BÁCH TRƯỢNG
TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa
môn Thích Bảo Lạc
Chùa Pháp Bảo
Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008
Quyển 6
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào
Thanh.
Mục Lục
1 Ban Chức
Sự
2 Nhà Đông –
Các Chức Vụ
3 Nhà Tây –
Các Chức Vụ
4 Nhà
Tây
5 Nhà
Đông
6 Vâng
Mệnh
7 Mời cơm chay
hay uống trà
Chương 6: Hai Dãy Đông Tây Lang
Thuật rằng, thành
lập 2 dãy nhà là vì chúng, nhân đó đưa ra đề cương làm đạo, chỉnh đốn tông
phong, cho chí kho lẫm, mùa màng đều lo tu bổ sửa sang nên có quan hệ mật thiết
nhau. Cho nên luận việc thế, xuất thế không thể không tập mà thành để được hữu
dụng chung còn vậy. Thứ nữa, hoặc giữ được bản chất, làm hết khả năng không
chấp, không yếu hèn nên tòng lâm nhờ đó mà tốt đẹp. Nhà Đông Tây tuy xưa phân
ra hai, nhưng chung làm việc không phân đây kia, không hiềm cao thấp. Xét lại
đời nay đương nhiên không còn hợp thời đại nữa. Vã lại không có trong ngoài,
phân chia cao thấp, tùy thời hợp chỗ mà thích nghi. Sự tuy chẳng cũ mà lý không
sai lầm, chí như lấy quyền xem công việc, kết bè đảng độc đoán cốt để huyênh
hoang, đó cơ hồ chẳng xứng đáng, đâu chẳng sai lầm lắm sao!
Đây chủ yếu là
do cẩn thận chọn người chịu làm việc. Thích hợp thời trưng lời Phật Tổ dạy để
răn dè, dung hòa các quy ước mà khéo điều hợp, ngõ hầu không bỏ phí của, người
không bỏ việc, hoặc miệt mài trong việc tăng, hoặc tọa thiền, lo chuyên tu. Quy
tắc lão Tổ không xa cách ngày nay vậy.
1.1 Ban Chức Sự
Ban Chức Sự điều
hành công việc tòng lâm, cũng như những công việc khác, phải có người trách
nhiệm quán xuyến trông coi để thiền môn có quy củ, kỷ cương. Tuy có một số việc
ngày nay không còn thích ứng, nhưng vẫn phải giữ nguyên như củ, ví dụ gánh
nước, bửa củi, tuần sơn…Vì đó là những phần vụ quan trọng nơi các tăng viện,
cần đòi hỏi người có sức khỏe và trẻ trung mới chu toàn được.
(Ghi thêm của
người dịch: gánh nước, bửa củi, giả gạo là 3 việc mà hầu hết ở các thiền môn
xưa đều phải phân ban đảm trách lo cho đại chúng. Thế nhưng từ khi có điện nước,
máy móc thay thế… mọi việc đã trở thành nhẹ nhàng đỡ phải ra sức lao động chân
tay như trước nữa. Vào thập niên 1950 tại Việt-Nam, một số các chùa lớn ở miền
quê, miệt núi vẫn còn xài đèn dầu, chụm củi đốn trên núi, gánh nước bằng thùng
thiếc hiệu con sò. Đó là chưa kể những ngôi chùa trên núi cao không có nước,
phải xuống tận bên dưới đất liền lấy nước xài, là một việc không đơn giản. Muốn
có gạo ăn phải xay lúa, giả gạo vất vả mới có hạt cơm để ăn. Như vậy, mọi tiện
nghi vật chất chỉ mới phổ biến trong vòng không đầy 100 năm trở lại đây).
1.2 Nhà Đông –
Các Chức Vụ
1.
Đô Giám
2.
Giám Viện
3.
Duy Na
4.
Phó Trụ Trì
5.
Quản Chúng
6.
Tiếp Khách
7.
Tri Sự
8.
Duyệt Chúng
9.
Trị Tuế
10. Trông
coi phòng tắm
11. Trông
coi lặt vặt
12. Thủ
Quỷ
13. Y Bát
14. Y tế
- Thuốc men
15. Thỉnh
Khách
16. Thị
Giả
17. Trông
coi phòng xá
18. Trông
về sửa chữa
19. Trông
coi bổn sơn
20. Ruộng
vườn
21. Tri
Khố (nhà kho)
Phần Điều Hành
- Hóa chủ (phụ
trách khóa tu, an cư kiết hạ…)
-Thâu nhận vật
phẩm cúng dường
- Hóa phạn ( lo
việc hóa duyên gạo thóc cho đại chúng)
- Trông coi xem
xét xuất nhập kho chứa của chùa
- Trách nhiệm
lo về gạo, nước…
- Lo việc than
củi
- Khuân vác vật
dụng
- Lo việc trà
nước
- Phụ trách dọn
cơm chúng
- Trông coi cửa
nẻo
- Đầu bếp – 2
bửa cơm
- Chuyên trách
nước
- Lo về rau
cải
- Lo việc củi
lửa
- Nhà trù (nhà
bếp)
- Hương Đăng
- Tuần quanh
núi (đi tuần chúng ban đêm)
- Chuyên lo bửa
củi
- Nhắc chúng
cạo tóc
- Coi về viên
cảnh
- Hướng dẫn
khách - biết tùy nghi.
1.3 Nhà Tây –
Các Chức Vụ
1.
Thủ tọa
2.
Tây đường
3.
Nhà sau
4.
Đường chủ
5.
Thư Ký
6.
Tri tạng
7.
Tạng chủ
8.
Tham thiền
9.
Hầu Tổ
10. Đốt
nhang
11. Ghi
chép
12. Hầu
Thánh tăng.
Phần Điều Hành
- Điện chủ
- Liêu nguyên
(phân phối chỗ ở, mền mùng)
- Phân phiên
thỉnh chuông (2 thời sáng tối)
- Phụ trách
trống (chuông trống Bát Nhã, tán tụng)
- Lo về ấn loát
(sách kinh, báo, bản tin…)
- Tuần ban đêm
(canh chúng giờ giấc ngủ nghỉ)
- Thanh chúng
(giữ oai nghi trong chúng)
- Hương đăng lo
việc hương đèn các nơi thờ tự
- Vận thủy –
cung cấp nước xài hàng ngày
- Tháp chủ
(Phật tháp, Viện tháp, tháp Tổ sư…)
- Người già (kỳ
cựu khỏi phải lao tác trong chùa)
- Yên ở thanh
nhàn - Tịnh nhơn (người giúp việc ở chùa)
- Xem bịnh (y
tế)
- Quét dọn
(quyết tước phòng xá, sân vườn)
- Hành giả
- Trông coi
(đất chùa cho tá điền canh tác có người trông coi).
Tăng trị (trực
nhựt): chức vụ này không ở trong 2 dãy Đông-Tây nên phải để riêng rẻ ở một
khoản. Ngày… tháng… năm… Trụ Trì… sao lục.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Thanh Quy cổ, Phật pháp là trọng nên trước là nhà Tây, sau là nhà Đông.
Tòng lâm ngày nay cứ theo sự mà làm, nên trước nhà Đông mà sau nhà Tây, là tên
gọi ban chức sự 2 dãy đông – tây lang. Đây chỉ nói đại khái mà thôi, mỗi dãy
nhà thêm bớt trước sau tùy nghi chứ không câu nệ cổ; cũng như ban chức sự được
niêm yết tại trai đường, mỗi ban lãnh phần hành dùng một cuốn sổ nhỏ, tên người
phụ trách rồi dán lên. Ngoài ra ở phòng khách, dùng một bảng lớn chiếu theo như
trai đường mà viết đủ chi tiết hơn. Viết từ trong đến bìa theo hàng ngang, trên
đề: Ban chức sự, dưới ghi rõ các chức vụ và người phụ trách chữ đứng, dòng bên
phải viết đề mục, dòng cuối cùng bên trái đề ngày tháng năm, Trụ Trì…Bởi vì,
chúng ở tòng lâm khó biết hết được từng người, như có việc mới đề ra, khó kiểm
soát hết, một khi thấy rõ phần hành nhân sự, vì thế chấp hành dễ dàng làm việc,
trước hết ở bản này nêu rõ các phần vụ khiến mỗi chúng hiểu rõ không để có sự
lầm lẫn. Ngoài ra, theo qui định ở thiền đường, giảng đường đều có ban chức sự,
đây không đưa vô, vì không có trong nguyên bổn, chẳng dám trái vậy. Lại, phàm
sung vào ban chức sự, không luận trình độ cao thấp mà phải là người nhiệt thành
tận tâm biết lo cho Tam Bảo, không vì nhân ngã, vinh nhục mà sanh tâm phân
biệt. Ví như vì quên tình nghĩ bỏ qua hẳn phàm Thánh vắng lặng; bửa củi, gánh
nước v.v…hết thảy là thiền cơ, chấp lao phục dịch (làm việc lao tác) đều là
diệu dụng. Mỗi một vị đứng đầu hiểu rõ thiền định, các pháp thông tỏ là viên dung
duy thức. Do vậy, trí hiểu biết, hạnh nguyện không kém khuyết. Hai dãy Đông-Tây
chia ra thành 10 liêu như mục lục ở trước.
1.4 Nhà Tây
Thủ Tòa: Nếu nhà
Tây gọi là Thủ lãnh tiêu biểu tòng lâm phụ tá Trụ Trì phân phiên thuyết pháp,
khai thị đàn em lớp sau. Lãnh chúng ngồi thiền, giữ gìn qui củ, lo cơm cháo
thiếu đủ, nhắc nhở các ban làm việc. Có tăng sinh nào làm mất nghi cách, chiếu
Nội Quy xử phạt. Người già bịnh qua đời, lo lễ lược, chôn thiêu…Phàm làm việc
chúng phải được công cử, như áo có bâu, như lưới có móc vậy. Tuy các bậc tôn
túc ở phương xa, Trụ Trì đều nên lấy lễ tiếp xử, vui trong phận sự để làm hài
lòng người lớn tuổi. Như Ngài Văn Thù làm Thầy của 7 vị Phật, cũng như trợ giúp
Phật Thích Ca giáo hóa, vì chúng làm Thượng Thủ (lãnh đạo). Cho nên Ban Chức Sự
phải chọn lựa kỹ người mà giao phó để chúng phục tùng. Phải là người có đức và
hạnh tu đảm trách công việc mới trôi chảy.
Tại giảng đường
là việc của vị Đô Giám. Vai trò thứ nhì của nhà Tây là Thủ Toà, người phải có
tài đức mới xứng hợp lãnh đạo. Song dù ở cương vị lãnh đạo cũng đều là huynh đệ
đồng học nên cẩn trọng, khiêm nhường, hòa nhã; không nên ngã mạn, cống cao để
chúng chê trách.
Những công việc
chính tại giảng đường, hậu đường do Thủ tọa đứng đầu nhà trên trông coi, còn đây
là hậu đường (nhà sau) nên nói vị đầu của ban sau là vậy. Để tán thán tông phong
làm mô phạm chúng chẳng phải công việc thường trụ Tam Bảo mà theo qui tắc là
phương trượng đó.
Đường chủ: Công
việc là trông coi các dãy nhà (nội tự) trong vai trò đôn đốc, kiêm luôn công
việc lo cho người bệnh. Song vì là chủ của một tăng viện cũng phải có tài đức
kiêm toàn, từ bi vì chúng mới là quan trọng. Cho đến thiền đường, Đường chủ
kiêm luôn việc phụ trách khai thị đại chúng nên cũng liên quan rất nhiều tới
ban thủ.
Chứng nghĩa ghi
rằng: trở lên tòng lâm có 4 chấp sự, chia phân thành 4 trưởng ban, nhưng vai
trò quan trọng nhất là Thủ Tọa. Bởi Trụ Trì công việc nhiều không có tâm phân
biệt đối xử, nếu có là có người chuyên quyền. Khai thị răn nhắc, có biện pháp
ngăn dè để không cô lập người tới học, là đều do vai trò Thủ tọa. Xưa có Linh
Thọ Chi ở với Vân Môn phải đợi trải qua nhiều năm mới được cử làm vai trò này,
há không thận trọng hay sao? Nếu các chức vụ nhà Tây chưa có người trách nhiệm,
nên để trống, trừ những chức vụ khác khuyết phải bổ túc, làm cho ngọn đèn Tổ được
lưu truyền mãi mãi.
Thư Ký viết các
văn bản, nhất là nét chữ phải rõ ràng, không viết thảo khó đọc, nghiên cứu kinh
điển căn bản đạo Nho, đạo Phật tinh thông mới có thể thích hợp trong vai trò
này.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Cổ nhân chỉ vì việc lớn là thoát ly sanh tử. Khi rãnh nhàn lấy văn tự làm
thú tiêu khiển điều hành công việc; sau việc vui nhàn để khai mở nhãn quan cho
những người sau; không chuyên dùng từ văn vẽ là công vậy. Nhưng gần đây trong tăng
giới hầu như muốn dùng văn hoa như là sở trường, đến nổi hoặc lưu lại nét bút
thần tình, gởi hứng nơi cầm kỳ (đàn và cờ tướng) thi họa gọi là thú tao nhã;
nhưng toàn quên hẳn tịnh tu, việc sanh tử đến nhanh không đợi một ai.
Chích Cổ ghi
rằng: Bạch Trưởng Lão núi Nga Mi làm cả nghìn bài tụng cổ để ép Tuyết Bảo sơn
chủ Đại Hòa, nhổ nước bọt vào mặt nói: “con quạ đen này thối lắm nên bay đi kẻo
mùi hôi dính tới người ta, huống chi còn muốn hơn người ư?” Ngu Am có bài tụng
rằng:
Vì tăng tăng
say men văn tự
Tham thiền
thiền tại tụng thiên thủ
Từng hiểu văn
không nằm trên giấy
Cùng luận đạo
đạo chẳng khai thông.
Ông không thấy
Đại Tạng có tới nghìn quyển, pho sách đầy 2 giá, văn chương tuyệt kỹ như vậy
sao? Đạo sáng là cái tinh tế, cái thấy của Khổng Tử về tuyết trắng uống một giọt
sáng cười lên không có gì là Hữu, Thượng Tọa Tú giống mọi rợ miền Tây Nam. Một bên
không biết làm lụng, một bên ít văn tự, y pháp ai truyền không mất? Tuyết Bảo trăm,
ta nghìn, tiếng mèo rừng kêu, sư tử rống, ôi! Là thư ký phải nên biết đó, từ
trưởng lão trở xuống đều phải biết đó.
Tri Tạng tinh
thông kiến thức, tạng chủ trông coi về đại tạng kinh cũng thuộc phần vụ, nên
hợp lực bảo vệ kinh tạng. Phàm kinh để theo pho hàm, tu bổ trang thiếu rách, cho
đến việc cho sách vô lấy ra v.v…đều do Tri Tạng trông coi tổng quát; còn Tạng
Chủ phân công việc. Tạng chủ giữ Kinh, giữ khóa tủ Kinh, phàm sách Kinh không
cho mượn mang ra ngoài mà chỉ giới hạn trong sơn môn. Ngày trời hạ nắng tốt đem
Kinh ra phơi, lúc thâu cất vào hàm phải kiểm tra số thứ tự, không nên để sổ rớt
mất thứ tự. Người mượn xem phải ghi vô sổ, ngày tháng năm, tên người mượn, mượn
Kinh gì, hàm số mấy. Khi trả kinh lại mới xóa sồ. Nếu người mượn tạm và do việc
riêng cần đi xa, trước kiểm tra lấy lại; làm mất kinh bắt đền bồi hoặc cho ra
khỏi chùa. Phàm giao trả cho ban quản lý nên tại phòng khách, nhà kho hay tại
phòng Tri Tạng. Mỗi mỗi kiểm điểm lại rõ ràng, giữa chúng bàn giao qua nguời
mới; người làm thiếu phải chịu trách nhiệm bồi thường (Niêm yết tại thiền
đường).
Chứng nghĩa ghi
rằng: pháp là một trong Tam Bảo mà Phật lấy pháp làm Thầy, thì pháp quan trọng
đứng đầu. Hai vị chuyên trách Đại Tạng (pháp bảo) nên trân trọng cẩn thận.
Duy Na, dẫn
chúng thủ chuông ngắt nhịp, dứt đoạn Kinh. Việc nội tự do một người trông coi,
hai thời công phu, đôn đốc lãnh chúng giờ giấc thuyết pháp, thủ hiệu lệnh và
hết thảy các việc hồi hướng, phục nguyện… lấy âm thanh làm Phật sự mà trách
nhiệm này rất quan trọng. Phàm trong viện làm mất oai nghi tuân theo nội qui xử
phạt, không được dung dưỡng, nên phải huấn luyện người chánh trực nhận vai trò
này. Như Trụ Trì có phạm cũng phải không một chút tư vị (riêng tư). Nếu có
trình thưa Hòa Thượng phải chấp tay, quỳ gối ngay ngắn tỏ bày.
Duyệt Chúng thủ
mõ, cùng Duy Na thay nhau làm việc tùy theo số người. Nếu đông là 2, 3, 4
người. Trường hợp Duy Na vắng mặt, Duyệt Chúng thay thế. Mỗi tuần lễ 7 ngày
luân phiên nhau phụ trách 2 thời khóa tụng; ngoài ra những lễ quan trọng khác
lập thành 2 phó ban để bổ sung với số đông người. Rằm, Mồng Một thu nhận đồ vật
cúng, dạy người mới tham thiền, chỉ cách lễ v.v… Mọi việc Phật sự tụng niệm phân
công rõ ràng. Người rành lễ nghi phép tắc có thể nắm giữ vai trò này.
Tham Đầu (tham
câu thoại đầu), người đứng đầu thiền đường trông coi việc tham thiền, tham học
kẻ hậu học. Là người chủ trì quán sát xét nghiệm công phu, khai thị kẻ hậu học,
giúp đỡ tham thiền, chẳng phải việc thừa. Việc thiền đường bắt đầu từ Thủ Tọa
đến Tham Đầu là ngừng; cần phải chọn nói câu thoại đầu nào đầy đủ không vượt trình
độ người nghe. Thủ Tọa ở nhà Tây đều không được thuyết (thoại đầu). Tây đường,
hậu đường trở xuống không được thuyết, cho chí Duyệt Chúng trong lúc tham thiền
cũng không thuyết thoại đầu.
Chứng nghĩa ghi
rằng: y cứ sách phiên dịch danh từ, Duy Na là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là thứ
tự, có nghĩa là biết việc tăng theo thứ tự. Sách Tam Bảo cảm ứng lục ghi rằng:
thời Lưu Tống niên hiệu Thái Thủy có Ngài Thích Huệ Quả chùa Ngõa Nghi tại
Dương Châu, lúc trẻ tụng Kinh Pháp Hoa và Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa, bổng
nhiên thấy có một con quỉ xuất hiện chỗ nhà xí, Ngài thành kính nói rằng:
-
Ngươi trước kia trong tăng làm Duy Na không đúng như pháp bị đọa địa ngục, nay
sanh làm quỉ thích ăn phẩn nhà xí.
-
Pháp sư vì lòng từ bi xin mong cứu giúp hộ. Truớc tôi có 3000 quan tiền chôn
dưới cây thị, mong Ngài lấy lên làm phước.
Ngài Huệ Quả
bảo chúng đào lên quả nhiên thấy tiền, rồi cho tụng Kinh Pháp Hoa, thiết lập
hội thí. Đêm mộng thấy con quỉ hiện ra nói: “Đã được thoát khỏi khổ báo xưa” rồi
biến mất.
Ngoài ra, như
chư tăng tụng Lương Hoàng Sám đều nghiệm thấy có báo rõ ràng. Người phụ trách
vai trò này phải xét cẩn thận. Ngoài các phần vụ khác nêu rõ ở đây cần phải
biết.
Thanh Chúng gồm
trong ngoài, mà bên trong là giữ oai nghi, ngoài nhà gọn sạch, hết thảy chiếu
theo nội quy, áp dụng tùy chúng bàn công việc sao cho thích hợp.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Đại bộ thành Phật, làm Tổ đều do từ nơi Thanh Quy thiền môn mà ra. Xưa
qui định các công việc trong ngoài, không chỉ một việc tham cứu. Nay tuy không
hiếm người nhưng chỉ nhận người phát tâm, tu tập đạo giác ở chùa. Tọa hương, an
cư, giải hạ, các công việc chùa không một mảy may phiền toái mà chỉ muốn mọi
người làm xong phận sự. Ôi! Đây là trường chọn người làm Phật, làm chúng thanh
tịnh phải như thế nào để có sự phấn khởi chứ? Nếu dựa nơi chùa viện làm chỗ
lánh việc đời quả thật là đáng tiếc; thậm chí kẻ ẩn nấp an nhàn không chịu bị
ràng buộc (không theo nội quy) cũng thật đáng thương xót! Song Ban Thủ chúng
kinh nghiệm phải tùy nghi thường chỉ chỗ mê không được quấy nhiễu làm động
chúng; cũng chớ nên gượng ép nhận công việc để làm hại sơ tâm. Phần nhiều tụng
Kinh sám để giữ vững chánh niệm, nếu công phu ngưng trệ lâu ngày là không
thành. Đến như đồ dùng bên ngoài nhà, phàm của Tam Bảo nên bảo vệ, không được dời
đổi, dấu cất chỗ khuất, có cất dấu phải bạch trước cho chúng biết.
