu
truyền cho Huệ Giác Toàn Thành. Toàn Thành truyền cho Hoằng Hải Tánh Phô. Từ
Long Thọ trở đi đây là đời Tổ 37.
Đây lược tựa
Thai giáo Chánh Tông Nguyên Ủy, những phái khác khá phức tạp không tiện đăng
tải rõ từng phái một được.
- Chứng nghĩa
ghi rằng, Thai Tông Nguyên Lưu một cuốn và Chỉ Nguyên Tập, các Tổ đều có tiểu
truyện. Chỉ có Tổ thứ 28 trong sách Nguyên Lưu là Thiền truyện Minh Ông, trong
sách Chỉ nguyên là Nguyệt Đình Đức Công. Căn cứ theo Đông Thiền Minh Ông mất
vào năm Vạn Lịch nguyên niên. Bách Tùng sanh năm Đinh Dậu đời Gia Tĩnh, năm 22
tuổi tới chùa Đông Thiền nghe kinh Pháp Hoa. Tuy cùng một thời nhưng Đông Thiền
là chủ giảng còn Nguyệt Đình là pháp sư (người giảng pháp) không phải là Minh
Ông. Nên sách Chỉ Nguyên tập cho rằng Bách Tùng xuất phát từ cửa của Nguyệt
Đình Đức Công. Chỉ có sách Nguyên Lưu nêu trực tiếp Minh Ông là đời thứ 29; cần
phải quyết nghi đã. Khảo cứu lại chùa Lâu Trạch ở Gia Hưng có xuất bản một cuốn
sách Thế phổ Thiên Thai tông đi thẳng cho Diệu Phong Bách Tùng là Tổ thứ 18. Ở
trên trực tiếp Tứ Minh lấy nối hưng thạnh Tông Thiên Thai làm giao tiếp vậy.
Nhiều đời nhìn chung rất xa cháu con không được ghi chép, cho chí mạch nguồn
không theo khảo sát kỹ. Việc này không riêng Thai Tông như vậy. Ngày nay pháp
mạch Đài Tông đều truyền bá thạnh hành các nơi. Có những cuốn như Chỉ Nguyên
tập, Thế Hệ Nguyên lưu… cần nên tham khảo, vì để tiếp nối dòng pháp. Nên phải
tùy lúc, tùy nơi lưu tâm ghi lại để duy trì về lâu về dài. Thậm chí kệ truyền
pháp của Bách Tùng xử dụng để định danh; tiêu biểu hạnh dùng để lập hiệu. Vì
thế pháp mạch chân truyền tức tiêu biểu hạnh của giáo pháp. Pháp tiêu biểu cả
hai không trước và cũng không sau vậy.
2.19
Phụ: Hiền Thủ giáo quán tông
Tông Hiền Thủ
chuyên xiển dương kinh Hoa Nghiêm. Từ Bồ Tát Văn Thù kết tập cho tới Long Thọ
đích thân tới Long Cung đọc nốt bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tại Đông Độ Tông Hiền Thủ
có 5 nhà kế thừa làm Tổ; theo kế thừa thời ứng hợp như Đài Tông, Long Thọ là Tổ
thứ nhất, Đỗ Thuận Đế Tâm tạo Hoa Nghiêm pháp giới quán là Tổ thứ hai. Đổ Thuận
truyền cho Vân Hoa Trí Nghiễm Chí Tướng chế tác Hoa Nghiêm sưu huyền nghĩa sao
là Tổ thứ ba. Tướng truyền Pháp Tạng Hiền Thủ Quốc Nhất chế dịch Hoa Nghiêm
Thám Huyền Ký đời Tấn, Nhất thừa giáo nghĩa phân tề chương v.v… trước thuật có