Thiền Đường
Hương Đăng: Đốt nhang, cúng nước, mồi đèn, tắt đèn, tan lớp học, lúc đại chúng
lên chánh điện, quét tước, lau bàn, thầy quản lý lo hành lý, 2 bửa cháo cơm quá
đường; nửa tháng đến kho lấy hương đèn, dầu, giấy. 5 ngày nhận giày rơm, nồi
nấu cơm; kỳ thất chưng trái, tham phóng, tập họp trên chánh điện, yết
bảng…Những việc khác chiếu theo nội quy chúng. Coi về nước mỗi ngày sáng sớm:
nước nóng rửa mặt, nước súc miệng, súc bình, nước dùng. Nên quét tước trước sau
trên các thềm bậc và vặn vòi nước nhỏ để rửa mặt v.v.. không phí phạm nước.
Trong chùa có việc cùng nhau giúp sức. Đốt đèn tham phóng, điểm tâm, thâu cất
đồ dùng mọi việc v.v…Lúc rảnh, cắt cành dương, thỉnh thoảng dọn dẹp liêu chúng.
Buổi sáng, trưa, cúng xuất sanh ở trai đường, chiều cúng thí thực nơi chánh
điện. Ngoài những việc trên, chiếu Nội quy trong chúng thi hành.
Trở lên là
những việc của liêu thứ nhứt, thứ nhì là tịnh nghiệp đường. Xem chương đại
chúng ở sau – ban chức sự giống thiền đường.
Chứng nghĩa ghi
rằng: hương đăng, coi nhang đèn, nhưng chuyên trách là người của ban chức sự
thiền đường. Nếu biết quán xuyến hết mọi việc lớn, chúng lý rất tiện làm việc
chúng mà thực tế không có chỗ nào bị gượng ép cả. Song người làm việc này phải
biết lo nước, đốt nhang, tận lực gia tâm. Quét bụi, rửa lau, sáng sạch mát mẻ
để dứt trừ tâm duyên hẳn dứt cảnh, nơi động mà đạt được; tịnh thắng là công
phu.
Hầu Tổ kiêm ảnh
đường lo hương đăng: Hầu phụng Tổ nên làm ảnh đường luôn thường quét dọn. Các
việc cúng ngọ, vào bếp kho lấy đồ thức ăn; rằm, mồng một lấy hương đèn, dầu;
sáng tối đốt đèn rọi đường. Cúng tháp Tổ khai sơn, hầu Tổ quỳ dâng các thứ:
trà, quả, đũa, rau, đồ điểm tâm, nước sôi, cơm, trà xanh…những vật đặt cúng trước
tháp, hầu Tổ châm trà. Phàm cúng giỗ chư Tổ, bạch trước với Phương Trượng có
cúng ngọ. Cúng giỗ liệt Tổ niêm dán nơi liêu chính; hễ quên sót, lầm lộn ngày
kỵ Tổ không thưa trình bị phạt. Người lãnh đạo trông liêu, Trụ Trì thuyết pháp
v.v…như tiểu tham tại chánh điện. Nhịp 3 hồi khánh, đốt 3 nén nhang, Trụ Trì
niệm hương, trải tọa cụ, lễ 3 lạy; thăng tòa thuyết pháp, đại chúng lên điện
cúng ngọ. Cúng giỗ, quét tháp, tiểu tham các việc nên chuẩn bị trước: lư nhang,
đồ cúng, 2 tay bưng nâng cao đi trước Trụ Trì.
Chứng nghĩa ghi
rằng: người xưa gần thiện tri thức phần nhiều ở hậu liêu, vì trưởng lão bình
thường tiếp xúc người với lời thích nghi nên ở sát bên cạnh không rời để tùy nghi
cắt đặt việc làm. Xưa Nam Tuyền sắp xếp tới ngày thết trai đãi Mã Tổ.
-
Hỏi: Mã Tổ đến có không?
-
Động Sơn đáp: đợi có bạn liền đến.
Thị giả Vân Cư
cầm đèn tới thấy bóng trên tường. Ông tăng hỏi
-
2 hình giống nhau là như thế nào?
-
Vân Cư đáp: một cái là bóng cái kia là hình.
Nay đang hầu
Tổ, đây có phủ nhận tánh lanh lợi chăng?
Quy Sơn hầu
Bách Trượng, có lần Bách Trượng bảo:
-
Con lại lò bươi xem có lửa không?
-
Bạch, không có lửa, Quy Sơn đáp.
Bách Trượng
bươi sâu được chút lửa, đưa lên hỏi:
-
Chứ cái gì đây?
Quy Sơn liền
ngộ.
Nay trong lúc
đốt nhang có nên nhanh nhẹn đáp phủ nhận chăng?
Ký Lục lo việc
bên trong (nội tự), thư ký lo việc ngoài (hành chánh). Phàm có các việc như
tiểu tham, lên chánh điện, vào thiền đường v.v...viết bản thông báo niêm yết
ngoài cửa sơn môn. Mời Phương Trượng thuyết pháp, viết câu pháp ngữ (lời dạy
ngắn gọn ý nghĩa) dán lên bảng. Ban nầy lấy giấy bút ghi lại bài pháp; mỗi việc
đều do ban lo. Cho nên lời ngữ lục (lời dạy) của trưởng lão Hoà Thượng phần nhiều
đều do tay Ban Thủ ghi. Chức vụ này nên cân nhắc kỹ, mời người đảm trách, vì
rất là quan trọng.
Chứng nghĩa ghi
rằng: ở tòng lâm tiếng văn hay chữ tốt do người đứng đầu là Ký Lục, vị này phải
nhanh nhẹn, khiêm hạ, có phẩm hạnh. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng: vào
đời Đường có thiền sư Lỗ Chánh ở chùa Chí Tương núi Chung Nam, tu trong động 28
năm không tiếp xúc việc đời. Đệ tử là Trí Hiện vâng lời Thầy trước thuật gương
tu mô phạm, tọa thiền tư duy. Trí Hiện cầm giấy đứng hầu bên, Thầy nói ra câu
gì theo đó viết lại, đứng suốt ngày không ngồi. Một hôm bị đau nhức nên sanh
buồn phiền, bất chợt ngã lăn ra đất. Sư Lỗ Chánh bèn nói:
Người xưa nhón
gót (đứng chân hỏng lên) 7 ngày được. Nay Ông mới đứng chưa lâu đã ngã qụy, tâm
yếu đuối thế!
Ôi, cổ nhân quên
mình vì pháp, cung cách như thế, là vai trò của Ký Lục, ta há không được vậy
sao?
Y Bát: Phận sự
Giám Viện lo việc ngoài, trong lo y bát, đảm trách việc Tam Bảo cho trang
nghiêm. Các đồ pháp khí, vật dụng trông coi cử người lớn tuổi, tâm phải chín
chắn, gặp việc biết ứng phó ngay, ngỏ hầu giữ trên dưới điều hòa trôi chảy. Cho
nên người bộp chộp hay câu chấp không thể dùng được.
Liêu phòng quy
định 7 điều nên ghi nhớ kỹ lưỡng như sau:
1.
Đồ pháp khí trang nghiêm nên lấy ra, cất vào phải nhẹ tay cẩn thận
2.
Tiền bạc thu chi theo sổ sách mỗi tháng kiểm toán 2 lần
3.
Trái cây, thực phẩm nên quí tiếc cất giữ cho tinh khiết
4.
Trụ Trì đi xa, mọi việc trong ngoài phải để ý lưu tâm tới
5.
Khách đến muốn gặp Phương Trượng, cần biết tên và hỏi việc gì; đã có Tri Khách
giải quyết và Giám Viện quyết định
6.
Tiếp đồng liêu và hành giả phải đàng hoàng nghiêm chỉnh, không được nói cười
đùa giởn thô tháo
7.
Vật dụng ở phòng khách xử dụng hay cất phải có chỗ thích hợp không để tổn thất,
hư hao.
Ngày… tháng…
năm… Phương Trượng ấn ký.
Chứng nghĩa ghi
rằng: y bát là người tâm phúc của kẻ xuất gia, đi đâu phải mang theo bên mình
(y pháp bất ly thân), vật nâng thay vai trò nặng nề của Trụ Trì. Vì uy tín Trụ
Trì nên tiền của tổn thất (hao hụt) hoàn toàn do vai trò này (Giám Viện) không
thể không cẩn thận.
Sách Chích Cổ
ghi rằng: thầy Thạch Song Cung đạo hạnh sáng ngời, đặc biệt có tài, nương theo
học Thiên Đồng Hoằng Trí lâu ngày, làm nhiều việc quan trọng rất cẩn thận, lịch
lãm; không chịu ra ứng thí. Khi về nhà (làng) mẹ hỏi:
-
Ông là người chủ sự, đâu không hiểu rõ nhân quả mà sắp chôn tôi xuống đất
vậy?
Cung nói:
-
Con đối với của Tam Bảo một sợi tóc cũng không khinh thường.
Không đáng suy
nghĩ sao? Ôi! Lãnh phần trách nhiệm này một sợi tóc không khinh thường, đây quả
không hổ vậy.
Thuốc thang là
bên trong lo về thang dược, bên ngoài thuộc phần điển tòa; hợp thời cung cấp
đúng mực. Hai bên ứng tiếp lo liệu an ủi khuyến khích hành giả. Chức vụ này nên
giao người cần kiệm đảm trách mới thích hợp.
Thị giả nghĩa
là theo hầu có chung và riêng. Thị giả chung từ việc đốt nhang đến hầu các bậc
thánh tăng tôn túc làm hết phận sự; còn riêng là hầu thầy Phương Trượng Trụ Trì
để khi cần giúp đỡ. Mỗi ngày hầu Phương Trượng tại liêu, phòng giảng pháp, điện
Phật, thay nhang, thay nước, lau bàn, quét dọn hết thảy sạch sẽ, rồi đứng hầu
Thầy. Nước tắm, châm trà, giặt giũ quần áo, thay giày, sớm tối thăm hỏi, hầu
lúc đi khi về, làm mọi công việc lao nhọc, trước hết phải tỏ lòng hoan hỷ vâng
phục. Khách đến châm trà, cúng xuất sanh lúc thọ trai; hữu sự tới phòng khách
làm việc. Thị giả như người con hiếu thờ cha mẹ mới phải phép. Công việc này
không nên giao cho người quá trẻ mà phải là người trưởng thành có ý tứ mới chu
toàn được.
Chứng nghĩa ghi
rằng: xưa nay hầu hết những vị thầy lớn tuổi đều có người hầu; trước hết phải ở
bên cạnh thay thầy làm việc khó nhọc, nhẫn nhục làm việc mới có thể đạt được
pháp vô đắc. Điều này có nghĩa là trọng pháp mà xem nhẹ bản thân, từ ngàn xưa
đã vậy. Nơi luật tạng và Sa Di yếu lược có ghi đầy đủ rõ ràng. Ngoài ra, sách
Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng, vào đời Đường Chiêu Hiền Thông một thời làm
chức lục cung; nhân đến gặp Ô Sào thiền sư xin xuất gia học đạo. Ô Sào không
chấp thuận, ông kiên nhẫn xin mãi mới cho xuống tóc; rồi làm thị giả hầu cạnh
chuyên cần không rời thầy, trải qua 16 năm không được khai thị muốn bỏ đi. Ô
Sào hỏi tại sao?
Trả lời:
-
Đi tìm các nơi khác cầu học Phật Pháp.
Ô Sào nói:
-
Phật Pháp ở đây cũng đâu phải thiếu.
Liền lấy ngón
tay nâng tấm vải lông lên thổi. Hiền Thông bổng nhiên đại ngộ, do đó hiệu là
thị giả bố mao. Ngài Liên Trì nói: “Người ta chỉ thấy thị giả qua tấm vải lông liền
đạt ngộ mà không biết qua 16 năm nhẫn nại với bao nhiêu chịu đựng lao khổ, há
chẳng nói lên được sự ân cần lắm sao? Nếu nay gặp được minh sư là điều may mắn không
thể tâm dao động mà đón nhận được.”
Hầu Thánh Tăng:
trải giường, quét tước, dọn dẹp tòa ngồi, dâng trà, lau bụi, kéo màn, bưng cơm,
hầu nước, đả thất, đáp ứng mọi việc, có mặt túc trực chờ có việc cần. Buổi quá
đường lo cúng xuất sanh, dọn rửa sau khi Thầy dùng xong.
Trở lên bên
trên là phần việc trưởng liêu có 8 mục, có đầy đủ như bảng niêm yết ở Thiền
đường.
Chứng nghĩa ghi
rằng, Thánh Tăng tức là trong Thiền đường nơi tôn trí tượng các bậc Thánh Tăng.
Thiền đường xưa gọi là tăng đường, do chúng tăng cùng ở chung một nhà. Trong tăng
đường có chỗ tôn trí A Nhã Kiều Trần Như đại thánh tăng. Việc hầu bậc thánh
tăng, như ở thiền đường lo hương đèn cúng dường thánh tăng. Phòng, chỗ ở trụ
trì kiêm việc trà nước, hương đèn v.v…nên gọi là hầu thánh tăng. Xưa nay thiền
đường phần nhiều thờ Phật nên tượng thánh tăng đương nhiên không có. Nay đổi
tên tăng đường là thiền đường, nhưng nghĩa 2 chữ thánh tăng không làm sai ý
nghĩa.
Trở lên hầu
liêu có 8 việc nên tuân thủ quy tắc: Không được ở trước Trụ Trì kể lỗi người,
không được cùng người đồng phòng cười giởn, không được biếng nhác lánh nặng tìm
nhẹ. Ba việc này cần phải giữ gìn.
Chích Cổ ghi
rằng: riêng Phong Ấn ở với Tuyết Bảo có một thầy nhỏ tố lỗi của vị lãnh chúng.
Ngài Phong Ấn nghe được quở trách hỏi rằng:
-
Ông là sư tiểu có tâm bao dung - trên dưới thì được, ngược lại bươi móc lỗi
người mà ở bên hẳn làm hư việc của Ta.
Bèn dùng gậy
đánh cho; người đời nghe thế lấy làm thán phục.
Văn Hoằng Trí ở
với thiền sư Thuần làm thị giả; trong tăng dùng lời bởn cợt mỉa mai; Trí bất
chợt cười lớn. Sư Thuần đi ngang qua nghe được đến tối gạn hỏi, Trí nói “lỡ nói
lời thô với chư tăng”; bị cấm không được cười lớn. Sư Thuần nghiêm khắc quở trách.
Lại nữa, thị
giả Chân Như Triết tập ngồi thiền, cảm thấy khó khăn, lấy cây tròn làm đồ kê
ngủ say làm rớt gây tiếng động, biết rồi đứng dậy ngồi ngay ngắn lại như cũ. Vì
do dụng tâm quá sức. Triết nói: “đối với tôi, phần tuệ trí còn mỏng cạn, nếu không
chuyên cần gắng sức e bị vọng (mê) nhiễm làm mê mờ, huống gì mộng chẳng thật mà
an ổn lâu dài”.
Ôi, đó là phần
Tây đường bên trên xong. Hành giả tịnh nhơn, đây là 3 việc nên cẩn thận theo
gương người xưa, 2 phần phụ Chương Trụ Trì trước.
1.5 Nhà Đông
Đô Giám cũng gọi
là Đô tự, từ này thời xưa không có; về sau do tòng lâm đông người nhiều việc
nên mới đặt thêm chức đó. Trên là giúp Trụ Trì, dưới là phụ tá Giám viện, tuy
công việc không vất vả cực nhọc như Giám viện, nhưng đại bộ là phải trông coi tổng
quát, vì thế cũng gọi tên khác là tổng lý. Nơi Phật điện đứng cuối phía đông, quỳ
kế Duy Na bên tay trái; đi sau Giám viện; tại trai đường ngồi trên Giám viện. Ở
chúng thường trụ trên 10 năm đãi lao cho Giám viện mới được cử sung phần vụ
này; đó cũng như thưởng công lao an ủi, ngang hàng với Thủ tọa lo việc bên
ngoài.
Chứng nghĩa xem
phần sau:
Giám viện là
quản nhiệm khu nhà Đông như cánh tay mặt của Trụ Trì làm những việc tổng quát
như vun bón ruộng vườn (bồi dưỡng nhân tài), thu hoa lợi, nộp thuế, thu chi
tiền gạo, tính toán sổ sách, lo việc cơm cháo hết còn cho chúng, tiếp đãi thí
chủ…hết thảy đó đều là công việc của Đô giám vậy.
Nhưng phàm công
việc gì hẳn phải nhóm họp, thưa vị Trụ Trì thỏa thuận ý kiến trước mới làm.
Không được tự ý quyết định, khuyến khích người làm công tác, không tự tung tự tác
ra oai, sắp xếp kho lẫm, công tác ắt phải công bình. Không theo vây cánh riêng,
nói chung hẳn phải có đủ 5 đức mới có thể đảm trách chức vụ này:
1- Từ bi ban bố
cho đại chúng
2- Công bằng
trong công việc hoàn toàn không thiên vị
3- Cẩn thận
việc lớn việc nhỏ không màng
4- Nỗ lực làm
việc không chuộng an nhàn
5- Nhạy bén làm
việc không để lại khó khăn cho người khác.
Như thế Giám
Viện là người được cậy nhờ vả; trái lại là tổn hại cần phải biết. Vai trò của
vị này như sau: nơi chánh điện đứng ở cuối phía Tây, và quỳ sau Trụ Trì như Phó
Tự tức là Phó Trụ Trì, nhưng công việc làm ngang với Giám Viện.
Đô Giám công
việc cùng chia sẻ với Giám Viện cùng làm; bao nhiêu việc chi li phức tạp Giám
Viện không làm hết, nên xử lý quán xuyến thay Phó Tự làm. Của cải, gạo thóc thu
chi tùy nghi ghi chép, thu nhập chi dụng mỗi ngày giao qua Tri Khố. Việc thu
chi hoàn toàn kiểm soát trình báo cho Phương Trượng, chi mỗi ngày, 10 ngày báo
cáo một lần là tuần nhựt, mỗi tháng kết toán một lần, cuối năm báo cáo tổng
kết, hoặc mỗi tháng 2 lần vào ngày 14 hay 30 họp tại phòng khách với 2 dãy Đông-Tây
có một phần kết toán cho biết đủ thiếu chi thu gọi là kiểm sổ sách chung; sao
cho Phương Trượng, Tri Khố mỗi người 1 bản.
Tri sự cũng gọi
là tri lương chính là lo về tư lương (thực phẩm) vào ra quan phủ, kiêm cả việc
trông coi đất đai, sơn môn hạn giới các việc v.v… Mỗi năm chi thu lúa thóc phải
lo nộp thuế, không để kẻ thâu thuế vào chùa, là việc quan trọng hàng đầu. Hoàn
tất giấy tờ giao Trụ Trì cất giữ mà không tự giữ riêng.
Chứng nghĩa ghi
rằng: 4 việc như trên là những việc quan trọng, nhân quả thật rõ ràng không thể
không cẩn thận. Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi: tông Thiên Thai trước đây có Đài
Đắc thiền sư ở chùa Quốc Thanh chăn trâu; chư tăng ở chùa thuyết giới, Thập Đắc
cởi trâu đến trước tăng đường vỗ tay cười lớn nói rằng:
-
“Người đông đặc nhóm lại.” Thủ Tọa kêu trách rằng:
-
Này người điên, tại sao lại làm náo động chỗ tụng giới?
Thập Đắc nói:
-
Ta không nuôi trâu, bầy trâu này đa số là của tăng chấp sự chùa này.
Chư tăng mỗi người đều la lên mà quên rằng mình là tăng. Bầy trâu
nghe tiếng bỏ chạy làm cho ai nấy sợ rối lên, và họ nghĩ muốn sửa đổi lỗi lầm.
Ôi, há đó không phải tấm gương sao!
Chích Cổ ghi
rằng: Xưa có sư Bảo Thọ ở chùa Ngũ Tổ làm chức Tri Khố. Thầy Trụ Trì khuyên
ông: “Gặp ai bịnh uống thuốc, cần phải có gừng sống”. Có người vào kho lấy, Bảo
la quát dạy phải biết điều, rồi sai lấy tiền trả lại, Bảo Thọ làm thinh nhận.
Sau có Động Sơn Thiết nhân việc này đặt giới; nêu ra chỗ hiểu biết và răn nhắc
rằng: “mua gừng sống mà được đi sang Hán, Thọ ở nơi Động Sơn”; nên có câu
truyền lại muôn đời: “Bảo Thọ sanh gừng cay” còn truyền tụng trong nhân gian
như sau:
Vật nấu nướng
nhà kho
Tiền, vật của
bếp núc
Trà, rau, quả
các mục
Thậm chí dùng
làm thuốc
Mọi thứ đều tùy
thuộc
Của chùa dùng
cẩn mật
Kho lẫm khóa
nghiêm ngặt
Là người giữ
đúng luật.
Chứng nghĩa
ghi: Sơn am tạp lục cho rằng: Hổn Nguyên ở với Tử Trạch làm Tri Khố, tinh cần
làm việc ở nhà trù giữ đúng qui tắc không phạm một tơ hào. Nhưng do sợ có lỗi
nên viết lên tường nơi liêu phòng rằng:
Giọt nước, hạt
gạo toàn thuộc chúng tăng
Vui việc với
người, lý hằng khó phá
Phải biết mang
lông đội sừng nợ trả
Năm tháng rộng
dài, rõ ràng nhân quả
Ai người biết
rõ nên suy nghĩ qua…
Thủ Khố (thủ
kho) chuyên lo việc chi xuất, kiểm kê hết thảy đồ ăn uống của chùa bao hàm việc
kho lẫm, cho tới trách nhiệm lao công. Phải là người cẩn trọng ý tứ mới giữ chức
vụ này.
Chứng nghĩa ghi
rằng: công việc này chỉ đề cập sơ lược. Ở đây nên xem một quyển khác để bổ túc
đầy đủ hơn. Dầu, đèn các thứ nhất loạt không nên phí phạm, rau cải, thức ăn đại
chúng tươi khô có khác nhau. Y cứ theo người xưa, nêu lên để lấy đó làm chuẩn.
Hết thảy mọi việc phát dầu cũng đều phải theo qui định. Ở thiền đường giày cỏ
(rơm) 5 ngày phát một đôi, giày đi thường 3 ngày một lần; rằm, mồng một phát
đèn dầu các phòng, trà, hương vòng, giày cỏ v.v…tùy theo nhu cầu mà phát. Phàm
khi cúng thức ăn, hoa quả phải chọn đủ 5 màu; trừ trai đường, tháp Tổ dùng thêm
nước nóng, chùi lau, có thức ăn chay phát cho trù phòng dưới viện. Trong nhà
trù, việc giúp làm thức ăn tùy theo người quản lý cần và tất cả mọi đồ dùng đều
là người chí công vô tư, mới được đề cử giữ phần hành này.
Mễ đầu (trông
nom gạo thóc): gạo về nhiều quá số lượng trong kho sàng sảy hạt lép không có
thì giờ xem xét, đừng để meo mốc mục nát. Công việc này lấy công lao, tâm thanh
khiết làm chính. Thóc mùa xuân tốt thơm thu được đừng trộn lộn lúa tạp cứng vào
làm cho cơm khó ăn. Ngoài ra, 5 loại ngũ cốc và những đồ dùng đều phải hong
phơi đúng cách, đậy che không làm hư hại quá đáng. Khách dùng cơm hay mì theo
nhu cầu mà cung cấp.
Chứng nghĩa ghi
rằng: trước kia các công tác trong ngoài vốn không có lớn nhỏ. Lục Tổ (Huệ
Năng) giả gạo mà đắc pháp. Đừng cho việc ngoại vi mà khinh thường, nên phải
sung vào phần vụ này; cũng như chớ tự ti mà lượng sức mình để đóng góp.
Thán đầu kiêm
lư đầu (lo việc than củi, lò đốt củi): chuẩn bị củi than để dự phòng mùa lạnh.
Hoặc hỏi vị Hóa chủ hay bỏ tiền mua sắm sao cho đủ dùng, cũng đừng lãng phí. Việc
này kiêm luôn trông coi lò đốt, cần chú ý đèn đuốc, củi lửa. (ngày nay đã có
điện, việc dùng củi, than không còn cần thiết nữa. Lời người dịch chú).
Chứng nghĩa ghi
rằng: người kiêm luôn quản lý lò đốt, che chắn chung quanh lò đốt công cộng.
Bóng quang âm dễ qua mau nên mỗi người tự lo tu tập, không nên đọc sách ngoại
giáo và những sách thiếu đứng đắn. Không được sấy hơ giày dép và mồ hôi cáu bẩn
trong lửa. Không được đánh (hưi) lửa bay tro, không được đứng lâu gây động phải
nên tiến tới trước. Kẻ vi phạm đưa ra cáo bạch trước chúng xử phạt.
Phòng ấn loát:
quản lý in ấn kinh sách, các văn ngữ lục v.v… thường phải xem xét kỹ không để
hư mục, rách nát; không để người khắc ấn chữ ký riêng. Để bản in một chỗ phải
cho thích hợp sáng tối; để gần gió, ánh nắng dễ bị hư sách, nơi thiếu ánh sáng
dễ hư mục. In ấn dùng giấy trắng mực đen cho chí bìa sách, gáy sách v.v…đều
chuộng sự chắc bền, sạch đẹp làm chuẩn. Không được đòi hỏi tiền bạc giá cả các
thứ, không nên tự ý tăng hoặc giảm. Phải dùng sổ sách cập nhật ghi chép rõ ràng
hoặc chiếu theo quí, hay theo năm, giao trình thầy Trụ Trì kiểm toán. Đây là
công việc có liên hệ tới Pháp bảo lưu thông nên mỗi người phát tâm tận lực làm việc.
Nhân quả không mất nên cẩn thận mà học hỏi đó.
Chứng nghĩa ghi
rằng: phòng ấn loát quản lý việc in ấn hẳn phải nhìn xa thấy rộng điểm lợi,
phải biết sách nào chánh sách nào tà. Nhân gần đây đa phần ưa thích đám si
tăng, lạc dẫn lời dạy của Phật, Tổ rơi vào cố chấp tà kiến. Tự cho mình là đúng
biên ra ngữ lục; quyết đoán dạy tín đồ in ấn, cơ hồ không biết tà chánh, phải
trái, thật hư. Một cuốn Kinh in phân phát như thế làm cho nhiều người lầm không
ít. Sách Sơn Am tạp lục ghi rằng: Thiên Giang Thiệu, Trực Chỉ Viên, Hưu Am
Dịch, cả 3 người đều là ngu tăng, trong vùng ai cũng biết, hoàn toàn không có
chánh kiến, họ tự dối in khắc ngữ lục. Ngoài ra như Huy Tạng chủ đem Kinh Kim
Cang phân tích mỗi phần đoạn, dối làm các bài tụng cho khắc bản lưu truyền. Lúc
bấy giờ có Thứ Trung Uấn ở Đồng Cốc, Huy tới vặn hỏi Uấn, Uấn hỏi lại Huy:
-
Kinh này lấy gì làm tông?
Y liền ngơ ngác
không hiểu. Đây chẳng phải khinh thường, mượn danh là gì? Đời nay chư vị danh
đức tôn túc, những người hộ pháp tri thức (học giả) gặp những sách lục như thế,
cần phải tố giác để ngăn chận bớt. Vạn nhất chớ cậy tình uốn cong lời tức là
vượt bậc vậy. Nên suy nghĩ kỹ Kinh Đại Bát Nhã ghi: quả báo phải thọ ở ngục A
Tỳ. Cho chí 5 bộ sách tà giáo từ lâu đã tuân lệnh nghiêm cấm. Tự mình không dám
nhận sách tạp hay có tiếp tục ra sách, chớ màu mè dựa lời Phật, Tổ mà xen lộn
tạp nhạp lời sai lầm của tà giáo như luyện đơn, xuất thần các loại. Hoặc đem
Tâm Kinh, Kim Cang v.v…chú giải sai lệch bỏ lững, rồi in ấn lưu truyền đều là
cái nạn tài liệu sai trái, cần phải ngăn chặn triệt dứt. Luận về hộ trì chánh
pháp là để dứt mọi hậu họa về sau.
Phụ trách kho
lẫm: Kho chứa ngoài những đồ đạc mua sắm ra, còn phải khuân vác củi, gạo, tre,
gỗ v.v…vào, hẳn phải minh bạch việc thu nhập, hết còn để theo đó bổ túc thêm. Phòng
kho có nhiều việc, lúc rãnh rỗi cùng nhau tiếp tay phụ lực dọn dẹp cho mọi việc
được tươm tất gọn gàng và cũng tiện lợi dễ dàng.
Chứng nghĩa ghi
rằng: cần nên bổ túc thêm: nếu người vác đồ nhiều, một người lãnh chúng đứng
ghi trông coi mọi việc theo dõi, y lúc ra đi thì nặng vai, về thời tay không.
Lãnh chúng nếu thiếu sự coi sóc để mất đồ, qui ra thành tiền phạt đền bồi. Hễ
ai lạm dụng tiền lộ phí mà điều tra ra là phải bồi thường.
Phần phụ: đồ
dùng của Tam Bảo thu, chi có qui định ghi chung thành 18 điều ở sau:
Quí tiếc của
Tam Bảo như giữ tròng con mắt vậy, thấy nhiều chớ làm hao tổn mà tận dụng vào
việc công một cách vô tư. Của tín thí trơn như dầu mở nuốt khó trôi, tham nhiễm
lâu thành biển nghiệp; nhân quả tòng lâm quán kỹ tức là cội phước. Lời minh ghi
rằng: vật thuộc của chiêu đề (thường trụ) một tơ tóc cũng không phạm, giữ mình
phải kính ắt hẳn sợ kiêng. Nước trong đầm lắng trong như cán thẳng không cong
không vạy còn phiền lo gì nữa; như một ao nước lóng sạch trời rồng tới soi bóng
để sửa sai lỗi lầm.
Giám viện là
người chúng tin cậy nên phải có lòng quảng đại để duy trì tòng lâm. Canh cải
những việc lỗi thời, cần làm mới để đem lại lợi ích. Không thể lếu láo qua ngày
chỉ có hư danh. Như nếu làm trái phép, chúng khuyên không theo phạt, cho ra
khỏi viện.
Làm việc chúng
đều có người giúp phụ. Giám viện trông coi việc gì? Trông coi xem xét tổng quát
mọi việc, luôn luôn phải xem để ý việc, đi tuần hành từng nơi từng chỗ, chớ nên
sai lầm việc chúng. Nếu chúng có việc gì làm đều phải thưa cho thầy Giám viện
biết. Người nào tự ý làm bị phạt. Người lầm lỗi cho ra khỏi viện. Như Giám viện
tự chuyên không họp bàn với 2 chúng Đông Tây đường, việc nhẹ thì phạt; nặng
phạt tẩn xuất.
Phó Trụ Trì
trông coi tài sản thu chi của Tam Bảo, ghi chép rõ ràng; ghi thiếu sót: phạt;
sổ sách thiếu phân minh: xử phạt. Phàm ruộng, vườn của sơn môn cho chí huê lợi,
tiền bạc phải thông báo cho 2 chúng cùng biết để xem xét duyệt ký khi dùng,
cũng như mở đóng giữa chúng; như tự ý mở sổ xem riêng bị phạt.
Tri Khố: quản
lý các vật dụng thuộc phận sự của người nào? Đó là viên Tri Khố, bổn phận đã
quá rõ ràng. Khi Tri Khố thôi việc cũng giống như Giám Viện, y cứ như trên mỗi mỗi
điểm phải ghi rõ. Người nào phạm bị phạt. Nếu vật mất, hư hao ghi vào sổ để mua
thế; nếu lỡ quên ghi là phải bồi thường; có thể thường tiền nhưng mua lại món đồ
nguyên không gian dối. Ai làm trái là bị phạt.
Khố Đầu - Tri
Khố - quản lý các việc trong ngoài nhận vào, chi ra, cái nên cho nhưng không
cho là phạt; món không nên cho mà tự ý cho: phạt gấp đôi.
-
Cấp phát hương đèn, dầu gạo, rau quả v.v…không chiếu theo qui định mà tự ý thêm
bớt bị phạt.
-
Mua bán thu nhập trong sự mờ ám cốt thu lợi là phạt bồi thường hay cho ra khỏi
viện.
-
Gạo, thóc v.v…cho đến kiểm kê thu nhập minh bạch ghi ngay vô sổ để theo dõi.
Việc này có liên hệ tới huệ mạng của đại chúng; lấy không hứa xuất trả lại, và
các việc khác như sửa sang, mua sắm và bán thóc. Như vi phạm, đại chúng công
khai đuổi.
-
Hết thảy của cải nếu lấy của công tiêu việc riêng và tự ý mượn, đổi xấu lấy tốt
một cách thiếu minh bạch phạt đền bồi.
-
Ăn uống dấu chúng hay tự ý phí phạm nhiều đèn dầu các thứ v.v.. bị phạt.
-
Ăn uống v.v…không đúng thời điểm qui định. Nếu lấy thức ăn nấu chin, đồ nuôi
bịnh, -vật cúng chúng đều bị phạt, làm hư hoại phải đền bồi.
-
Vật của tăng để quên, không được dùng lầm. Mua đồ cho bịnh nhơn, ắt phải đưa,
dù ít nhiều cũng từ của công. Người nào vi phạm bị phạt.
-
Mỗi chỗ nên có đồ dùng như các loại hương đèn v.v… lúc dư đem cất, khi cần
không đưa ra bị phạt.
-
Phàm phạt qui ra tiền bạc đều đưa vào dùng việc công; miễn công việc liên quan
nhau; nhưng đưa vào dùng lẫn lộn là phạt.
-
Giám sát thực phẩm, sáng tạo những đồ dùng: phàm những món đồ thu chi do tay
mình ghi nhận rõ ràng, không ghi bị phạt; làm mất phải bồi thường. Nếu lười
không kiểm tra công tác và ghi sổ sai lầm không rõ ràng bị phạt (phận sự giám
tu).
-
Mỗi tháng vào 2 ngày 14 và 30, họp 2 chúng Đông –Tây liêu kiểm sổ sách, thư ký
báo cáo chi thu, nếu tính sai bị phạt.
-
Mỗi năm biên lai trả thuế phải trình cho Phương Trượng cất giữ, giữ riêng bị
phạt.
-
Người thủ kho nên làm việc hiệu quả, đối với chúng nhứt nhứt phải rõ ràng; giao
cho người mới tiếp tục, nếu trái bị phạt.
Ngày… tháng…
năm… Trụ Trì sao lục.
Chứng nghĩa ghi
rằng: căn cứ theo luật tạng, vật của tăng có bốn thứ:
1- Thường trụ
thường trụ, có nghĩa là nhà cửa, ruộng vườn, cây cối, người, súc vật, lúa gạo
v.v.. vì hình thức chúng giới hạn ngay tại chỗ, không chung ở những chỗ khác.
Chỉ được dùng mà không được phân chia đem bán, đem cho nên lặp lại 2 lần chữ
“thường trụ”.
2- Mười phương
tăng, là vật cúng chư tăng quen thuộc như các phẩm vật, đồ dùng ăn uống trong
chùa thuộc của 10 phương tăng không giới hạn tăng ở chùa. Luật Thiện Kiến ghi
rằng: không thỉnh chuông tức ăn không hiệu lệnh, là phạm tội trộm. Vì thế, rõ
ràng 10 phương tăng đều có phần vậy.
3- Hiện tiền
thường trụ, trong đây có 2 loại:
a. Vật hiện
hữu
b. Tăng chúng
có mặt.
Chỉ có vật hiện
hữu đem cúng chư tăng tại chỗ mà thôi.
4- 10 phương
hiện tiền Tam Bảo, có nghĩa là đồ vật của vị tăng qua đời; hình thức giống như
của thập phương, vì 10 phương hiện tiền tăng được có phần vậy.
Luận Tì Bà Sa
ghi rằng: trộm vật của tăng quá cố, ai xử cho là tội nặng (căn bản)?
Đáp: Vì đã làm
pháp yết ma, đối giữa chúng tác pháp yết ma xử được. Nếu chưa làm pháp yết ma
phải khéo đem ra công khai giữa chúng cũng được. Nay qui định rõ vật của tăng quá
cố là của 10 phương tăng, trước đã làm pháp yết ma thì được, sau yết ma là
không được.
Sách Lại Am
ghi: Bốn vật của thường trụ này không được lấy một tơ hào, nếu lấy đắc tội rất
nặng. Trước Thánh sau Thánh đều dạy răn điều chí thiết: Sơn tăng hoặc hiển hoặc
ẩn chưa từng không lấy lời chí thiết này răn dè ý mình. Do e người không thấu
hiểu nên có bài kệ cảnh giác rằng:
Vật 10 phương
tăng nặng như sơn
Muôn kiếp nghìn
đời dễ trả hơn?
Nay bàn chả mấy
người tin tưởng
Ngày kia khó
thoát tội hầm chông
Thân người khó
được khéo suy lường
Sanh ra đội
sừng tháng năm trường
Tham chi từng
hạt gạo đáng thương
Sa chân lỡ mất
nửa đời lương!
Sách Chích Cổ
ghi rằng: Thiền sư Hoằng nối dòng pháp của Tú Phong Tường Công núi Khải Hà, có
quí nhơn giúp bốc mộ cha đưa cổ quan đến, Hoằng cho đào huyệt sâu chôn xuống mà
chẳng hay trong túi vải đó có gì. Người cùng quận giữ mối thù đợi mãn tang, sai
người tới chiêu dụ, nói:
-
Của thường trụ muôn đời tăng một sáng, trưởng lão sao khổ tâm tranh chấp làm gì
chứ?
Hoằng nói rằng:
-
Không thể đem tăng một sáng phá hoại được tăng lâu năm thường trụ.
Việc đó đã xong
rồi.
Tăng Trị (Tăng
trực nhựt) nguyên chức vị này không thật, nghĩa là cắt đặt tăng chúng luân
phiên trị nhựt, cũng có ý rằng trong tăng ưu tiên ngày của vị đó trực (dọn cơm
chúng) Người làm việc này phải không a dua nịnh bợ, không cong queo mách qué,
không phòng ngừa, không phe nhóm, thay Phương Trượng giám sát những gì thiếu
sót sáng tối, ra vào, đại chúng trong ngoài đều phải nể nang. Cho nên cũng gọi
là ty sát, do từ nơi Ban Thủ mà ra đến tham đầu là chấm dứt. Phàm 5 ngày thay
đổi một ban, giữa mới và cũ thay phiên làm việc. Nơi chánh điện sau khi thời
tụng kinh tối xong, chư tăng phiên trực trước mời đại chúng ngồi lại trước điện,
cả Ban trực ra lễ Tam Bảo, lễ xong mời Ban mới đến, đối trước Ban trực mới giao
việc và chỉ dẫn rõ. Ban Tăng trực mới nhận việc giao phó lễ Tam Bảo 3 lễ, lạy
xong mọi người lui về chỗ. Mỗi buổi sáng điểm 3 hồi bảng thức chúng, từ Phương
Trượng đến các liêu đốc chúng lên chánh điện công phu. Đi tuần các phòng nghiêm
cần chu đáo, trời sáng mở cửa sơn môn. Khi đại chúng dùng quá đường, hay lên
chánh điện…Ban này trông coi cửa nẻo, cháo cơm 2 bữa dọn lên trai đường và báo
hiệu đúng giờ. Đại chúng ra vào để các đồ dùng đúng pháp. Thời Kinh tối đốc thúc
chúng tập trung lên chánh điện. Mặt trời vừa lặn xem xét cửa ngõ đóng khóa cẩn
thận. Đốt hương trong phòng, nhớ bật đèn đường và các nơi, đèn lưu ly. Có việc,
gõ 2 hồi bảng chúng tới phòng khách họp bàn, không việc gì thì thôi. Sau giờ
chỉ tịnh đi tuần hết mọi chỗ. Ba cây hương lớn sau khi cháy hết cấm ngặt đốt
đèn, dập nén hương vòng; xem tắt đèn đường, trông coi kỹ nhà bếp, phòng trà lửa
củi, đèn đuốc. Phàm gặp kỳ thiền thất lo cung cấp thức ăn các thứ trong ngoài.
Việc này không cứ Trụ Trì hay các Ban công tác phải tránh mắc lỗi, làm sai là
phạt, không theo tình riêng nhưng theo việc chung của tòng lâm. Hẳn nên cư xử
tâm như nước, chấp pháp như sơn mới có thể điều khiển chúng đúng quy tắc trật
tự được. Ra vào theo qui định, gặp việc khó không lười biếng; giờ tọa hương đều
phải đến, giờ quá đường tụng Kinh tập trung đúng giờ giấc không sai. Chuông
trống phân minh, trong ngoài lễ tiết. Bất tuân lời Phương Trượng phạt quỳ hương
tại bàn Tổ. Đại chúng không tuân lên bạch Phương Trượng chiếu Nội Quy xử phạt.
Nhắm người nắm được vai trò này liền sung vào, không nên thay đổi. Có thưa
thỉnh lúc dùng cơm tại trai đường, trước hết Tri Khách, đem trình bày nơi phòng
ăn, trước bàn với Trụ Trì. Ban Trị Nhựt ra trước trải tọa cụ đảnh lễ 3 lạy. Tri
Khách đến trước ngồi hỏi qua một lúc rồi mới giở ống trúc lên; phía dưới Ban
Tăng trực nhựt nắm một đầu giơ lên, đưa ống trúc qua người đối diện hỏi. Tân
Ban Trực dương lên hỏi, Tri Khách liền bước ra ngoài phòng ăn, Tăng trực dự bị
đèn lồng đích thân cầm sẵn giao qua. Ngoài các lễ nghi khác chiếu theo thỉnh cầu
của Ban chức sự mỗi việc mà làm.