hơn trăm quyển, để hoằng truyền giáo quán gọi Tông Hiền Thủ là Tổ thứ tư. Pháp
Tạng truyền cho Trừng Quán Đại Thức Thanh Lương Quốc Sư Tông Đường dịch kinh
Hoa Nghiêm biện chế sớ sao là Tổ thứ năm. Thanh Lương truyền cho Khuê Phong
Tông Mật sáng tác Hoa Nghiêm hạnh nguyện phẩm sao là Tổ thứ sáu. Tông Mật
truyền cho Huyền Khuê Chân Áo Triệt Vi là Tổ thứ bảy, Triệt Vi truyền cho Hải
Aán Nguyệt Lãng Bỉnh Nhiên là tổ thứ tám. Bỉnh Nhiên truyền cho Thủ Đăng Đức
Hiện là Tổ thứ chín. Trường Thủy Tử Tuyền Dao kế thừa là Tổ thứ 10, Tịnh Nguyên
Tịch Hải Tiềm Duệ là tổ 11. Hy Xung Thần Giám Thừa Chiếu là tổ 12, Diệu Quán Đạo
Minh Trạm Nhân là Tổ 13. Sư Hội Qui Nguyên Ngọc Phong là Tổ 14. Liễu Tâm Thâm
Đạo Huệ Châu là Tổ 15. Đạo Ngộ Bổn Giác Quán Huệ là Tổ 16, Thanh Giới Nhứt Như
Khiết Am là Tổ 17. Huệ Quỳnh Lương Bích Trân Lâm là tổ 18, Diệu Túy Siêu Luân
Chân Thúy là Tổ 19. Tế Ngộ Xuân Cốc Lực Thân là Tổ 20, Đại Đồng Nhất Vân là Tổ
21 (Phổ Tế biệt phong). Minh Sơn Hiền Tiên Cổ Phong là Tổ 22, Thê Nham Huệ Tấn
Hành Thành Chỉ Ông là Tổ 23. Quảng Thông Đạt Am là Tổ 24, Tô Am Phổ Thái Giả Am
là Tổ 25. Chân Viên Đại Phương Biến Dung là Tổ 26, Vân Thê Liên Trì Thù Hoằng
Phật Huệ là Tổ 27. Thổ Kiều Thiều Giác Quảng Thừa Minh Lý là Tổ 28, Liên Cư Tân
Y Đại Chân là Tổ 29, Bảo Luân Đức Thủy Minh Nguyên là Tổ 30.
Đây là phần sơ
lược truyền thừa của Hiền Thủ Chánh tông, các phái khác khá phức tạp không thể
đăng tải rõ từng chi được.
2.20
Phụ: Nam Sơn Luật Tông
Nam Sơn Luật tông
chuyên xiển dương luật học (tỳ ni). Tỳ ni Tàu dịch là diệt, tức hay diệt ác của
thân và miệng; cũng còn gọi là luật pháp. Luật do Phật chế nhưng kết tập thành,
không phải một người làm nên được. Lần đầu tiên Ngài Đại Ca Diếp cùng với 500
Thánh chúng kết tập trong hang Tất Bát La và Ưu Bà Ly tuyên lại luật tạng gọi
là Thượng Tọa bộ. Kế đó có Bà Thi Ca và 1000 người phàm lẫn Thánh kết tập ngoài
hang đá gọi là Đại chúng bộ. Hai kỳ kết tập này gọi chung là Ma Ha Tăng Kỳ
Luật. Từ Ngài Ca Diếp, A Nan, Mạt Điền Địa, Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa là 5
đời thể thức chung không có phân phái. Sau Ưu Ba Cúc Đa có 5 đệ tử, mỗi người
có một lối nhìn bèn phân Luật tạng thành 5 bộ phái như:
1) Đàm Vô Đức
tức là luật Tứ Phần
2) Tát Bà Đa bộ
là Thập Tụng luật
3) Ca Diếp Di
bộ là Giải Thoát luật
4) Di Sa Tắc bộ
là Ngũ Phần luật
5) Bà Tha Phú
La Bộ.