Chứng nghĩa ghi
rằng, sở dĩ gọi Tăng trực vì số chúng ở tòng lâm đông, việc sắp đặt phải nghiêm
chỉnh, nên chọn trong chúng người trực không a dua làm việc. Kiểm điểm trong
lúc làm việc công tác rất là nhiều việc, e một người không đủ sức cáng đáng khó
làm lâu được, nên chia cho 2 dãy Đông-Tây luân phiên nhau trực. Đây gọi là tăng
trực vậy. Đến như việc liên quan tới đại sự của tòng lâm không thể để chậm trể
được. Không luận việc trong hay ngoài đều tùy thời trông coi quản lý. Đương
nhiên phải có người đề nghị, cũng như mỗi người tự thấy được nói thẳng không
dấu, hà tất đợi tăng thay phiên trực; giá Trụ Trì có lỗi, cũng có thể lúc chúng
thọ trai ở trai đường, ra quỳ bạch giữa chúng. Sở dĩ Vua có bầy tôi tranh tụng,
cha có con tố, nếu như việc nhỏ không đáng để đưa ra giữa chúng không sao, vì
chẳng phương hại tới thường trụ, Ban Tăng trực cũng nên khéo phân xử. Bởi vì
mỗi người không ai tránh khỏi lỗi nhỏ.
Sách Thiền Tông
Bí Yếu ghi rằng: chỉ có Phật là người duy nhất không có lỗi lầm, ngoài ra mọi
người ai lại không lỗi. Đệ tử thấy lỗi của Thầy hư hư thật thật rồi làm cho tâm
lui sụt, chẳng có được lợi ích nơi giáo pháp. Cần phải suy nghĩ điều này: đời
trước phước đức ta yếu kém nên không gặp được Phật. Nay gặp Thầy bất minh, ta không
nên nghĩ tới lỗi người mà tự làm hại đời tu. Lỗi lầm của Thầy chẳng vướng bận
tới ta, ta chỉ theo Thầy thọ học trí tuệ. Thí như túi da đựng đầy báu vật;
không nên vì cái túi mà bỏ vật báu. Như người nghèo cầm đuốc soi đường,
không thể vì người nghèo mà bỏ mất ánh sáng để tự rơi xuống hố sâu hang hiểm.
Vì thế nên nói y pháp không y nhơn là vậy. Nếu không thể nương tựa Thầy, tình
thế cũng rất khó mà cư xử. Ở qua một thời gian, ta có thể bỏ Thầy mà đi sao còn
lắm lời?
Tri Chúng đứng
hàng đầu trước Tri Khách; ngoài ứng đối với thí chủ đàn na, trong điều hòa đại
chúng là muốn lợi lạc chung. Vả lại, càng làm việc cực nhọc càng oán, lúc theo
dõi sát đại chúng, than chẳng cần tình, nêu thẳng lỗi quấy; không được yêu ghét
bất công. Hễ ngoài phòng khách gặp việc lớn nhỏ phải lưu tâm xem xét, quán
xuyến. Phàm tiễn khách hẳn có lời khai thị cho thích nghi bản chất của khách,
làm cho họ còn lưu tâm mà còn hẹn gặp lại.
Chứng nghĩa
ghi: sách khác bổ túc rằng: Tri Chúng hợp lý tức biết tình hình khách khứa và
hết thảy mọi việc. Nếu có trai chủ thiết trai đưa trình với ban chức sự. Hể
tiếp khách phải có trà nước, mời ngồi, thăm hỏi v.v…Tri Khách hỏi chỗ khúc mắc
nên giữ tế nhị và thật vén khéo không nên giốc hết việc rắc rối ra hỏi.
Tri Khách lo
việc tiếp đãi tân khách; nếu khách đến, dù tăng hay tục, dù chưa biết mặt,
không luận sang hèn, đều phải khiêm tốn nhã nhặn. Hỏi khách tánh danh (tôn
hiệu), nơi chốn và đến có việc gì. Không được coi thường hay gặp người khả nghi
nên phải ngoài giữ phép trong đề phòng; không nên một mực không tin, đến nổi
làm thất cách. Nếu có tăng phương xa tới xin ở lại, như để ở phòng ngủ nên hỏi rõ
lai lịch. Xét xem tướng dạng, tư cách có thể không cho ở lại bằng lời từ chối
khéo. Thảng hoặc có bậc tôn túc thượng khách một mặt lo tiếp đãi, tùy theo tôn
ý khách, thông báo cho Thầy Trụ Trì; sau đó đưa khách tới gặp. Tiếp đến mời vào
phòng khách tiếp chuyện; chỉ bàn thảo giáo lý chứ không bàn lan man tới việc
đời, những nhân vật đặc biệt v.v… Ngoài ra, nên theo Nội Quy đã qui định.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Tri Khách là một chức năng phải hiểu rõ thế thường kiêm thông thơ văn
nghĩa thú mới có thể tiếp một cách tự nhiên được. Bởi vì khách lui tới kẻ thanh
người tục vô chừng không nhứt định, cho nên Tri Khách biết người, không chỉ tôn
trọng Phật Pháp cũng làm cho tăng chúng khỏi chê bai, không chán ghét.
Phần phụ: nêu
thêm một số việc tiếp khách. Cơm nước đãi khách dọn nơi phòng khách phải cho
tươm tất sạch sẽ. Khách đến mời tiếp trà nước, đưa hương lễ vật cúng Phật; đưa tới
gặp Phương Trượng; giao qua thị giả trực chăm sóc. Khách ở lại sẵn sàng giường
mền, gối, nệm v.v… và đưa hành lý khách vào phòng, cũng như chỉ đèn đuốc, chìa
khóa trao tay v.v... Nếu làm mất đồ phải bồi thường. Phàm hầu khách, không hỏi
các việc chừng nào rời khỏi, tuổi tác việc làm. Vi phạm điều tra ra được bị
phạt nặng. Mời tiếp trà nước, lo cơm mọi việc v.v... nên ân cần niềm nở, không
được làm mất oai nghi. Hể muốn gọi khách phải tới đứng trước chấp tay cung
kính; không có việc gì nên ở phòng riêng. Không nên quá xa lạ, cho chí châm
trà, mời rước khách nên giữ theo ngôn từ của Tri Khách mà hành xử đúng phép
lịch sự.
Trà Đầu (lược
bớt 5 dòng), có Phật sự bất thường nên trông coi việc tắm rửa. Tới sáng hôm sau
nên lấy nước sôi cho khách rửa mặt, nhất là cho người già bịnh và khách quí. Khăn
lau phải giặt sạch sẽ, giặt gỵa quần áo mở nước khẻ nhẹ, hợp thời.
Hành Đường:
Trước tiên lau sạch bàn, dọn chén bát, đũa muỗng. Phàm cơm cháo phải đơm trước
rồi mới khai bảng. Đốt nhang bàn kim đài (trước trai đường). Cơm xới đầy chén không
được trống rỗng, không chạm tiếng chén bát phát ra thành tiếng. Kết trai hồi
hướng xong mới thu dọn bát rửa.
Ban Trực nhựt
dùng sau chúng, vì phải hầu chúng nên chu toàn phận sự hành đường. Chúng dùng
xong, đũa bát dọn khẻ nhẹ, nên lưu ý việc này: làm tổn thất, bể hỏng phải đền
bồi.
Gặp lúc đông
người uống trà đến thiền đường, lấy bình trà, tách trà, hộp trà đem lại chế
pha. Gặp nơi chật hẹp, khách uống qua liền thâu dọn. 3 ngày quét dọn một lần, tùy
chúng phân chia. Trị nhựt xem xét phòng xá trong ngoài chu đáo. Khi đả thất,
lưu ý giờ giấc: thọ trai, tham thiền, đốt đèn nến, gõ bảng 3 hồi 3 tiếng. Tọa
thiền xong, dọn dẹp hoàn tất liền tắt đèn. Phàm người nào trực nhựt, miển thời
tụng kinh buổi tối, ngoài ra tùy chúng quyết định.
Môn Đầu (người
gác cổng): ngày đêm có mặt trước cổng lo việc mở đóng cổng. Không được lầm lẫn.
Người ra vào phải để ý xem xét đề phòng kẻ gian trà trộn lẫn lộn trộm lấy đồ
vật, hoặc ban đêm có tiếng gõ cửa trước phải thông báo cho người bên cạnh biết,
rồi sau mới mở cửa. Có các bậc tôn túc, quan viên, sĩ phu v.v… tới viếng phải
nhanh chóng báo cho Tri Khách biết. Tăng tục ở xa đến vui vẻ đón tiếp chớ từ
chối. Ban Trực nhựt xem xét phòng xá, cửa nẽo chu đáo cẩn thận.
Chứng nghĩa ghi
rằng: trước kia có một người gác cổng làm bài thơ rằng:
Người gác cổng
tam quan
Thấy khách tiếp
hỏi han
Đâu phân biệt
nghèo sang
Cần lấy lễ đãi
nhơn
Quét tước trong
ngoài sân
Nói cười chớ
huyênh hoang
Nên tôn trọng
xóm làng
Trẻ nhỏ phải
xem quán
Cửa tòng lâm mở
toang
Người thăm
chẳng oán than
Nếu cố tâm ngăn
cản
Vô tư chối tệ
nạn
Thức dậy lúc mờ
sáng.
Đêm tối liền bế
quan
Chú ý phòng đèn
đuốc
Lửa củi chẳng
vấy lan
Người nào giữ
chức quen
Hầu chẳng lìa
sơn môn
Tối tối nên xét
xem
Ngủ nghỉ mặt
tĩnh êm
Phàm có Kinh,
sám văn
Phân phối định
phân minh.
Nếu có người
hỏi riêng
Xả định xem xét
liền.
Phụ nữ, bọn
thiếu niên
Chớ cùng họ hàn
huyên.
Tam Bảo tịnh
già lam
Cẩn thận tránh
nghi hiềm.
Xin ăn hạng
tăng quèn
Bỏ đời nhập đạo
hẳn
Sợ sống chốn
tòng lâm
Cũng sợ chẳng
làm xong.
Mỗi ngày cơm
phát phân
Trước mắt phải
nhận chân
Vào ra đêm
khuya vắng
Nên kiểm tra
cẩn thận
Chớ xem đây
việc nhỏ
Trọng trách
thật vô ngần
Người tinh tế:
mắt, tâm
Mới giữ gìn già
lam.
Phần phụ: Tại
phòng khách có 27 điều qui định rõ. Vác túi, mang bát vốn là tham vấn cầu học;
nhổ cỏ, quét tước từng không phải việc riêng. Các việc như ngước cúi, thăm hỏi v.v..
nên nói lời nghiêm nghị. Mọi sự hòa hài, trăm việc theo chúng. Việc động tĩnh
mỗi mỗi trình thưa rõ ràng; rãnh nhàn, bận rộn có an trụ chăng?
Đối với chúng
trước tiên theo phép phải nghiêm, có nghi phải giữ, làm bực pháp khí như thế
mới đáng gọi là cao quí; có chỗ hướng về nên rất hân hạnh cùng nhau soi sáng.
Sau đây là 27 điều Nội Quy nhà khách:
1.
Khách đến lo trà nước, điểm tâm, giường gối, mền nệm v.v…mọi việc sẵn sàng. Nếu
không biết mặt nên hỏi tên họ, chỗ ở, không nên bộp chộp thất thố, vi phạm bị phạt.
2.
Trực nhựt tri khách: không cứ có việc hay không việc nên túc trực tại phòng
khách. Vắng mặt bị phạt.
3.
Sáng tối trên chánh điện, nếu không người trực, Tri Khách phải mở đèn, và cổng
cửa; cũng như trông coi hàng ngũ, vị trí chỗ đứng của chúng. Nếu tới giờ chưa
đến phải hỏi xem chúng có làm việc ở đâu không. Ai sai là phạt.
4.
Nghe tiếng bảng, đại chúng đi quá đường. Nếu không có tăng trực, Thầy Tri Khách
phải gõ bảng, câu bảng và đứng chờ ở trai đường, ai tới trể phạt.
5.
Trưởng nhóm phân công lau quét hoặc thưởng công; hoặc hai chúng đi công tác
Phật sự ra khỏi chùa v.v…Tri Khách hỏi một lần trước, sau mời khách chính thức
tham gia công tác
6.
Có quan chức tới viếng thăm đưa danh thiếp trước, liền trình bạch Thầy Trụ Trì.
Trước hết, Tri Khách tiếp rước, mời trà, cho chí đưa khách tới gặp Trụ Trì, làm
sai: phạt
7.
Nghe hai hồi bảng nhóm họp có việc ở phòng khách. Phó Trụ Trì báo cáo chi dụng
của chùa. Gặp tháng Bố Tát, Duyệt Chúng báo cho trong chúng biết. Thị giả thưa
rõ Trụ Trì đầu đuôi mọi việc; Tri Khách khởi đầu nêu thời điểm, nguyên nhân xảy
ra những việc nhỏ lớn; bàn xong đem trình cho Thầy Trụ Trì biết.
8.
Các Thầy có việc muốn ra ngoài cần tác bạch tại trai đường và cho trị nhựt, tri
khách biết. Làm không đúng, bị phạt. Nếu có cuộc đấu khẩu, tại phòng khách cứ
công tâm nói thẳng. Nếu không tuân, mời chúng và tri khách bàn thảo, công bố xử
phạt. Giả sử tái phạm bất tuân, tuyên cáo tẩn xuất khỏi viện. Nếu theo tình
riêng xử bất công, bị phạt.
9.
Đem việc tạp nhạp ngoài đời vào chùa làm huyên náo động chúng. Tri Khách khuyên
giải, cũng như trực nhựt can ngăn lại giận dỗi, cự thẳng thắn không sợ, phạt.
10.
Tri Khách không có công việc, đi quá đường, tụng Kinh, các việc khác…Không đi:
phạt; trừ khi bịnh.
11.
Các Thầy ra vào mà không tới trai đường tác bạch, cố tình che dấu ra ngoài vui
chơi phóng túng, Ban chức sự biết mà không nêu ra cùng bị phạt.
12.
Nhà (phòng) khách phải nên nghĩ tới một việc: chuyên quyền lấn lướt hoặc kết
vây cánh với bạn cùng phòng ghét ganh cũng như cố ý bênh vực nhau, đưa ra giữa
chúng xử phạt.
13.
Tri Khách dù không trực nhựt cũng không được ra ngoài vui chơi, vi phạm bị
phạt.
14.
Có thiền khách tăng đến – không hẳn nhứt luật – các bậc tôn túc nghỉ lại nơi
phòng; người đi làm việc trở về, có công với Tam Bảo được ở lại nơi phòng khách
5 ngày làm khách; thứ đến các hiền giả từ xa đến tu thiền và ở lâu: 3 ngày được
làm khách. Ngoài ra người sơ cơ mới tới tham dự học: một ngày làm khách, sau đó
theo chúng làm việc. Cho chí khách qua đường ở lại qua đêm nên cho sinh hoạt
riêng, không ở phòng khách, làm xáo trộn bị phạt.
15.
Các bậc trưởng lão chùa khác tới thăm nên lấy nước rửa mặt, đổi thay quần áo,
châm trà…liền cho Trụ Trì biết, hạ hồi nhận ý kiến rồi mới sắp đặt các việc
phòng, giường. Khách là bậc Phương Trượng, sắp đặt một thị giả lo một phòng
riêng; ngoài ra mời khách ở phòng khách. Nếu vị ấy vào thiền đường, thăm các
liêu, đại chúng nên làm lễ và đặt ghế bên phải giảng đường thỉnh ngồi. Nếu Ngài
muốn thăm 2 dãy Đông-Tây lang, nên hướng dẫn đi tham quan bên ngoài. Vị tôn túc
nếu không vào thiền đường, các liêu mà chỉ viếng sơ qua, chúng không phải làm
lễ.
16.
Thí chủ thiết lễ cúng dường trai tăng các việc…Phó Trụ Trì hợp cùng Tri Khách
họp bàn trong chúng đúng pháp.
17.
Cúng dường trai phạn, nhà khách dùng để tiếp khách; ví dụ như ăn riêng, ăn
chung 2 người, theo đó tự định liệu.
18.
Khách khứa và người nhà của gia chủ, đạo hữu…đến đều tiếp tại phòng khách, sau
tùy theo đó hướng dẫn; nếu cho vô phòng, lộn xộn bị phạt.
19.
Phàm người xin ở chúng, trước tiên cho xem Nội Quy cư trú. Nếu muốn nhập chúng,
nên đọc quy tắc thiền môn trước. Sau bàn với Ban chức sự, xem chí nguyện và hảo
ý muốn cầu học của người ấy để hứa cho ở. Nếu gặp người ngang ngược, thô lỗ, ù
ù cạc cạc…không cho lưu trú; đề phòng giữa chúng lộn xộn, phạt.
20.
Giường, mền nệm phòng khách nói chung mọi thứ phải cần nên kiểm điểm đúng mức;
không được mượn xài riêng những đồ đem ra ngoài, và các việc như ở không hoặc
đem cũ đổi mới…Chiếu theo đó một đền gấp đôi, nếu không chịu đền lại tách riêng
cho dời đơn.
21.
Phàm có Phật sự gì theo mệnh lệnh cho khách biết hiệu bảng, sai lỗi bị phạt.
22.
Có thư từ hay quà biếu gì đến, nên hỏi rõ từ đâu rồi ghi vô sổ hoặc trong lúc
nhận giao liền, nhưng giao tận tay, người nhận làm thất lạc, sai trái phạt.
23.
Nơi phòng khách chúng vi phạm cải vả ồn ào, liền lúc đó cất đơn cho ra ngoài.
Chớ bàn việc phải trái hay ỷ mạnh, tà kiến mà làm chướng ngại bạn đồng liêu còn
chấp; chẳng chịu bàn thảo. Làm trở ngại việc Tam Bảo thường phạt cho ra khỏi
chúng.
24.
Phàm rời đơn nên xem kỹ đồ trên giường, đề phòng lấy nhầm vật của Tam Bảo; như
lầm lỗi bị phạt.
25.
Có người tới xin thọ giới hỏi kỹ lai lịch; cũng như kinh luật, y bát, hương
tín, tiền bạc v.v…đã có chuẩn bị đầy đủ chưa? Dẫn giới tử tới gặp thư ký đăng
ký đầy đủ các chi tiết. Nếu không đúng như pháp mà hứa sai lầm là phạt.
- Hương tín các
thứ, xem quyển 7, mục giới kỳ có nói rõ
- Đúng như
pháp: dẫn người cầu giới tới gặp Trụ Trì tức là hướng dẫn tại chùa, trước lạy
Phật, lễ thập phương Tam Bảo; kế nói rõ việc cầu giới. Sau khi lạy Phật 3 lạy xong,
tiếp xin lễ quý Thầy 3 lạy. Lạy xong, người dẫn lễ xướng: cầu giới tử tiến lên
lễ chư giới sư 3 lạy. Lễ 3 lạy xong chờ Thầy đáp rồi lễ Phật một lạy và lui ra.
26.
Ứng dụng theo tình đời, tiền, đồ vật và nơi công thự, lễ tiết v.v…nên thảo luận
cùng với 2 liêu chúng. Nếu theo ý kiến riêng mà làm là phạt; phạm lỗi, phạt
nặng.
27.
Điều lệ của Ban Tăng Trực xem phần công việc ở trước có nêu rõ.
Ngày… tháng…
năm… Trụ Trì…. sao lục.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Thí chủ thăm viếng, tiền bạc thu chi v.v…phần nhiều đều do tay Tri Khách.
Nhân quả thiện ác hiển nhiên không sai lầm. Luật Hành Hộ ghi rằng: xưa chùa
Bạch Tháp ở Dương Châu, ông Đạo Sưởng cầm chắc biết vật của tăng mà vẫn lấy
dùng tự nhiên. Bổng đâu các minh quan giữa ban ngày vô chùa lôi Sưởng xuống đất
định chém đầu. Sợ quá Sưởng van xin tha mạng. Phán quan hằn giọng nói rằng: “Đồ
vật trong phòng phải đem trả lại hết cho chư tăng, ta mới tha ngươi sống sót”.
Sưởng dập đầu nói: “Không dám trái mệnh”. Chuông chùa liền báo hiệu nhóm chúng,
đồ vật trả y nguyên lại như củ; y tạo tượng, thiết trai cúng dường hồi hướng
sám hối. Ba ngày sau minh quan trở lại thấy Sưởng với một bình bát, một áo nạp
(vá víu chồng chéo lên nhau), chẳng nói gì rồi bỏ đi. Từ đó Sưởng khắc phục
tinh tấn tu hành cho tới ngày công viên quả mãn. Kinh Bửu Lương ghi rằng: thà
ăn thịt mình, chứ quyết không lấy trộm vật của Tam Bảo. Ngài Động Sơn Lương
Giới có bài tụng như sau:
Chư tăng phải
nương giới tu trì
Chớ nên phóng
túng tham, sân, si
Của Tam Bảo lấy
đi cất dấu
Vẫn ràng ràng
như cặp nhãn châu
Trong bóng tối
mưu sâu tính kỹ
Chốn u minh
chúng quỉ thần tru
Một tơ hào cố
thủ riêng tư
Thân lừa ngựa
đền bù kiếp sau.