Luật bổn tương
lai tại Trung Hoa như Ngài Diệu Lạc cho rằng, phân thành một tạng Luật để làm 5
bộ như gậy vàng không mất chất vàng. Y cứ theo 10 đại đệ tử của Phật, Ngài Ưu Ba
Ly trì luật đệ nhất. Ngày nay bên Đông Độ ta có một tông trì luật thích hợp
chọn Ưu Bà Ly tôn giả là Sơ Tổ. Lần lượt truyền thừa đến Đàm Ma Ca La (Trung
Hoa dịch là Pháp Thời là vị Sa Môn Tây Trúc Ấn Độ), vào đời Ngụy Gia Bình năm
thứ hai, Ngài đến Đông Độ phiên dịch luật Tứ Phần, là sơ Tổ truyền luật tại
Đông Độ. Bắc Đài Pháp Thông, người thời Hiếu Nguyên Bắc Ngụy, nhân học luật
Tăng Kỳ kỹ lưỡng, đứng đầu truyền luật Tứ Phần là Tổ thứ hai, Pháp Thông truyền
cho Vân Trung Đạo Phú là Tổ thứ ba. Đạo Phú truyền cho Đại Giác Huệ Quang là Tổ
thứ tư, Huệ Quang truyền cho Cao Tề Đạo Vân Huy Nguyện là Tổ thứ năm. Huy
Nguyện truyền cho Hà Bắc Đạo Hồng là Tổ thứ sáu, Đạo Hồng truyền cho Hoằng
Phước Trí Thủ là Tổ thứ bảy. Trí Thủ truyền cho Chung Nam Sơn chùa Tây Minh:
Đạo Tuyên Thật Tướng Trừng Chiếu là tổ thứ tám. Luật tông truyền tới đây rất
thịnh hành. Cho nên người đương thời thường gọi là tông Nam Sơn.
Về sau kế tục
truyền thừa truyền giữ làm Tổ vị. Trừng Chiếu truyền cho Sùng Thánh Văn Cương
là tổ thứ 9, Văn Cương truyền cho Sùng Phước Mân Ý là Tổ thứ 10. Mân Ý truyền
cho Đại Lượng Đạo Tĩnh là Tổ 11, Đạo Tĩnh truyền cho Đàm Nhất là Tổ 12 (Thiệu
Hưng Khai Nguyên). Đàm Nhất truyền cho Biện Tú là Tổ 13, Biện Tú truyền cho
Chương Tín Đạo Trừng là Tổ 14. Đạo Trừng truyền cho Trừng Sở là tổ 15, Trừng Sở
truyền cho Doãn Kham Chân Ngộ là Tổ 16. Chân Ngộ truyền cho Nguyên Chiếu Trạm
Nhiên là tổ 17, Trạm Nhiên truyền cho Thật Tướng Viên Minh Quang Giáo là Tổ 18.
Quang Giáo truyền cho Đạo Phu Như Huyễn là Tổ 19, Như Huyễn truyền cho Như Hinh
Cổ Tâm Huệ Vân là Tổ 20.
Tới thời này
Luật học trung hưng, hẳn nhiên việc truyền bá sáng tỏ hoàn bị mà trong nhân
gian tương truyền là Ưu Ba Ly hóa hiện. Huệ Vân truyền cho Tịch Quang Tam Muội
(Chùa Long Xương ở Bảo Hoa Sơn, Kim Lăng) là Tổ 21. Tới đây Luật tông thạnh
hành có biệt xuất kệ như:
Như tịch độc
đức chân thường thật
Phước tánh viên
minh định huệ xương
Hải ấn phát
quang dung giới nguyệt
Ưu đàm hiện
thụy tục thiên hương
Chi kỳ vạn phái
luật nguyên viễn
Quả kết thiên
hoa tông bổn trường
Pháp thiệu Nam
Sơn hoằng chánh mạch
Đăng truyền tâm
địa vĩnh liên phương.
Dịch nghĩa:
Chân như độc
đức đúng chân thường
Phước tánh định
huệ đạt viên thành
Hải ấn chiếu
soi trăng giới sáng
Vô ưu hoa hiện
tỏa ngát hương
Rõ ràng môn
phái luật truyền xướng
Kết quả đơm hoa
đạo pháp trường
Nam Sơn cật lực
lưu nguồn mạch
Tâm đăng mãi
mãi rạng ngàn phương.
Tam Muội truyền
cho Độc Thể Kiến Nguyệt là Tổ 22, Kiến Nguyệt truyền Đức Cơ Định Am là Tổ 23.
Định Am truyền Chân Nghĩa Tùng Ân là Tổ 24, Tùng Ân truyền Thường Tùng Mẫn
Duyên là Tổ 25. Mẫn Duyên truyền cho Thật Vinh Trân Huy là Tồ 26, Trân Huy
truyền Phước Tụ Văn Hải là Tổ 27, Văn Hải truyền Tánh Ngôn Lý Quân là tổ 28.
Tới đây lược, vì các môn phái Luật quá nhiều không thể nêu rõ ràng từng phái
hết được.
Chứng nghĩa ghi
rằng, người xuất gia là sự bắt đầu ở trong đại chúng; phó pháp là việc chung
cục giữa chúng lý. Người không cạo tóc không có lý do gì mà vào hàng ngũ tăng
được. Đã làm Tăng bèn lấy hai buổi công phu sáng tối làm công khóa (thời khóa
chung). Tấc bóng qua nhanh nhưng không biết việc sanh tử đại sự; chí cầu hướng
thượng chỉ một bề để mong được truyền tâm, thọ ký ư? Ở đây đặc biệt nêu việc
phó pháp mà các đời chư Tổ Thiền tông truyền thừa cho nhau. Như trên đã chỉ rõ
mô hình nêu mạch nguồn mà môn nhân (hạ) đạt đến. Nhưng nếu Giáo giúp minh tâm, Luật
làm nền cho định huệ cũng là phụ thuộc; chỗ thích hợp vẫn là luật tôn giáo toàn
vẹn, việc tu tập của đại chúng được hoàn bị mới đáng đề cập hơn cả.
[1] Ngũ đức:
năm đức người xuất gia theo như Kinh Phước Điền giải rằng: 1. Đức phát tâm xuất
gia, chí cầu đạo cả; 2. Hủy bỏ hình tướng đẹp, phải mặc y phục nhà tu; 3. Cắt
lìa mọi yêu thương của cha mẹ, anh em, chị em. Nói chung là tất cả những mối
thâm tình cốt nhục không còn bị vướng bận, 4. Sẵn sàng hy sinh thân mạng để phụng
sự đạo pháp; 5. Có chí hướng cầu Đại thừa để giúp đỡ nhiều người mà trong đó
gần nhất là người thân thuộc.
[2] Hai sự
nhiếp hóa: thâu tóm để giáo hóa. Hai pháp đó là: định và trí, nhờ đó Bồ-tát
nhiếp được các căn; nhẫn được việc khó nhẫn.
[3] Giới kiền
độ: thuộc chương phẩm, thiên. Như luật Tứ Phần có 20 kiền độ tức là 20 chương.
[4] ) Phái
Ni kiền tử: là một giáo phái tu hành cực đoan lâu đời có từ thời đức Phật, gọi
là đạo Jain. Giáo chủ phái này là Nataputta. Đạo Jain chủ trương tu khổ hạnh,
xem việc hành hạ xác thân là phương tiện cứu cánh để được giải thoát. Đạo này
ngày nay vẫn còn tại Ấn Độ. Thậm chí có những tu sĩ đạo Jain trần truồng, không
mặc quần áo. Cũng có một số khác nhịn ăn cho tới chết.
[5] Tứ thánh
quả: 4 quả Thánh thuộc hàng Thanh Văn là 1. Tu Đà Hoàn, 2. Tư Đà Hàm, 3. A Na
Hàm, 4. A La Hán (tương đương quả vị Bồ Tát).
[6] Ngũ giới
Ưu bà tắc hay 5 giới của người cư sĩ tại gia. Tại gia có nam cư sĩ là Ưu bà tắc
và nữ là Ưu bà di. 5 giới đó là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không uống rượu.
[7] Tứ sự
cúng dường: bốn món vật dụng cần dùng cúng dường chư Tăng là: đồ ăn uống, quần
áo, thuốc men, vật trải tọa thiền (luôn cả mùng mền) để chư tăng có đủ phương tiện
tu tập thực hành đạo giải thoát.
[8] Bố tát:
Lễ tụng giới của chư Tăng ni vào ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng để ôn nhắc
lại giới luật đã thọ. Tỳ kheo Bồ Tát mà không tụng giới Bố tát được xem như lơ
là không hành trì theo luật qui định.
[9] Thập sư:
Hội đồng giới sư trong đại giới đàn truyền giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa
di ni, Bồ tát giới. 10 vị sư là: 1. Đàn đầu hòa thượng 2. Yết ma A Xà lê 3.