Điển Tòa trước
gọi là Thủ Tọa tức là điều hòa tánh. Điển Tòa là điều mạng, lo việc ăn uống
trong chúng chớ xem là công việc tầm thường. Vì mọi sự cúng dường cốt ở chỗ tinh
khiết. Biết tiếc giữ gìn của Tam Bảo không được phá tán, tiêu hao. Như ăn uống
không được khác chúng. Trên thùng cơm chín trước hết đơm cúng Phật, sau mới đơm
cúng quá đường. Ngoài ra, như qui định rõ ở nhà trù, hậu liêu. Phụ: phàm cúng
Phật như thức ăn nên nấu chín cho thơm tho, không nên nếm trước, không được
cúng đồ sống v.v... đơm rỗng là khinh lờn Thánh Phật, như thế tội lỗi không
nhỏ. Không được mua sắm đồ ăn riêng chúng. Như thức ăn của đại chúng và của
khách nên thử vị trước xem có vừa không. Không nên lơ đểnh làm mất mùi vị cũng
như không được làm vì tình riêng v.v…Người nhận, người cho đều bị phạt, trừ
người bịnh không phạt. Công việc này kiêm luôn hô bảng, hồi bảng đều thuộc
quyền điều khiển của Điển Tòa.
Chứng nghĩa ghi
rằng, y cứ theo Kinh Tăng Hộ, đức Phật dạy rằng: “Ông thấy chiếc bình thứ hai
đó thậm chí làm Tăng lo việc nhà trù nấu đồ ăn mềm nhuyễn thơm ngon cúng dường
mà ăn trước, bủn xỉn, xấu ác như thế với chư Tăng.” Vì nguyên nhân ấy nên sa
vào địa ngục làm cái bình thịt vĩ đại bị lửa thiêu đốt khổ sở vô cùng đến nay
vẫn chưa dứt. Ông thấy cái bình thứ ba hồi Phật Ca Diếp, là tăng tịnh nhơn lúc
làm đồ ăn uống thấy ngon liền nếm thử trước hoặc đem cho sản phụ ăn. Ở trong
tăng làm hạnh thô tháo xấu xa, do đó nên đọa địa ngục làm cái bình thịt to
tướng bị lửa đốt cháy chịu khổ đến nay chưa dứt.
Phạn Đầu: người
phụ trách tới giờ khai mõ lớn, báo giờ cơm. Trước giờ cúng ngọ xong, nghe hiệu
lệnh đại chúng tập trung tại trai đường. Dọn cho khách tại phòng khách, người già,
người bịnh dọn riêng. Ngoài những nơi ấy ra, đem cung cấp thức ăn riêng bị
phạt. Về mùa hạ nên lượng số chúng lo việc cơm cháo để gia giảm gạo cơm. Như dư
thừa nên sớm điều chỉnh không để phung phí.
Hai bửa ăn tức
là 2 buổi chính cho khách: mỗi ngày dọn đồ ăn sáng, ăn trưa tại phòng khách hay
liêu phòng; cần biết số bao nhiêu người để tiện việc tiếp đãi. Khách dùng cơm
xong, nồi niêu, chén bát…dọn xuống gọn nhẹ. Đợi khách đi, phát tâm dọn giường
gối, chiếu mền gọn gàng. Mỗi ngày luân phiên quét dọn nhà khách, trai đường,
thiền đường…
Thái Đầu (phụ
trách xào thức ăn): ngày 2 bữa rau xào đều nên hội ý Điển Tòa. Nấu nướng thanh
khiết đãi đại chúng thức ăn thực lòng chớ không bừa bãi cho xong việc.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: Ngươi thấy chiếc bình thứ nhất thời Phật Ca Diếp,
là người xuất gia làm tăng lo việc nhà trù, nhân buổi ăn sáng thức ăn còn thừa
để đến ngày hôm sau cho chúng ăn; thậm chí qua đến ngày thứ ba…Vì nguyên nhân
đó nên đọa địa ngục làm cái bình thịt to tướng bị lửa thiêu đốt thọ khổ đến nay
chưa dứt.
Hỏa Đầu (bếp
chánh) có phân 2: chánh và phụ. Đại Hỏa Đầu mỗi sớm mai sau 3 hồi bảng, bắt nồi
cháo lên. Thiền đường báo hiệu giờ tọa thiền. Sau khi nồi cháo chin bèn ngồi đó
trông chừng không cho ai vào lấy lửa. Sau khi gõ bảng dứt, lo bửa sáng cho
khách, bửa tối cũng giống nhau là đốt lửa hết lực. Tiểu Hỏa Đầu (phụ): hầu
thiền đường, đốt nhang, nấu thức ăn, dọn thức điểm tâm cho khách, cho lửa nhỏ
ngọn. Có món chưng tàu hủ, nếu chưng nồi đồng nên để tâm theo dõi. Hể tắt lửa
phải quét dọn bếp (lò gaz, điện) nên cẩn thận đề phòng đèn đuốc. Dưới bếp không
nên chất củi. Mỗi tối nên dọn dẹp quét tước sạch sẽ. Lò đốt củi nên dọn sạch
mỗi tháng một lần.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: ngươi thấy cây thịt đó thời đức Phật Ca Diếp, là
người xuất gia, làm việc hái củi cho chư tăng. Lấy củi của tăng đem về phòng
riêng đốt hoặc cho người khác. Vì nguyên nhân đó nên đọa địa ngục, làm cây thịt
cao lớn bị lửa đốt chịu khổ đến nay chưa dứt. Lại nữa, sách Thiền Tông Bí Yếu
ghi rằng, Đạt Ma Mật Đa tôn giả bên Tây Vức trí huệ sâu rộng, công đức đầy đủ
khéo biết thông các pháp thiền định tam muội. Tại Nam Thiên Trúc có 2 Thầy tỳ
kheo tánh tình hòa nhã, ưa làm việc thiện; nghe tôn giả là người tọa thiền số
một liền muốn diện kiến bèn tìm đến chỗ tôn giả ở, nhưng phải qua 3 lớp hang.
Lúc đó 2 người vào sâu trong hang thấy một vị tỳ kheo mặc y rách, tướng mạo xấu
xí ngồi thiền trước ông táo, vì vị tăng mà đốt lửa.
Hai vị tỳ kheo
hỏi:
-
Thưa trưởng lão, Đạt Ma Mật Đa đang ở đâu?
-
Hiện đang ở rất sâu trong hang này, các Ngài phải gấp gấp tới gặp Ngài.
Lúc đó 2 người
vào tới hang sâu thấy vị tỳ kheo ngồi thiền. Lúc ấy, một thầy tỳ kheo xưng là
bạn của lão tỳ kheo kia, làm sao để được gặp mặt. Lúc đó, vị tỳ kheo bạn thông
tuệ ngộ thiền liền nói: “Nay tôn giả đây uy danh đồn khắp sao không đến đây mà
ngồi”, rồi ra phía trước làm lễ và hỏi rằng:
-
Đại Đức uy danh trong đời hiếm có tại sao tự khép mình làm tăng đốt lửa?
-
Ngài hãy nghe cho kỹ: tôi nghĩ tới việc sanh tử khổ vô cùng tận. Như làm thủ
đầu để được đốt nên tôi phải làm tăng đốt lửa đó, huống gì nghĩ tới thân ư? Còn
việc đốt lửa lấy gì đủ làm khó? Tôi nghĩ tới 500 đời về trước làm thân chó đói
khổ cùng cực chưa hề được no đủ. Ngay thuở đó có một gã say ói mửa văng ra trên
đất, tôi được ăn đồ đó. Lại một thuở xưa nữa, có 2 vợ chồng người kia nấu nồi
cháo chín rồi có việc phải đi ra ngoài. Tôi thấy không có người liền chun đầu
vào nồi ăn cháo no nê rồi mắc luôn trong đó không chun đầu ra được. Vợ chồng
người kia trở về đem cháo ra múc ăn liền chấn đứt đầu tôi. Trong 500 đời tôi
thọ thân chó tuy có một lần ăn no, nhưng lại mất thân mạng. Lấy đó suy, việc
sanh tử dài lâu cùng khắp 5 đường, thọ khổ vô cùng tận. Cho nên tôi nay chẳng
nản hạ mình làm việc vì chư tăng mà nhận công việc đốt lửa này.
Lúc ấy, hai
Thầy tỳ kheo nghe lời đó xong bèn quán sâu lẽ sanh tử khổ bức không cùng, liền
được chứng quả Tu Đà Hoàn.
Thủy Đầu trông
coi nước ăn uống ở nhà bếp, phòng khách và các nơi, nước luôn luôn cho đầy đủ
sạch sẽ. Nước là nhu cầu thiết yếu chớ để thiếu hụt; cũng như không được tiếc
giữ không cho hay đối đầu là giận dữ. Thùng nước dùng xong phải đậy lại; tháng
mùa hạ phải dùng đãy lượt đặt bên cạnh để tiện lúc dùng thì lọc. Theo chúng đi quá
đường (ngọ trai), tôn trọng khách, xách mang giúp hành lý và nên tiếp xúc thân
mật. Vàng, vật quý theo lệ cũ thường trụ đòi hỏi riêng bị phạt.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng: ngươi thấy một người đứng trong nước, vào thời đức
Phật Ca Diếp xuất gia làm tăng gánh nước; thấy tăng dùng nước tâm hẹp hòi đầy lỗi
lầm, hành xử theo ý, thay vì đủ nước dùng, lại không cho những người khác lấy.
Vì nguyên nhân đó mà sa vào địa ngục đứng mãi trong nước và kêu réo “nước!
nước!” Người kia thọ vô vàn thống khổ cho đến nay chưa dứt.
* Xay bằng cối
đá, có khô, có nước: khô là xay lúa mạch, các loại (tùy nhà kho xử dụng); nước
là làm đậu hủ, các thứ v.v…Phàm việc xay nên lọc cái tinh khiết không được giẫm
đạp bừa bãi hoặc lấy riêng cho người, bị phạt. Công việc tạp nhạp gồm có: thùng
nước, thùng sạch trai đường, thùng đựng cơm cúng, bồn sạch, nồi sạch, tương dầu
của đại chúng; nấu thức ăn cho khách, nghe Điển Tọa dán thông báo, vào nhà kho,
nghe pháp, phòng ăn, lúc dùng cơm.v.v…Làm việc lặt vặt hành đường, lặt rau, nấu
thức ăn. Phàm công việc bếp núc nên làm với trách nhiệm không được giao khoán
và luôn thay nước rửa sạch.
Hương Đăng lo
việc đèn nhang, hoa quả trên chánh điện, các bàn thờ trong ngoài dọn dẹp quét
tước sạch sẽ, châm trà, đốc thúc người đồng liêu lên chánh điện tụng kinh, trừ
phi có việc công. Nếu giờ chỉ tịnh (ngủ nghỉ) chưa đến, bạch Thầy điển tọa.
Ngày mồng một, ngày rằm tới kho lấy đồ cúng trù thần như hoa quả, hương đèn và
đồ dùng, cả trà lá mà nhà trù có 10 điều phải cần người khoẻ mạnh. Nên chọn
người trung hậu, công bình sung cử chức này.
Phần phụ: Nội
Quy nhà trù gồm 10 điều: từ một que củi, một hạt gạo nên quán tới sự gian khổ
khó khăn của người đem đến; một giọt nước, một cọng rau phải nghĩ tới công lao
tạo thành, không dễ. Đã không làm hư hao của trời mà còn nên suy nghĩ cách chế
biến sao cho hợp khẩu vị của đại chúng; mặn lạt, chua cay.. thích hợp, thơm
tho, mềm nhuyễn thích nghi, thận trọng cho gia vị chớ sanh tâm khinh suất. Vì
cúng dường là mong mỏi nhưng không tham cầu quả phúc. Tuy theo chúng làm việc
mà luôn giữ đạo tâm; ngày 3 bửa cháo cơm đầy đủ nên không được bỏ một thời khóa
công phu sáng nào. Sớm tối 2 thời giờ khắc thanh tu, phòng ngăn được biết bao
tạp niệm. Có lời Minh rằng: “Tuyết Phong nấu cơm, Quy Sơn làm điển tọa, bậc cổ
đức còn phảng phất hương thơm cho đến nay chưa mất. Hãy nhiếp phục tâm tán
loạn, thận trọng lỗi lầm nơi miệng ngươi, gánh nước, bửa củi không quên mỗi
việc làm. Nơi thiền đường chú tâm tọa thiền, ngoài viện giữ oai nghi. Ai cũng
biết truyền y không ngoài cối giả gạo. Cho nên đây là hạnh môn, Phật trời có
chỗ hoan hỷ, cầu phước liền được; tạo tội (nghiệp) liền tiêu. Tinh tấn, cần
mẫn, khiêm cung là gốc của việc cầu phước. Khuyên chúng trễ lười là nguồn của tạo
nghiệp, nên tuân lời Minh học hỏi lấy đó làm bậc minh sư các ngươi vậy.”
Sau đây là 10
điều Nội Quy:
1- Những người
cùng làm việc nhà trù lo cháo cơm điểm tâm, đều lo việc bếp núc cùng chúng chịu
cực khổ; nhứt loạt không cho lấy đem ăn riêng và giữ lại phần tươi ngon cho mình
là phạt. Thời khóa công phu khuya không lên chánh điện tụng Kinh phạt. Ăn cắp
của Tam Bảo gạo, dầu, đồ thức ăn bị phạt đuổi khỏi viện.
2- Người nấu
nướng: xét, rửa rau, nấu thức ăn cho đại chúng. Nghe lời Điển Tọa điều động,
bàn về món ăn một mực giúp hợp tác, không theo là phạt.
3- Phạn đầu:
người chính lo việc nấu cơm cháo cho đại chúng cũng như rửa nồi, nấu 2 bửa cơm
cùng tiếp tay khiên nồi cơm. Nồi niêu cũng như rửa dọn chén bát; có đám trai
tăng phải dùng nồi lớn và phải 3 người nấu cơm tùy nghi phân công. Từ chối bỏ
việc là phạt.
4- Dọn bàn,
thâu dọn đồ ăn khách là người phụ tá (tiểu hỏa đầu), đốt lửa, rửa nồi, các việc
tạp nhạp; giữ thức ăn riêng cho mình, phạt nặng. Xem giờ giấc gõ mộc bảng, vân
bảng và đốt hương trước các bàn thờ, sai lầm: phạt.
5- Những việc
vặt vãnh như tới kho lấy thức ăn cho khách. Lấy cắp để riêng cho mình, phạt
nặng đuổi khỏi viện.
6- Trừ ngày trị
nhựt không theo chúng tụng niệm các thời khóa: phạt.
7- Nơi nhà bếp
lớn tiếng cải vả: phạt; cất rượu uống bắt được phạt nặng đuổi khỏi viện. Thêm
phần mới: hút thuốc phạt.
8- Ngày cúng
dường trai tăng, thức ăn, còn thừa đậu, rau… dùng lại trong bửa cháo chiều cho
đại chúng, không được vứt bỏ, ai phạm bị phạt.
9- Không được
đem nước sôi đổ ra trên đất giết chết trùng, kiến, ai phạm bị phạt.
10- Hương đăng
xem xét hành lý của mọi người, mất là đền hay bị phạt.
Ngày… tháng…
năm… Trụ Trì sao lục.
Chứng nghĩa ghi
rằng: ba đời chư Phật chư Tổ đều từ hạnh môn mà ra, như Thiền sư Tuyết Phong
Nghĩa Tồn, đầu tiên ở với Ngài Đức Sơn, làm việc nấu cơm, sau làm chủ núi Tuyết
Phong là một đạo tràng lớn tới 1500 người thiện tri thức theo học. Thiền sư Quy
Sơn Linh Hựu ở Đàm Châu đầu tiên ở với Ngài Bách Trượng làm điển tọa, về sau ở
non Qui Sơn cũng lãnh đạo đồ chúng hơn 1500 người. Cho nên nay còn ghi rõ, nêu
2 vị làm gương khuyên nhau phát tâm, cũng như thấy cổ nhơn sắp xếp đâu vào đó;
vốn không phân biệt cao thấp trong ngoài. Sách Vân Thê pháp vựng ghi rằng: tính
lui về thời niên thiếu 10 ngón tay không đụng tới nước; trăm việc chẳng can dự
tới, ngồi hương thì bảo nhức chân, đi lại bảo rằng đau lưng. Sớm tối tinh
chuyên tu tập bèn cho rằng thân tôi ốm yếu nhiều bệnh. Hoặc có người gạn hỏi,
bèn nói: người ngu dùng sức, kẻ trí dùng tâm; kẻ ngu tu phước, người trí tu
huệ. Ôi! quả thật nếu nói như thế đâu chẳng thấy Tổ Ca Diếp theo hạnh Đầu Đà là
ngu sao? Lục Tổ giả gạo là ngu; Tuyết Phong, Quy Sơn nấu cơm, điển tọa là ngu
hết; đến Phật còn không bỏ việc xâu kim (cho cụ già) làm phước không chừng Phật
cũng ngu ư? Ngoài ra, sách Sùng Hành lục ghi rằng: đời Tống Vân Cư Giản lúc đầu
vào hầu Lịch, Lịch cho nói liền 3 ngày, lấy làm kỳ lạ. Nhưng sau dạy khắc khổ
làm việc chúng, trong lúc đó Giản thưa bạch rành mạch: chủ việc, củi đuốc là
phần vụ quản trị trong chùa, cổ kim không so đo phòng giữ. Ôi! người xưa phong
thái cao vời đến như thế cũng khiến cho người nghe sanh lòng phấn khởi. Nhưng
đây chẳng riêng là nhà trù khuyên làm 10 việc như thế mà tất cả mọi hành động
đều cần phải biết ý nghĩa này.
Trị tuế: đúng
lý ra là ruộng rẫy, vụ canh tác cày bừa các loại, như công việc thu hoạch (hoa
lợi như lúa, đậu); kiêm quản lý trông coi cây cối tre trúc của chùa. Như sửa
chữa phòng ốc phải dùng vật liệu chắc chắn, nếu như được chúng bàn nhau và đều
cùng thuận. Trước trình ngài Phương Trượng rồi sau mới đốn hạ cây cối. Nếu tự ý
đốn một gốc cây phạt bồi thường hay kỷ luật; như đem làm vật trao đổi hay tự ý
cho người đều phải đền lại hay bị phạt cho ra khỏi viện. Đối với những công tác
ruộng rẫy, canh tác, thu hoạch v.v.. mà lười biếng tránh nặng tìm nhẹ không
thật tâm phải áp dụng biện pháp phạt hay cho ra khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi
theo sách khác bổ túc cho rằng, mùa hạ chuẩn bị củi cho tháng tiết trời mưa
ngâu; mùa đông chuẩn bị đủ chất đốt cho nhiều tuần phòng khi tuyết rơi. Đây là
công việc tối cần thiết. Đốn chặt cây, củi cần phải lựa chỗ đất hầu giữ lại
những cây làm cho phát triển bảo vệ môi trường. Hể đốn củi phải lên núi chặt
đốn lấy đem về dùng. Đại chúng ra ngoài làm việc nông đều phải nhiệt tâm không
được lẫn trốn. Dao, búa, dây buộc, đồ chuyên chở v.v... phải luôn kiểm tra;
người nào ở chỗ thâm sơn có thể làm công việc này an toàn.
Tri sơn: người
trông coi về ruộng nương gọi là tri đầu; quản lý tổng quát là tri sản; phải
biết đất đai của chùa giới hạn rõ ràng phân minh không được xâm lấn phạm vi
người khác đến phải đưa tới kiện tụng. Mỗi năm tiết mùa xuân họp 2 chúng lại để
làm việc và cùng xem xét lại giới hạn một lần. Đất đai nên khai khẩn kịp thời
hợp vụ mùa trồng trọt, chậm trễ: phạt. Nếu có tư riêng phạt cho ra khỏi viện.
Tới mùa thu hoa lợi phải đích thân tới nơi kiểm việc giao thu rõ ràng. Hể có
người mới nhận công việc, đưa đi xem xét các nơi phòng khách, nhà kho và việc làm
về trước; chỉ cho biết giới hạn rõ ràng tường tận; 2 bửa ăn thay đổi cơm cháo
và nên đề phòng việc mất trộm. Nếu có người chôm lấy cắp phải đưa tới phòng
khách xử lý, không được tự ý đánh đập đưa tới sự lôi thôi rắc rối.
Tuần sơn - hợp
tác với Tri sơn làm việc: tre, gỗ, trà, măng tre… đều phải biết để quản lý. Như
có kẻ trộm tre, gỗ không được tự thả dông mất, nếu điều tra biết được là phạt
nặng.
Cơm cháo 2 buổi
ở trai đường cũng quán sát y như vậy.