Giáo thọ A Xà lê và 7 vị tôn chứng sư, từ vị thứ nhất đến vị thứ 7. Ba vị
ngồi trên là tam sư, 7 thầy ngồi 2 bên hay phía dưới là thất vị tôn chứng sư.
[10] Bốn
pháp xử xự: đây là bốn cách đối ứng sao cho thích hợp của Thầy Tỳ kheo. bốn
phép đó là: 1. bị mắng không mắng trả lại, 2. bị hạ nhục không hận tìm cách trả
lại, 3. bị đánh không đánh trả lại, 4. bị giết không giết lại.
[11] Bốn nơi
nương tựa: cũng thuộc pháp của Thầy Tỳ kheo theo đúng hạnh xả, ngày ăn một bửa,
đó là: 1. nương tựa bốn pháp y, 2. nương tựa chiếc bình bát đi khất thực để
nuôi thân, 3. nương tựa Tăng đoàn, 4. nương tựa gốc cây, như ngày nay tự viện
hay nơi thanh tu thích hợp.
[12] Đột
kiết la: tội nhẹ của chúng Tỳ kheo. Phạm tội này phạt cảnh cáo để sửa đổi. Ðó
là tiểu giới thuộc 100 pháp chúng học; có thể sám hối và tự sửa đổi, không cần
đưa ra kỷ luật.
[13] Ngũ
thiên thất tụ: năm thiên bảy tụ giới của Tỳ kheo trong 250 giới qui định phân
loại theo tội phạm và mức độ xử phạt. 5 thiên đó là:
Thiên 1:
Phạm tội ba la di (trọng tội): phạt đuổi khỏi chùa
Thiên 2: tội
tăng tàn 13 pháp hay 17 pháp (ni), có thể sám hối trước đại tăng, cũng như phạt
làm việc do tăng qui định.
Thiên 3: Tội
ba dật đề hay xả đọa (30 pháp): đưa vật trình ra trước tăng để xả rồi sám hối
tội đáng đọa lạc. Nếu phạm không có tang vật nhưng gây tai tiếng xấu cho tập thể
gọi là pháp đọa.
Thiên 4: tội
thâu lan giá có 3 cấp bực: nặng, vừa và nhẹ ví như cố ý giết mà đối tượng chưa
chết, hay âm mưu bại lộ việc bất thành…
Thiên 5: ác
tác và ác thuyết – nói bậy và làm bậy, vi phạm bị phạt nhẹ như vi cảnh vậy.
Thất tụ là 7
nhóm giới như sau: Nhóm 1: 4 pháp cực ác; Nhóm 2: 13 pháp tăng tàn; Nhóm 3: 30
pháp xả đọa; Nhóm 4: 90 tội đọa; Nhóm 5: 2 pháp bất định; Nhóm 6: 100 pháp
chúng học; Nhóm 7: 7 pháp diệt tranh cải
[14] Diệt
tránh: dứt tranh cải. Đây là giới luật Tỳ kheo cần phải diệt trừ sự tranh cải
nổi lên để an ổn trong chư Tăng.
[15] Thập
triền: 10 món trói buộc làm cho chúng sanh không thoát ra khỏi vòng sanh tử. đó
là: 1. Vô tàm, 2. Vô quí (không biết hổ), 3. tật (ganh ghét), 4. xan (keo
kiệt), 5. sân (hờn giận), 6. thụy miên (ham ngủ), 7. trạo cử (tâm chập chờn dao
động), 8. hôn trầm (tối tăm, chìm đắm), 9. sân nhuế (giận dỗi, nổi xung thiên),
10. phú (tráo trở, che mù tâm).
[16] Thập
sử: 10 mối sai khiến, vì phiền não có sức sai khiến chúng sanh hành động sai
lầm để tạo nghiệp được chia làm 2 loại: lợi và độn (trì trệ, nặng nề) – Tham,
sân, si, mạn, nghi: 5 độn sử; thân kiến, tà kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm
thủ gọi là 5 lợi sử (nhạy bén).
[17] Nhị
nghiêm: hai pháp phước đức và trí tuệ trang nghiêm, chỉ Phật đạt được trọn vẹn
mà thôi.