Sài đầu (chủ
việc củi đốt) tức là việc nhỏ, mỗi ngày lo bổ củi cung cấp đủ cho nhà bếp.
Chừng ấy công việc như quy định, nếu nhiều hơn phải chi thêm tiền, ít lại giảm
bớt tiền chi tiêu. Quanh năm không được đẵn cây, đốn gỗ, như phá núi, đốn củi
bán v.v…làm thiệt hại môi trường sống.
Tri sơn không
được tự chuyên làm chủ, đốn củi không được bán riêng. Điều tra ra được phạt bồi
thường. Dao, dây, đồ dùng trong nhà đều phải lo sắm đầy đủ. Trường hợp gặp vị
tăng trong chùa viên tịch, nên luân phiên canh giữ kim quan; cử người tiếp nhận
lễ vật, và bàn thảo lễ hỏa thiêu. Công việc này phần nhiều do Phật tử đảm
trách.
Hương đăng sơn
liêu: thay trà, châm nước, lo cơm cúng, đốt đèn suốt 3 ngày. Vào kho lấy giày
cỏ cho khách. Mồng một, rằm lấy nhang đèn, trà quả cúng Phật phải tới kho lấy
để dâng cúng. Quét dọn liêu phòng khách, trông coi hành lý (khách), nếu để bị
mất phải đền bồi.
Phụ: sơn liêu
qui định 7 điều. Luận về sơn mạch (sung thạnh) là một ngôi chùa núi có long
mạch tốt; lâm thọ là một chùa có rừng cây (có sự che chở) sum thạnh. Tre, gỗ,
hoa, quả, phòng chư tăng, kho chứa, đất đai, núi đá…nhờ phong thủy không làm
thương tổn mọi vật chung quanh là hợp sự hưng thạnh của thiền môn. Tăng chúng
vui hòa và được sống chung yên ổn. Vì vậy, nên giữ môi trường không nên đốn chặt
bừa bãi; mọi đất đá không được tự tiện đào xới làm long lỡ.
Đây là điều đại
cương của sơn liêu: ngoài ra, những điều khác có nêu rõ trong các quy tắc sau:
-
Tuần núi bất luận gió mưa: chùa núi cử người tuần tra trong ngoài, trên dưới,
chung quanh, không nên lười biếng đến đổi có kẻ trộm vào lấy đồ đạc. Người nào
lười biếng lánh nặng tìm nhẹ, phát hiện được phạt nặng.
-
Ở sơn môn có tre, gỗ, hoa, quả, củi v.v…không được tự đem bán. Nếu phạm bị phạt
cho ra khỏi chúng.
-
Công tác nhẹ phải nghe lời Tri sơn phân phối; đốn chặt cây gỗ, củi, cây cối; không
được tự ý đốn chặt ngọn (cây lớn) hay phứt trụi không chừa lại cây nào. Vi phạm
là phạt.
-
Công tác, nếu chùa có công việc, vừa nghe kêu gọi liền đáp lời, nếu người nào
cố tình phạm bị phạt.
-
Nơi sơn liêu mà đánh bài không luận tăng tục, hể ai phạm đuổi ra khỏi chúng.
-
Nếu đánh mắng ngay trong liêu phòng, không luận tăng tục, hể phạm là phạt ra
khỏi chúng.
-
Tri sơn, trông coi chúng các liêu nên thưởng phạt phân minh, nếu như thiên lệch
là phạt.
Ngày…. tháng…năm…
Trụ Trì…. sao lục (dán ở sơn liêu).
Chứng nghĩa ghi
rằng: như chung quanh tòng lâm có tre, gỗ cần nuôi dưỡng làm cho cảnh trí thêm
đẹp, phải chăm sóc cho xanh tốt để giữ long mạch. Vì phong thủy tốt thời tòng
lâm mỗi ngày càng hưng thạnh; sơn khí ngày càng linh; không xuất hiện người tài
cũng làm đẹp cảnh quan.
Trông coi dọn
dẹp quản lý nhà tắm, kiêm việc coi sóc bệnh nhân về thuốc thang, cơm cháo các
việc, hay chỉ xem xét các phần nhà tắm, củi rác v.v…phải lo dự trữ củi, đề
phòng khi thiếu hụt, là phận sự các Ban liên hệ như đã nói trên.
Phần phụ: Qui
tắc nhà tắm, nêu rõ trong 3 điều: đun nước nóng, dọn quét sạch sẽ, chà rửa tươm
tất, vì đó là bộ mặt xưa nay, dù không là bậc chân nhân chưa đạt sắc không;
nhưng thần thánh luôn thân đến cõi trần, biết hết nóng lạnh mới làm sáng cái tự
tánh vốn linh:
Cho dù vắng
khách lại qua
Thánh nhân cũng
hẳn đoái hoài ghé thăm
(Tảo địa - lời
ghi chú của người dịch).
Quả thật một tơ
hào cũng chẳng buộc chân thiền khách được, chỉ có tâm hướng nội tìm lại chân
diện mục mà thôi. Có bài minh rằng:
Núi cao đường
xa
Đốn củi gia
công
Nấu đốt nhiệt
hỏa
Công sức bỏ ra
Người mê không
biết
Tắm rửa tối đa
Trẻ thơ cười
vui
Nước nóng ngâm
đã
Việc tắm thích
thỏa
Mọi sự an hòa
Rửa tâm tẩy ý
Ngày càng sáng
ra
Báo đức làm sao
Chợt hiểu nước
là
Nguyên nhân tất
cả
Lời minh tuân
thủ …
Sau đây là 13
điều quy tắc thuộc về nhà tắm:
1- Mỗi ngày tắm
gội đầu sạch sẽ, chuẩn bị đủ vật dụng tắm như đốt củi, nước nóng cho vào bồn
tắm
2- Đốt hương,
mặc niệm cầu Thánh tăng thân lâm tới trong khoảnh khắc. Trước mời Phương
Trượng, kế thỉnh khách lớn tuổi; sau gõ 3 tiếng bảng nhỏ cho 2 vị lãnh chúng 2 dãy
tắm, tiếp đến 4 tiếng bảng cho chư tăng thiền đường.
3- Sau đó gõ 2
hồi 4 tiếng cho đại chúng; kế 3 hồi lại 6 tiếng cho khách khứa tắm. Không đợi
bảng nhảy vô tắm đại bị phạt.
4- Có khách quí
như các vị Kinh sư lo việc Kinh sám. Đun nước nóng trước mời khách tôn túc; kế
các vị Kinh sư, sau hương đăng và người làm việc; tiếp theo những người làm
việc nặng và sau cùng là đại chúng.
5- Những tiết
Cốc Vũ đến Hạ Chí năm ngày tắm một lần. Mùa hạ đến xứ nóng mỗi ngày tắm một
lần. Xứ nóng tiết thu 5 ngày tắm một lần; Thu phân đến Cốc Vũ nửa tháng tắm một
lần.
6- Trong phòng
tắm có treo một bảng nhỏ; nước vừa lạnh gõ 2 tiếng, nước đun sôi gõ 3 tiếng; phải
cho thêm nước lạnh vào, gõ một tiếng bảng. Tắm không được réo gọi lớn tiếng, vi
phạm là phạt.
7- Phàm khi tắm
mỗi người phải nghe theo thứ tự hiệu lệnh bảng, không được làm trái (trừ tuổi
nhỏ), người nào sai trái cuối cùng bị phạt.
8- Phải xem ngó
2 bên và mọi sự nói cười ồn ào, cũng như khạc nhổ v.v…bị phạt.
9- Thay quần
mặc áo mỗi mỗi nên từ từ không được buông lung, vi phạm là phạt.
10- Khi tắm mỗi
người tự lượng, không được tắm lâu quá làm trở ngại người sau, vi phạm bị phạt.
11- Xử dụng
chủy giác (sừng nhọn) bị phạt
12- Có bịnh ghẻ
lở nên từ từ tắm sau, không được tắm trước, người nào phạm bị phạt.
13- Tăng trực
lo việc tắm gội lưu tâm quán sát xem có ai phạm, y theo Nội Quy để xử phạt;
không chiếu Nội Quy bị phạt.
Ngày…tháng…năm…..
Trụ Trì…. sao lục (dán bên phía ngoài tường phòng tắm).
Chứng nghĩa ghi
rằng: Phật dạy lập phòng tắm để tẩy rửa thân thể hầu chuyển tải đạo. Phật dạy
Bồ Tát - tụng giới - để nhập giới vào thân phát sanh định huệ. Sao lúc tắm còn
phóng túng thì thân dơ chưa sạch; tâm dơ sanh trước, là người không biết tàm
quí vậy. Vả lại, đã làm ông tăng tiểu giải, tắm gội nên tránh trống trãi; hong
phơi đồ lót chớ nên phơi chỗ đường qua lại. Dựa theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, có
vị tăng Như Bảo tại Thường Xuyên, chùa Giác Hoa. Nghe cổ đức nói lấy nước cho
chư tăng tắm, có công đức để hồi hướng sanh về Tịnh Độ; bèn sửa nhà tắm cúng
chư tăng; cho đến 81 tuổi còn mời chư tăng đến nhà uống trà, nói lời giả biệt
mà qua đời. Y cứ câu chuyện trên cho thấy rằng, người lo một công việc tắm rửa
mà công đức thật là nhiều như vậy. Việc tạo lập nhà tắm hoặc do quyên góp hay
xuất của Tam Bảo, tùy nghi thiết lập không thể thiếu được.
Tịnh đầu (dọn
rửa cầu tiêu) 3 thời, thời quá đường sau khi đóng cửa: 4 tiếng bảng, bật đèn
sáng, thời khóa tụng tại chánh điện, chọn thay các thùng sạch. Miền Bắc phần nhiều
không dùng thùng sạch, chỉ dùng phòng vệ sinh nên phải quét dọn sạch sẽ. Đi
xong cần rửa tay bằng nước sạch, lau khô bằng khăn tay. Sau thời công phu tối
xong đem cất các thùng sạch vào. Phàm ngày tắm, nếu không có người lo, liền cử
người thay thế theo qui tắc nhà tắm. Nồi nấu nước tắm có thể nhờ Tri viên lo
liệu cũng được.
Chứng nghĩa ghi
rằng: nhà xí dơ nhưng gọi là tịnh đầu có 2 nghĩa gồm cả sự và lý. Sự như trong
luật có rất nhiều như để sám hối tội phá giới mà các tỳ kheo phạm; có nghĩa tỳ
kheo phạm giới thường phải lau quét dọn cầu tiêu sạch sẽ làm cho chúng tăng
hoan hỷ để phục giới đã phạm mà được lại giới thanh tịnh. Lý như luận Đại Thửa
Chỉ Quán ghi rằng: phàm đại tiểu tiện cũng đọc lời quán tưởng để quán…Đang ở
chỗ dơ nghĩ tới lời này: đây là những việc bất tịnh. Hẳn làm cho tâm Hữu liền
thành phi hữu. Nay ta phải biến nơi bất tịnh này làm cho thanh tịnh, tức quán
chỗ dơ thành ao báu, suối báu, trong đầy nước thơm thanh tịnh, hoặc đầy sữa
lạc. Tự nghĩ thân ta thành thân 7 báu để vứt bỏ đại tiện liền thành sữa thơm,
mật ngon v.v…Lại phải biết tướng tịnh này do tâm tạo, nó giả dối không thật. Đó
là pháp quán được gọi là phương pháp chỉ (dừng, dứt), biết đây là chỗ bất tịnh
từ thân thải ra cũng là vật bất tịnh. Do tâm quá khứ huân tập ác nghiệp nên
hiện tại mới hiện tướng bất tịnh này. Nhưng nghĩ tâm Hữu tức phi Hữu, chỉ nhứt
tâm bình đẳng vô niệm gọi là chỉ (pháp dừng dứt).
Hỏi: như trên
nói có pháp tịnh, bất tịnh tuy do tâm tạo cũng đều do nghiệp quá khứ huân tập
thành, làm sao có thể biến thân giả hiện tại gọi là chuyển tâm được?
Đáp: Tâm có đủ
pháp tánh, nhưng không gặp duyên thời không khởi. Cho nên nhuộm trong dơ uế do
nghiệp quá khứ mới có hiện tại. Ao báu, sữa lạc…nếu không qua các duyên hẳn
không thành. Nếu gia tâm quán tưởng tức trừ dứt các pháp bất tịnh; tâm huân
thanh tịnh nên các tướng dơ phải diệt. Đây nói cách ngăn dứt nghiệp quá khứ mà
định có thể huân tâm khởi tướng. Công phu hiện đời cũng do tâm huân tập mà phát
ra diệu dụng. Như đang trong nhà cầu (rest room) mượn quán tâm huân tập các giả
tướng như thế. Vì tâm đã thay đổi tướng cũ nên trong hiện tại trừ bỏ được niệm yêu,
ghét.v.v…Ngẫu Ích đại sư nói: “Quán tướng đại tiện dơ là sạch có thể trừ dứt
tâm yêu, ghét. Quán đồ ăn sạch là dơ liền trừ hết tâm yêu, nên yêu, ghét ắt hẳn
dứt sạch, bèn dứt hết phiền não.” Quán giả thuần thục (nhuần nhuyễn) ắt theo
niệm chuyển đổi; phương tiện xuất thế thuần thục qua tiến trình này. Nếu ngộ
được bản chất tịnh - uế này là có thể ngộ được cõi đại thiên không ngoài tâm.
Từ đây dơ dứt tâm tịnh mà không biết thân là pháp giới, pháp giới là thân ta.
Thân pháp giới của ta chẳng phải một chẳng phải 2 tức 3 độc tự trừ, các tội
tiêu diệt. Đây chẳng phải do tịnh đầu là gì, nên quán sát như thế. Hết thảy mọi
người đều có thể quán xét như vậy.
Tri ốc: trông
coi bảo trì vật dụng, điện đường, phòng xá, nhà bếp, nhà kho các nơi, nóc nhà
v.v…luôn luôn xem xét có chỗ nào dột hư phải gấp sửa lại; hoặc sửa chữa hay tạo
mới cũng thưa cho Thầy Giám Viện biết để kịp thời sửa sang. Tháp Tổ và các tháp
khác cho chí đường sá hư hỏng, đồ đạc tổn hại v.v…bàn thảo với Giám Viện tìm cách
sớm lo tu bổ. Như sửa sang các cửa nẽo đều phải thận trọng, không nên xem
thường. Nếu thực sự sửa không được nên thỉnh ý vị cao minh chịu khó xem qua mới
được. Phàm ao, giếng không được lấp bừa; nhà mát không được tạo lộn xộn. Tre,
gỗ, không được đốn chặt bừa, đất đai không được đào xới lung tung…Nếu cố tình
đào lấp, đốn hạ bị ảnh hưởng gió mưa. Tri ốc cùng với chủ sự làm, đồng bị phạt
cho ra khỏi viện. Nếu Trụ Trì đứng ra chủ chốt; 2 chúng thống nhất đồng ý đưa
ra bàn công khai giữa chúng. Nếu người can gián lãnh thế Trụ Trì. Giám tu cho
chí Tri ốc lo việc phụ. Nếu không có Tri ốc thì Giám tu sửa sang tu tạo trông
coi thợ thầy, nhân công, tiền bạc vật liệu v..v…công việc này nên khéo nơi công
tác, người lão luyện mới cử sung công việc này.
Hai phần này
phải tuần tự mà làm. Điều quy định này, xem “Chứng Nghĩa, Chương Trụ Trì”, phần
mục tu tạo tăng phòng ở trước có nói rõ.
Hóa chủ: Có
nhiều dạng khác nhau, như nói gặp tòng lâm đơn sơ vô sản, lỡ ngộ năm mất mùa
lúa thóc không đủ dùng phải xin Hóa chủ tiền mua gạo thóc; những việc liên hệ tới
đại trùng tu Phật điện cũng thỉnh xin Hóa chủ để sửa chữa. Ngoài các việc ấy
ra, còn có Hóa chủ thực phẩm, Hóa chủ muối, Hóa chủ giầy cỏ, Hóa chủ hương đèn
v.v. Phàm Hóa chủ phải hóa duyên xin tiền bạc, vật dụng, đi nhận ở các địa
phương, giả sử gặp trùng hợp chỉ nên xin tùy hỉ cúng dường mà không nên nài ép
miển cưỡng. Nếu dưới hợp nhân tâm trên mới ứng với tâm Phật. Lời lẽ ngôn từ ứng
xử cần phải cho thật khéo léo. Nếu có một chút gì sơ sót cẩu thả là phạt hay
cho ra khỏi viện. Nói chung khởi sự không nên quyên góp nếu thấy bất đắc dĩ,
như công việc điều hành tốt hẳn không lập công tác quyên giáo này. Nếu ai mượn
danh nghĩa ra ngoài quyên góp riêng, lập tức tẩn xuất khỏi viện.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Tòng lâm xưa nay phần nhiều được an ổn là do Hóa chủ tiếp xúc, lạc quyên;
Trụ Trì tán dương công khó nhọc, tưởng thưởng công lao đáng kính, cho đến kẻ khoe
công, khi chúng, giữ bám đàn gia hoặc chứa của riêng, sai lầm nhân quả làm
thoái tâm đàn việt. Thời Phật tại thế có các đệ tử từ xa về ghé qua các thôn
lạc, dân trông thấy nhưng đóng cửa lại. Hỏi họ vì cớ gì, họ bèn nói rằng, sợ
chư tăng tới quyên giáo. Ôi! Há không lấy đó làm bài học soi sáng hay sao!
Không biết ý nghĩa chữ “Hóa” có nghĩa là lấy đức cảm hóa người, chứ không phải
chỉ việc quyên góp đồ vật của người; nên xem lại ý nghĩa này mà suy nghĩ cho
kỹ.
Kinh Hoa Nghiêm
phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng: “thấy người không xả, cầu cho chúng sanh, thường chẳng
xả lìa, được công đức hơn. Thấy người hay xả, nguyện cho chúng sanh, trọn được
xa lìa, 3 đường ác khổ”. Căn cứ 2 bài kệ này đối với người không xả còn phát
tâm từ, đâu thể khẳng quyết với người đã xả của cải mà ý còn giữ lợi lộc. Người
làm Hóa chủ phải hiểu rõ việc này.
Hóa phạn: vai
trò này so với Hóa chủ ở trước không giống. Đây chỉ hóa duyên để nhận trai phạn
mà thôi, do lấy ý từ chữ “khất thực” mà ra, tức tiếp nạp ghi nhận để thâu thập
đồ cúng. Công việc này phần nhiều giao cho người rành việc. Không thể nhân đây
làm chiếu lệ, lơ là được, hoặc quản lý nhân sự hoặc đến nhà ngưòi nhầm chỗ
khuất nói chuyện với người nữ, gởi tặng vật qua lại v.v... đều bị phạt.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Hóa phạn (xin cơm) cũng gọi là hóa duyên. Công việc này phần nhiều gần
gũi người thế tuc. Cho nên tránh không được ở chỗ khuất cùng người nữ nói
chuyện để tránh 2 việc: ngoài tránh sự gièm pha, tỵ hiềm, và trong phòng hộ tâm
mình. Kinh Pháp Hoa chép rằng: nếu có nhân duyên lúc vào nhà người một mình,
chỉ nhất tâm niệm Phật. Nếu có thuyết pháp cho người nữ nghe không được cười hở
răng, không để lòi ngực bụng mà nhẫn đến vì pháp; do không muốn thân cận, huống
gì là việc khác ư? Đây là lời vàng tha thiết răn nhắc đó. Ngoài ra, Kinh Hoa
Nghiêm, Phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng: thấy người nghiêm tốt, nguyện cho chúng sanh,
đủ 32 tướng tốt, lấy làm trang sức. Thấy người tướng xấu, cầu cho chúng sanh,
bỏ trang sức hảo, hành hạnh đầu đà. Thậm chí nói rằng:Thấy người đoan chánh,
cầu cho chúng sanh, đối với Phật, Bồ Tát, thường sanh lòng tin thanh tịnh. Thấy
người xấu xí, nguyện cho chúng sanh, đối với việc bất thiện, không sanh ưa đắm.
Luận về tướng
đoan nghiêm đối với người nữ chiếm đa phần. Cho nên 4 bài kệ trên để giáo hóa
cần phải ghi khắc trong tâm; không chỉ vị Hóa chủ mà tất cả tăng chúng cũng nên
ghi nhớ.Thu nhận đồ cúng là vai trò của Hóa phạn. Người đem cơm cúng vị tăng;
vị tăng liền dùng cơm này dâng cúng Phật trước, sau mới thọ dùng. Phần nhiều
những vị tăng tu khổ hạnh mà người phát tâm làm việc này được phước. Bởi vì,
tòng lâm ngày nay đa phần liên hệ loại hóa phạn này, quy ra tiền bao nhiêu cúng
bấy nhiêu. Giả sử cúng một ngày đủ số 30 cân, đem 30 cân tính ra số tiền bao
nhiêu. Tiền do sức lực tạo nên không thể không quan tâm; huống nữa nhân được
cúng dường đại chúng là đã có công đức rồi. Duy phải thật tâm hết lòng mà làm,
những việc khác qui định nói rõ ở sau. Nhận cơm đầy đủ rồi đem tới nhà khách
mời các Thầy trong chúng chia đều.
Ngày Tết: mồng
một mỗi người lãnh trách nhiệm trông coi tiếp khách, chuẩn bị thức ăn. Sáng
mồng 2, lên phòng Phương Trượng dùng cơm, dùng trà; rồi phân nhau đưa thiệp
chúc Tết tới thí chủ.
(Trong nguyên
bản, có một số việc thấy không thích hợp như: cơm chúng thường trụ qui ra mỗi
cân bao nhiêu tiền, mỗi quí hợp bàn giao công việc, phân phối giày dép, mỗi
tháng cấp phát mỗi người bao nhiêu v.v…Người dịch lược bỏ không dịch chừng 6, 7
dòng. Mong các vị cao minh hoan hỷ).
Nếu có cúng
trai tăng, đại chúng đến trai đường theo chúng thọ trai.
Chứng nghĩa ghi
rằng: người được đề cử vào việc thu vật cúng là thay thế sự vất vả khất thực
của chúng tăng. Trong lúc thu nhận đồ vật cúng đó mà tìm hiểu ý nghĩa của việc
thu nhiếp bản tánh mình. Luận khi Phật còn tại thế lưu tiếng thơm, chỉ lấy khất
thực làm món ăn chánh mạng.
Tiếng Phạn là
Tỳ Kheo, Trung Hoa dịch là khất sĩ. Có nghĩa là người xin ăn; trong xin Pháp để
dưỡng tánh; ngoài xin đồ ăn để nuôi thân. Xin ăn để nuôi thân, xem phần sau nói
rõ. Xin Pháp để dưỡng tánh như nói, tôi xin tức đồng với kia xin. Kinh Hoa
Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh ghi rằng, vào xóm khất thực, nguyện cho chúng sanh, nhập
sâu pháp giới, tâm không chướng ngại, đến cửa nhà người, cầu cho chúng sanh
nhập vào hết thảy trong cửa Phật Pháp. Vào nhà người rồi, nguyện cho chúng sanh,
đạt được Phật thừa, bình đẳng 3 đời. Dựa theo 3 bài kệ đây, ta thấy rõ ràng,
nghĩa lý sâu xa cần phải tham cứu kỹ lưỡng. Như nói nhập sâu pháp giới tức lấy tục
hiển chân, lấy sự đạt lý. Pháp giới tức bản thể thân tâm chúng sanh vậy. Từ xưa
tới nay, sáng suốt rỗng thông, rộng lớn như hư không chỉ có một chân cảnh mà
thôi, không có ngằn mé mà bao hàm muôn loại, rỡ rỡ ở khoảng giữa mắt tâm nhưng
cùng chẳng thấy nhau. Lồng lộng ở nơi sắc trần mà lý không thể phân biệt; không
thấu triệt con mắt pháp, lìa minh trí của nghĩ suy, không thể thấy tự tâm không
chướng ngại như thế đấy. Đây gọi là nhập vào hết thảy cửa Phật Pháp, và cũng
còn gọi là đạt nhập Phật thừa 3 đời bình đẳng vậy.
Xin Pháp để
dưỡng tánh như thế, trọn ngày nhận vật cúng nhưng không thấy chỗ thu nhận đồ;
suốt ngày vất vả nhưng không thấy có vất vả vì trong đó phước huệ không thể nghĩ
bàn. Đây chính là nghĩa của việc thu nhận vật cúng vậy.
Lời phụ: thu
cúng vật dụng có qui định 18 điều. Ba đời chư Phật đều từ hạnh môn mà ra, huống
chi chấp một việc thu cúng, khuân nước, vét bùn, xông pha với lạnh lẽo, dãi dầu
với nóng bức, cũng thành không. Tâm thành cúng chúng mà không nghĩ tới đạo thật
cũng khó đảm trách công việc này.
Cổ nhân nói
rằng: nhận đồ của 10 phương thí chủ cúng làm cho họ tăng thêm phước huệ; cúng
dường cơm cho 10 phương tăng, người cúng thành đạo nghiệp. Phi người phát đại nguyện
không thể làm được như đã phát nguyện thực hành nên cần dựng cờ tinh tấn, mặc
áo nhẫn nhục, ngồi xe cửu viễn, mang tâm lợi tha ắt được phước báo trong tương
lai. Người gây tội lỗi sợ hãi vây chặt thêm sâu, tâm buông lung khởi lên, nhân
sắp thành Phật lại là địa ngục, có ăn năn cũng đã muộn. Cho nên Thanh Quy lập
ra để giữ chí, nay đặt cử 2 người thủ liêu để kiểm soát người ra vào sớm tối;
có lỗi hẳn nêu lên, lỗi nhỏ chỉ thưa bạch nơi nhà khách, lỗi nặng trình lên
Phương Trượng. Nếu thủ liêu biết lỗi nhưng vẫn dung túng che đậy, bị chúng phát
giác cùng bị phạt theo như nguyên tắc sau đây, mỗi người phải tôn trọng:
1- Ra ngoài bôi
bác Tam Bảo, phạt nặng đuổi ra khỏi viện
2- Nhận vật
cúng về (khất thực), rửa chân, về phòng, tọa thiền, không được đàm luận làm
động người khác, ai vi phạm bị phạt
3- Người đồng
hành cải cọ gây náo loạn, phạt nặng
4- Thùng đựng
cơm mỗi năm sửa mới một lần; như cố ý làm hư hỏng mà không chịu sửa lạI bị phạt
5- Khiêu khích,
kình cải om sòm động chúng, cho ra khỏi viện
6- Phàm có việc
gì, trước thưa cho chúng trưởng, đưa lên Phương Trượng, người nào vi phạm bị
phạt
7- Quyên góp
tiền của riêng hoặc lấy cơm canh, tiền gạo bị đuổi khỏi viện
8- Nhân lo việc
riêng đến đổi bỏ việc ăn uống bị phạt
9- Gió mưa,
lạnh nóng không chịu nấu ăn, phạt
10- Ra ngoài
gây sự tranh đấu với người, phạt
11- Đem của Tam
Bảo như tre gỗ, hoa quả v.v.. cho người bị phạt
12- Tới bữa ăn
không theo chúng, xài tốn nhiều củi nước của Tam Bảo và dấu chứa củi riêng, nấu
đồ ăn riêng trong phòng, phạt
13- Vô cớ một
ngày không đi khất thực, phạt như nấu cơm một số ngày
14- Nếu có bịnh
phải nhờ người thay thế, cho đến nửa tháng không hết bịnh, giao qua người khác
đảm trách, vi phạm bị phạt
15- Để tăng hay
tục ở trong phòng ăn uống tại nhà ăn
16- Tự ý ra
ngoài ngủ qua đêm hoặc đem cơm cho người bị phạt
17- Ngoài phòng
ngủ nói cười lớn tiếng, tháng hạ ngủ cởi trần mặc quần đùi là vi phạm Nội Quy;
chúng trưởng không đưa ra, đồng bị phạt
18- Không chờ
hiệu lệnh bảng, chuyên lấy đồ đựng cơm cháo ngoài 3 bửa ăn, lấy thức ăn như cơm
canh mà không đem trả lại nhà trù. Quá thời đem trả bị phạt
Ngày… tháng…
năm… Trụ Trì …. sao lục.
Dán Nội Quy
ngay trong trai đường chỗ nhận đồ cúng.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Thời Phật tại thế phân chia đi khất thực, xem đó là qui định đúng đắn.
Ngày nay ở Đông độ số nhà cúng dường rất ít không đủ cúng cho chư tăng một bửa ăn.
Vả lại, tăng chúng đa phần phức tạp không có oai nghi, nếu cùng ra ngoài khất
thực không khéo khiến mọi người không phục. Hơn nữa, ngăn gìn giữ đạo nghiệp
nên lập công tác này thay cho chúng đi khất thực. Nhưng việc nhận đồ cúng để
thay sự lao nhọc cho chúng rồi, chư tăng cớ sao ngồi an hưởng? Cho nên luật
định lúc thọ thức ăn, phải tưởng 5 phép quán này:
1- Kể công
nhiều ít, xem của kia từ đâu đem đến
2- Xét đức hạnh
mình đủ thiếu để nhận của cúng
3- Ngăn phòng
tội lỗi mà tâm tham là gốc
4- Đúng là món
lương dược để trị liệu thân khô gầy
5- Vì muốn
thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn này.
Do 5 phép quán
này thích hợp với việc tăng tấn đạo nghiệp, cho nên nói rằng thân nhờ thức ăn
mà tồn tại; đạo do thân tu mà thành. Như thế, lần lượt không để tiêu hao của tín
thí, nếu không như vậy, cũng khó mong đền trả. Sách Thiền Tông bí yếu ghi rằng:
xưa tôn giả Đề Bà sau khi đắc pháp đến nước Ca Tỳ La, ở đó có một trưởng giả
tên là Phạm Ma Tịnh Đức. Một hôm có một cây trong vườn mọc tai nhưng thoảng mùi
thơm rất ngọt ngào. Chỉ có trưởng giả và người con trai thứ hai La Hầu La Đa
hái ăn; ăn xong thân thành cao lớn. Ngoài ra, những quyến thuộc khác không ăn.
Tôn giả Đề Bà biết nguyên nhân đời trước bèn đến sanh vào nhà kia. Ông trưởng
giả hỏi nguyên nhân đó, Đề Bà đáp:
-
Ông từng cúng dường một vị Tỳ Kheo phải không? Song vị Tỳ Kheo này đạo nhãn
chưa minh, tiêu hao của tín thí mà quả báo là làm tai cây. Chỉ ông và đứa con
trai tinh tấn cúng dường nên mới được hưởng.
Đề Bà hỏi ông
trưởng giả:
-
Ông bao nhiêu tuổi?
-
79 tuổi.
Đề Bà nói:
-
Ông học đạo không thông lý, chuyển thân trả nợ tín thí. Năm Ông 81 tuổi thời
cây ấy không mọc tai nữa!
Như qua câu
chuyện này nên lấy đây làm bài học.
Kinh Phạm Võng
ghi rằng: “Thà vì miệng này nhai nuốt hoàn sắt nóng, và lửa đỏ hừng hực cháy
trải qua trăm nghìn kiếp, chứ trọn không phạm khẩu nghiệp.” Ăn thức ăn trăm vị của
tín thí đàn việt mà không biết xét nghĩ. Đây là lời chân thật của chư Phật dạy.
Tăng thọ nhận của cúng dường phải nên suy xét nghĩ đó.
Trang chủ hay
cũng gọi là Tịnh chủ: làm chủ tịnh thất. Người đời hay gọi là viện dưới. Phàm
trang trại, công việc đất đai đều là chuyên gia làm chủ. Đất ruộng, nhà cửa,
nông cụ… hẳn đều thuộc quyền kiểm soát, tu bổ. Nông trại nhỏ tùy thời phân
phối; còn như trang trại lớn phải bạch chư tăng thường trú định đoạt việc canh
tác, thuế má…nhứt loạt phải minh bạch. Đừng để chủ tá điền xéo bớt, như canh
tác ruộng rẩy trước hết phải kiểm tra rõ người điền chủ tốt xấu, và trình chư
tăng thảo luận rồi mới cho lãnh ruộng canh tác. Đừng vì tham lợi nhỏ mà đem tâm
riêng tư chia cấp đến nổi về sau gặp khó khăn khốn đốn. Giám thu trông coi việc
thu xuất lúa gạo, nộp thuế các khoản phải giao nộp rõ rằng minh bạch, đừng để
sai sót. Lấy nhiều trả ít, lấy ít trả nhiều… không thể như vậy được. Thuế má
phải xem xét chi li việc này. Trang chủ giám sát 2 việc: thu, chi; việc đơn
giản phải có là người liêm chính, lão luyện mới phát tâm làm; phụ tá Trụ Trì
sung chức này.
Qui tắc cổ cho
rằng Trang chủ, Giám thu đều liên hệ công việc trên; ngày nay đổi lại là Tự chấp.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Tăng Hộ chép rằng; ngươi thấy người chủ đất đầu tiên thời Phật Ca
Diếp, là người xuất gia; trong số ruộng chư tăng lấy làm của riêng, không trả
lại cho tăng trực. Lúc đó có một vị Tỳ Kheo giữ gìới luật, y giới quở trách:
-
Ngươi nay tại sao không trả lại cho tăng trực?
Lúc đó người
kia dựa thế lực vua không nghe lời dạy khuyên, trả lời các vị tỳ kheo:
-
Tôi là tôi tớ các Ngài, nếu các vị có sức tại sao không tự trồng trọt lấy?
Do vì nhân
duyên đó nên sa vào địa ngục bị lửa đốt cháy đến nay chưa dứt. Ngươi thấy người
chủ đất thứ nhì thời Phật Ca Diếp, là người cư sĩ làm ruộng cho chư tăng, không
trả lại cho tăng trực. Do nhân duyên đó đọa vào địa ngục làm đại nhục địa, thọ
vô lượng khổ đến nay chưa dứt.
Viên đầu hay
người trông coi viên cảnh - vườn hoa. Bốn mùa vun bón không nên bỏ hoang phế.
Mọi vật sản hợp thời quản lý đừng để hữu danh vô thực mà không giúp gì được cho
đại chúng. Phàm tới mùa rau dưa tươi tốt không được tự ăn trước hoặc đem rau
vườn gởi bán riêng. Nếu phát hiện được, phạt nặng.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh chép rằng:
Thấy vườn rau
cải,
Cầu cho chúng
sanh,
Năm dục thanh
sạch,
Dọn trừ cỏ ái.
Y cứ vào bài kệ
trên tức lấy sự hiển lý. Người làm tri viên không những phải tận lực dọn cỏ rác
mà còn phát đại tâm nhẫn đến khi đạt ngộ đại đạo.
Dựa theo sách
Thiền, xưa dưới tay Lương Sơn Quán Hòa Thượng, có một Tri viên tham thiền đạt
định. Trong chúng phần nhiều nghi ngờ không tin. Một hôm có vị tăng đến trêu
chọc tức ông ta mới lộ chân tướng, bèn hỏi Tri viên:
Tại sao không
tới hỏi Hòa Thượng một vài công án để kết duyên?
-
Trừ tôi ra không đến hỏi ai hết. Nếu xuất hiện phải bị giáo hóa, lão quê mùa
này dưới thấp nơi quê, so với Lương Sơn đứng ở trên cao.
Viên đầu lại
hỏi:
Lúc đạo tặc vào
nhà phải làm sao?
- Biết
rồi không gây oán cừu.
Biết rồi sau đó
phải làm gì?
- Nhẫn
nhục hướng về cõi vô sanh.
Để đừng cho y
có nơi an thân mạng chăng?
- Nước tù
không dung được rồng.
Rồng bơi trong
nước như thế nào?
- Sóng êm
chẳng tạo nên sóng dữ.
Bổng chốc ao
nghiêng đỗ, sụp núi thì sao?
Lương Sơn bỗng
từ pháp tòa đứng dậy đi xuống nắm ghì chặt hỏi:
-
Xà Lê (A Xà Lê) đừng dạy lão tăng mặc chéo cà sa ướt!
Ngài Đại Huệ
Cảo nói rằng, phải biết người triệt ngộ, cùng gặp người triệt ngộ tự nhiên đạt
đến nhất quán. Ôi, y cùng làm tốt vườn chùa, do đấy làm gì chẳng được!
Lời phụ: Qui
Tắc Tri viên, liêu phòng có 9 điều. Tri viên xả thân lao động, gieo trồng đúng
cách. Vườn 4 mùa không để cỏ mọc, đất phải tận dụng canh tác không để một tấc đất
bỏ trống. Mỗi ngày lao động tưới cây, sáng sáng gắng gỏi bừa xới đất gieo hạt;
trưa cúng ngọ Phật, tích tụ công đức ít nhiều. Tới mùa thu lợi cho chúng hưởng mà
tựu thành nhân duyên rộng lớn. Nên suy nghĩ làm việc hết mình, không tự bỏ bê
biếng nhác, có những Qui Tắc ở liêu phải chân thật tôn trọng 9 điều sau đây:
1- Rau cải các
loại đem bán riêng bị phạt đuổi. Tự đem cho người hay dùng ăn một mình, phạt
đền bồi.
2- Làm mất dụng
cụ, đồ đạc, các thứ v.v.. phải thường
3- Chứng trưởng
lãnh chúng trồng cây, như có người lánh nặng tìm nhẹ hoặc ra ngoài ngao du hoặc
không theo sự sắp xếp phân công, trách phạt cho ra khỏI
4- Trừ chúng
trưởng, mỗi người phải luân phiên trị nhựt, nấu cơm cháo, châm trà. Người nào
tháo thác từ chối, phạt
5- Xối nước
tưới không hợp thời, hữu danh, không thực, phạt
6- Lấy rau dưa
xài riêng trong các phòng, chúng trưởng vị nể không đưa ra giữa chúng nghị bàn,
phạt cả hai bên.
7- Cho khách
tăng tục đến ở trong phòng riêng và dọn cơm nước đãi, bị phạt
8- Ăn mặn
(hành), uống rượu, đánh bạc v.v. phạt đuổi
9- Như những
điều Nội Quy trên nếu có phạm, chúng trưởng phải nêu lên; biết mà không đưa ra,
đồng bị phạt.
Ngày … tháng…
năm… Trụ Trì…. sao lục.
Dán Nội Quy tại
liêu chúng.
Chứng nghĩa ghi
rằng: y cứ như trong luật, tự trồng tỉa ruộng vườn là hoàn toàn trái lời Phật
dạy. Song thời mạt pháp, đời sống tòng lâm quá khó khăn không thể không làm
vậy. Duy người phụ trách việc này nên nghĩ cần duy trì sắc thân đại chúng có
liên hệ tới huệ mạng, phải thật tâm quản lý, tận lực lao tác, ngõ hầu mới không
hổ thẹn. Phước báo dù nhiều cũng do lấy từ đất đai mà có, như nói tâm điền của
ta, tâm địa ta… hẳn hàm luôn cả phước huệ. Kinh Hoa Nghiêm quyển 77, Ngài Di
Lặc tán thán Thiện Tài (đồng tử) bài kệ rằng:
Thiện Tài thấy
chúng sanh
Tâm điền thậm
bẩn nhơ
Để trừ 3 độc
căn
Chuyên cầu lợi
trí lành.
Nay lấy bài kệ
ấy giải thích Tâm ta như ruộng vườn, các giống lộn không nạp; xanh, vàng cùng
trắng, đỏ theo đó sản sanh ra. Bồ Đề ví như lúa trồng (gieo) xuống tiết mùa
thu; giữ giới làm ranh vực, nhẫn nhục đừng quên khuấy, bố thí ngăn lòng tham,
tinh tấn trừ cỏ rác, trí tuệ là mưa móc kịp thời càng đượm nhuần. Trị tâm như
trị ruộng, hoang phế cỏ mầm sanh. Nếu không trái thí dụ này mới thật sự biết
công việc điền viên.
Lời phụ: Quy
Tắc việc ngoài viện gồm Trang chủ, Tri viên lãnh phần trách nhiệm, nếu nói xa
một chút nên gọi là hạ viện. Luận hạ viện tuy có liên hệ tới hạnh, hạnh của đất
cũng không quên huân tu, ngõ hầu không cô phụ chí người xuất gia, đừng cho rằng
công việc bên ngoài mà không chịu gia tâm thực hiện. Nên biết rằng việc gánh
nước, bửa củi… cũng đều là Phật sự: lúa mùa xuân làm nên cơm, phải chuyên cần
đúng mức. Người xưa độc hành mà tri thức các bậc cao nhân không thiếu, có nghĩa
bẩm tánh mê muội thô kệch nhờ niệm Phật dần dần mà được, nên mỗi người cần phải
nổ lực chớ phụ sơ tâm của mình. Đã thuộc một pháp hệ tức nên giữ gìn, lời Tổ
Thầy dạy khuyên; hạnh tướng bề ngoài không làm tổn tới gia phong.
Sau đây là 9
điều quy định:
1- Có thí chủ
đến hết thảy đồ đạc để ở nhà ngoài - hạ viện - phải gia tâm xem xét, nhất nhất
nhận số, chỗ cất, để thông báo cho người làm biết. Một mặt ứng tiếp thí chủ
theo như lễ nghi quy định
2- Qui định ở chung
giống như chư tăng ở chùa, nhứt luật tuân hành, ai phạm bị phạt
3- Trang chủ,
tri viên, lo củi, phụ nước, linh tinh gồm 6 việc, mỗi việc một người phụ trách.
Mỗi tháng bao nhiêu gạo muối, mỗi quí (3 tháng) chừng đó ngân khoản tùy theo đó
qui định thích hợp cho hai bửa ăn
4- Trang chủ,
phàm ngoài viện có việc lớn nhỏ gì đều có người chuyên lo chăm sóc chịu trách
nhiệm. Trừ việc công, không cho ra ngoài. Sáng tối 2 thời công phu đốc chúng
tụng kinh không được buông lơi. Không cho tự ý lưu khách ăn trong phòng ngủ.
Tất cả những người làm việc có lỗi nhẹ thì dạy khuyên; nặng nên trình chúng
định cách phạt
5- Thiếp án
(niêm yết thực đơn menu) liệt ra thức ăn dưới viện (nhà bếp), giờ cơm đại chúng
khai bảng, gõ bảng; dọn dẹp nhà trù phối hợp cùng người phụ trách củi, nước xong
theo chúng dự thời khóa tụng
6- Tri viên:
vật dụng, đất vườn phải gieo trồng hợp thời, không được trể lười bỏ đất trống
7- Hỏa đầu lo
củi lửa, dập than cũng như cẩn thận việc củi đuốc. Dù lạnh không để lửa, nếu vi
phạm trình Trang chủ phạt
8- Gánh nước
kiêm bửa củi; tạp vụ kiêm hành đường và những việc lau quét, cùng xem xét cửa
nẽo, để ý vật của Tam Bảo
9- Làm việc Tam
Bảo chỉ Giám viện, Phó Trụ Trì, Tri Khách, Giám Thu v.v.. có việc được phép ăn
ngủ ở trang trại. Ngoài ra, qui định chung không cho phép, ai phạm trình Trang
chủ phạt.
Ngày… tháng…
năm… Trụ Trì… sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi
rằng: đường tới viện dưới cách hơi xa, nếu chúng cùng ở chung rất khó, vì thiếu
chỗ đủ rộng dung nạp mọi người hiền; sự thật còn tùy hình thức viện lớn, nhỏ
nữa. Nếu bảo rằng đã sung vào công tác hạ viện hẳn tâm không có dụng thứ hai,
theo Thanh Quy trong việc huân tu như mọi người. Tại sao vậy?
-
Đáp: Nếu lấy tọa thiền, quán tưởng làm đề mục rồi ngưng chấp tác là không đúng;
chưa nói đến gặp việc thành ra trở ngại. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng:
đời Tống có Viên Chiếu Bổn thiền sư theo học dưới Ngài Vĩnh An Thăng mà Ngài An
Thăng đạo cao đức trọng, nhận làm đồ đệ. Bổn mặt mũi lem luốt, áo rách dơ, giữ
phần việc nấu đồ ăn cung cấp chúng. Ban đêm nhập thất tham thiền, ngài An Thăng
bảo:
-
Đầu đà (người tu khổ hạnh)! Đeo mang chúng chi thêm khổ, lại chịu vất vả nữa
chứ?
-
Nếu bỏ một pháp chẳng gọi được là viên mãn Bồ Đề, hẳn muốn đời này chứng đắc,
đâu dám nói lao khổ!
Ngài Liên Trì
nói:
-
- Nắm giữ mọi việc mà không ngại, tham cứu lễ tắc cổ kim, nấu ăn nhưng chẳng
trở ngại nhập thất tham thiền. Sa môn đời nay ngửa tay nhận của cúng cho rằng,
ta là người làm đạo. Kia làm việc đó là cho cái gì so với xưa có khác , cho nên
đạo ngày càng suy vi là vậy.
Liêu nguyên:
Trước đã nói công việc các liêu, phần phụ có thêm tự chấp. Phần này nêu không
liên hệ công việc các liêu, cho nên liệt riêng ở đây.
Xưa người nắm
giữ vai trò này lo hàng chục thứ: trà nước, củi lửa cung ứng theo nhu cầu; rưới
quét, hong phơi, cạo tóc, trải khăn v.v... các việc. Ngày nay chú trọng một
ngày quá đường – cũng gọi là Vân thủy đường (Vân Thủy là Tỳ Kheo) tức nhà phục
vụ chư tăng. Phàm có khách tăng đến lấy lễ tiếp đãi, phân phối dãy Đông hay Tây
dọn đơn (giường); chỉ cho xem Nội Quy để giữ đạo phong chúng thường trụ. Đứng
ra mặt hoặc ẩn đều là công việc của liêu nguyên. Phải chọn người chin chắn đảm
trách phần vụ này.
Lời phụ: Qui
tắc ngày hóa duyên cũng gọi Vân Thủy đường gồm 13 điều như sau:
1- Đặt đơn ở
nhà chính hay Đông, Tây. Hể thời công phu, tọa hương, ngồi thiền, chỉ tịnh…đều
theo qui tắc thiền đường. Sáng chiều 2 thời Kinh đốt nhang dài; tối nhang ngắn.
Sau giờ thiền định mới xã thiền; tối ai ra ngoài vui chơi phạt; lúc ngủ giởn đùa
cười, phạt
2- Gần đến giờ
ngọ, ngọ trai phải theo chúng, cũng như đến giờ cơm tối, theo chúng dùng cháo
(gọi là dược thạch). Quá giờ ăn mới đến phạt. Bửa ăn chiều đem về phòng ngủ,
ngày hôm sau tới giờ ngọ trai bạch sám hối tại quá đường. Trời mưa đợi dứt mưa,
có bịnh chờ hết bịnh mới đi quá đường
3- Người bịnh
gởi đến phải hỏi lai lịch rõ ràng mới nhận; ghi tên vào sổ sách để lưu giữ
4- Trong chúng
không giữ Thanh Quy, liêu nguyên khéo khuyên giải, nếu không nghe, liền trình
Ban lãnh chúng hỏi rõ phạt qùy nhang. Không tuân đưa ra nhà khách chơ dời đơn,
nếu không bạch chúng mà tự làm ầm lên, la lối làm loạn, phạt; ấu đả: phạt nặng
5- Bổn đường,
Thầy Hương Đăng xem xét trà nước cho khách tăng, nếu không có Liêu Nguyên phải
lo quán xuyến
6- Tự ý đi ra
ngoài, lâu không trở về bị phạt
7- Nghe tiếng
bảng hiệu không theo chúng đi ra núi, phạt
8- Không giữ
oai nghi chỉnh tề, phạt
9- Cấm hút
thuốc, ai hút phạt. Cấm rượu, người nào phạm đuổi khỏi viện
10- Bàn luận
hay dỡ, tốt xấu về tri thức chư tăng, phạt (ham mê ưa thích khí giới nhọn,
phạt)
11- Đi quá
đường, vào chánh điện không đắp y, phạt; trừ người chưa thọ giới
12- Nếu lúc đi,
trong liêu chúng có người già yếu một mình phải thưa ra ở phòng khách để tìm
cách giúp đỡ
13- Gặp người
đến tỏ ra dối trá lạ lùng, ngôn từ sắc são liền phải xét hỏi, sợ có bọn côn đồ
trá hình mang đến hậu họa; bỏ mặc lầm lẫn thiếu quan sát, phạt.
Ngày… tháng…năm….
Trụ Trì….sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Thập phương đệ tử có 2 loại y chỉ, tăng hành cước. Y chỉ có nghĩa chỗ
nương tựa, lấy thiền đường làm chỗ nghĩ, hành cước là tăng vân thủy rày đây mai
đó như mây bay nước chảy; trong đó đã thấu triệt đại sự, tùy duyên hành cước.
Có việc nào chưa sáng tỏ, phải tìm thầy hỏi bạn; có cơ duyên chưa giải tỏa tìm
đến bậc tri thức. Có triều sơn (lạy 3 bước 1 lạy), tấn hương nên tùy hỷ kết
duyên. Người có tánh thích vân du không chuyên làm đạo mà đã tới đây cũng phải
tiếp đãi.
Liêu Nguyên nên
tận tâm đáp ứng, có nghĩa hợp duyên khách ở lại; hợp lý, hòa nhã, rộng lượng
mới có thể tiếp mời cùng tham thiền. Nếu quả đúng vì sanh tử người phát tâm luận
đạo thời mời đến nhà khách thảo luận. Tới phòng khách liền thông báo cho Trụ
Trì hay dẫn vào thiền đường hoặc tới phòng nghỉ. Ngoài ra, sự hưng suy của tòng
lâm do người mà được nên phải giữ pháp lục hòa cùng ở chung. Ngoài không nói ly
gián cho chí trong nhà, không nêu lỗi lầm, ban đêm không tới phòng ngủ khách.
Hôm sau, giờ ngọ trai liền tự động đi theo chúng. Ngày nay đổi gọi là vân thủy (nhà
sư khất thực), là lấy ý kẻ đi ở bất định.
Nhàn trụ tức ở
không trong liêu phòng. Nhà sư thư nhàn không làm việc gì, cũng chỉ người kỳ
cựu; kỳ là niên trưởng, cựu là đã từng làm việc lâu năm, là người có công với Tam
Bảo trước đây, nay tuổi lớn nên được đặc miển ở trong liêu không phải làm việc
nữa.
Phải tham gia
công tác - người già được miễn. Phàm thời khóa tụng phải theo chúng. Nếu vào
điện, tọa hương, chiếu Nội Quy mà thi hành. Vào trai đường thọ trai, tụng kinh,
đi nhiễu Phật, làm việc nơi thiền đường sau khi xong không được cải vả ồn ào.
Theo Ích Cổ tòng lâm, không có độc đơn gối chiếc cho nên liêu phòng chỉ để cho
người lớn tuổi nghỉ hay người làm việc lâu năm, nhưng sức lực hao mòn nghỉ
việc, được ở. Song cũng phải xem Kinh, niệm Phật, lễ bái mới được chấp thuận
hay không chấp thuận.
Chứng nghĩa
ghi: Kinh Tăng Hộ rằng, ngươi xem cục thịt thứ nhất này, thời Phật Ca Diếp là
vị Thượng Tọa trong tăng không tham thiền, tụng kinh, không giữ giới luật, ăn
no rồi lại ngủ và chỉ bàn luận việc vô ích, lựa chọn món ngon cúng dường hưởng
trước. Do nguyên nhân đó nên sa vào địa ngục làm viên thịt tròn lớn bị lửa
thiêu đốt, phải thọ khổ, đến nay chưa dứt.
Lời phụ: Theo
qui ước xưa nói là kỳ cựu; kỳ cựu khác với kỳ túc. Cựu chỉ niên lão nhắm người
sống lâu, tức là bậc trưởng lão có đức độ.
Nhà kỳ cựu ở
tòng lâm là nhà Đông cũ mà người đời còn gọi là lão đường. Phàm bước vào nhà
này phải sanh lòng hổ thẹn liền nghĩ tới cái thân này: mắt mờ, tai điếc, tóc
bạc, mặt nhăn, bụng hóp, lưng khòm, xương nhức,gân mỏi. Bước đi bãi hoải, tinh
thần lú lẫn, cho nên biết rằng thân này không tồn tại lâu, ắt sắp đến cửa tử. Đường
trước mờ mờ rốt lại chẳng biết đi về đâu. Nếu đã biết việc như thế rồi sao còn
vất vả nhiều lời làm gì; nếu người nào chưa tới tuổi như thế nên nhiếp tâm niệm
Phật. Có 6 điều qui định người già yếu như:
1- Năm 70 tuổi
ở chùa chuyên tu không lỗi lầm mới có thể đi được xa hơn, 80 tuổi lượng sức, 90
tuổi vô chừng (ít có người)
2- Người già
cần thuốc men, ăn uống bất thường. Tri khố, hỏa đầu quân, điển tọa chấp nhất
không cho họ, phạt. Sự thật không phải bảo không cho nhưng đối với chúng phải nói
rõ. Nếu tự ý bạc đãi bất công bị phạt
3- Người già
không còn răng, hay răng yếu không theo kịp chúng nên cho họ món ăn mềm chín
nhuyễn
4- Người lớn
tuổi suy nhược, thời công phu sáng đi bất thường, nhưng thời kinh tối nên theo
chúng, không đi tụng kinh phạt. Người 80 tuổi châm chước, 90 tuổi được miễn
5- Ở trong nhà
đôi khi nổi trận tranh cải hay ra ngoài gây sự, cho ra khỏi
6- Hương Đăng
cho ở một chỗ riêng vì khổ cực, trừ khi đốt đèn, gánh nước, tưới quét, hong
phơi cần gia tăng trợ lực thuốc men.v.v…cho nên sức trẻ còn mạnh khỏe phát tâm
làm việc. Người lớn tuổi bổ sung, đã bổ sung vào rồi giải đãi lánh nhẹ, phạt.
Ngày….tháng… năm…
Trụ Trì….sao lục.
Ấn ký.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Lão tức là xưng tán bực đức cao, lạp trưởng. Ở đây chỉ có thể xưng là lão
cựu tức chỉ lạp trưởng (hạ lạp hay tuổi hạ) tuổi hạ cao vậy. Luật Tỳ Ni Vô Luận
ghi rằng: từ không hạ đến 9 hạ (an cư kiết hạ) gọi là hạ tọa; 10 hạ đến 19 hạ
gọi trung tọa; 20 hạ đến 40 hạ xưng là thượng tọa. Từ 50 hạ trở lên được chư
tăng tôn kính xưng là kỳ cựu (kỳ túc). Việc này y cứ năm thọ giới mà xét, căn
cứ tuổi đủ 20 mới thọ tỳ kheo. Cho nên vị tăng 70 tuổi xưng là vị kỳ cựu. Song
do sự sắp xếp của tòng lâm, trong sách Thiền Lâm Bảo Huấn đối với người già
bịnh, Ngài Cao Am cho rằng, bần đạo thường đọc Tạng giáo suy ngẫm ý Phật không
cho phép tỳ kheo ngồi không thọ thực mà sanh tâm sa đắm; khởi lên chỗ thấy của
ta. Mỗi sáng sớm ôm bát đi khất thực, không lựa giàu nghèo để tất cả đều gieo
phước; sau này xưng là tăng thường trụ. Nguyên vì tỳ kheo già bịnh không thể đi
khất thực được nếu không nhờ tỳ kheo tuổi trẻ không có mà ăn. Nhưng sau Phật
diệt độ Phật giáo đến Trung quốc cho phép tỳ kheo thu nhận đồ cúng, thành chỗ
lợi dưỡng chứa làm của tăng thường trụ để bảo đảm số chúng đông. Ngày nay nghe
có một số chùa các vị Trụ Trì không biết nhân quả, chẳng phải già bịnh lại trái
tôn chỉ Phật dạy làm bại hoại pháp môn tu; bê bối không ở chùa viện, lấy cớ già
sắp hưu. Xưa lúc Thế Tôn còn tại thế như không có người mời thỉnh, Ngài đi tuần
khắp các tăng phòng xem xét những vị tỳ kheo già bịnh ân cần thăm hỏi; để khuyến
khích chư tăng kính trọng lẫn nhau v.v…Việc này nhằm an ủi các tỳ kheo lớn tuổi
bịnh hoạn.
Điện chủ: buổi
sáng 4 tiếng bảng cùng tới chỗ nước sạch, đốt hương, nghe tiếng đại hồng chung
dứt, đốt đèn, gõ bảng, cúng hương. Nhịp 3 hồi khánh, cúng hương xong, lau quét bụi,
bàn ghế sạch sẽ, ngay ngắn, rưới quét điện Phật và chung quanh hành lang, châm
dầu, thay đèn; ngoài ra chuẩn bị thích hợp cho thời khóa tụng. Hiệu bảng cúng
ngọ, buổi chiều đốt đèn Dược Sư. Ngày mồng một, Rằm và những ngày lễ vía khóa
tụng buổi sáng dùng tiếng chụp chả, trống cơm tán tụng tại chánh điện. Phép
cúng ngọ dâng cơm lên cúng xong hạ xuống; tụng Kinh sám, đến y bát, liêu xá,
các đồ pháp khí trang nghiêm mỗi mỗi ngăn nắp sắp xếp chỉnh tề. Chú ý trông coi
đèn đuốc, kinh tụng xong sắp cho ngay ngắn, trả nguyên lại chỗ cũ. Các tôn
tượng Phật Thánh nửa tháng lau quét một lần, mỗi năm tắm lau một kỳ; căn cứ
theo nghi tắm Phật ở trước. Nếu treo đại hồng chung, xem điều 9 phần Pháp khí ở
sau nói rõ.
Hương đăng nhà
giảng: quét dọn nhà giảng trong ngoài sạch sẽ, trải bồ đoàn cho Trụ Trì hành
lễ. Khóa tụng tối: đốt hương, châm đèn, bật đèn lối đi 2 bên hành lang, bảng
chỉ tịnh. Sáng sờm 3 hồi bảng thức chúng, trời sáng tắt đèn; lên chánh điện
gióng nhịp trống lớn, tùy việc nhiều hay ít; theo chúng tụng kinh; đi quá
đường…
Hương đăng lầu
chứa kinh tạng, sớm tối đốt nhang, đốt đèn, châm trà, lau quét, xem xét Kinh
tạng, trông coi hành lý chư tăng. Hai buổi đi quá đường, lên chánh điện, gióng
đại hồng chung. Khi cúng ngọ, dâng cơm cúng Phật xong hạ xuống; ngoài ra, cũng
lo đèn nhang ở giảng đường.
Quản thủ tháp
bên trong chỉ trông coi quản lý tháp Phật lo hương đèn, lau quét mọi việc v.v…
Theo chúng vào điện, đi thọ trai; như có cúng tháp các món thức ăn được, trừ
tháp Phật không cúng các đồ ăn.
Trông coi bên
ngoài tháp như quét dọn các ngôi tháp Tổ, và kịp thời dẫy cỏ; sớm tối lo việc
nhang đèn. Phàm tiết Thanh Minh có cúng tháp như trước đã nêu giống như hương
đăng. Hể chư tăng viên tịch nhập tháp cúng thức ăn đúng pháp, giả như có vị ở
ngoài xin nhập tháp nên thưa trước ở trai đường cho đại chúng biết. Nếu nhận lễ
riêng mà thâu nhập bị phạt.
Tổ đường là nơi
thờ bậc hiền đức: hương đăng mỗi tối đốt hương, lo việc sạch tịnh v.v… giống
như thiền đường hay cùng đồng như hương đăng lầu Kinh các. Ngoài ra, hương đăng
các chỗ tuy khác nhau, nhưng việc châm đèn, đốt nhang, lễ bái đều giống nhau.
Sớm tối đốt hương, trước phải súc miệng rửa tay sạch sẽ; kế tụng bài “Lư hương
sạ nhiệt” tán hương xong, tiếp theo tụng chú:
Án thập phiệt
lật đa mạt nể. A bát la cú thác; tô phá ra ni tì ca tri, hổ hồng (3 lần).
Tiếp tụng chú
dâng hương như:
Án tát bà đát
tha yết đa. Đổ ba, bố xà, minh già, tam mộ đạt ra, tốt phát ra nổ, tam mạt duệ
hồng (3 lần).
Dâng hương,
tụng chú, quán tưởng khói hương bay khắp 10 phương các cõi Phật, hết thảy thánh
hiền đều khởi tâm hộ niệm. Cho nên gọi là lò hương vừa nhen nhúm cõi pháp được
xông lên. Chư Phật trong hải hội thảy đều xa nghe, tùy xứ kết mây lành, lòng
thành mới ân cần, các Phật hiện toàn thân. Như đốt đèn hay đốt nhang trước nên
đọc chú dâng hiến đèn như:
Án tát bà đát
tha yết đa, nể bà bố xà minh già, tam mộ đạt ra, tốt phát ra nổ, tam mạt duệ hồng
(3 lần).
Châm dầu, đèn
hoặc nến cũng tụng chú, tưởng quán đèn phảng phất bay đến trước các vị Thánh
hiền, cho nên nói là đuốc ngọc vừa soi cõi pháp sáng trưng. Tụng 3 câu chú này
rồi đốt nhang, châm đèn nên diệt tội trừ oan trái, tăng phước vô lượng. Nếu
không tụng chú mà quán tưởng, là không thành tâm. Tuy đốt nhang đèn đi chăng
nữa e Tam Bảo, thiên thần cũng không thọ lãnh.
Chứng nghĩa ghi
rằng: điện chủ là trưởng của chúng hương đăng, thay chúng tăng làm việc chăm
chỉ, lo cho Phật đà; ngoài ra, hương đăng ý nghĩa cũng giống như đây, hương
hoa, đèn dầu, quả phẩm 6 loại cúng dường. Dùng hương đèn làm danh xưng, 5 món
uế trược trong đời bay mùi xú uế không thể nghe; trong đêm tối âm u không thể
thấy. Muốn cầu Tam Bảo, chư vị thiên thần thường ở cõi này hộ niệm cho ta…Nên
thường đốt hương thơm để trừ mùi hôi hám, gặp tối đốt đèn dùng ánh sáng soi
vật, khiến không còn che lấp tối đen u ám mà thành mùi thơm vi diệu, tia sáng
rực rỡ, đây là ý nghĩa hương đèn vậy. Cho nên công việc làm hương đăng hoàn toàn
do tâm thành mới thật tỏ lòng dâng cúng. Nên nói rằng, hương từ tâm sanh, tâm
do hương mà đạt được không ở nơi 3 thì (quá-hiện-vị lai) nhưng có thể biến khắp
10 phương chư Phật. Huệ soi tỏ tâm dễ thấu đạt lý; lại hẳn nương tụng chú mà
tâm tưởng thành mới hết lòng dâng hiến là làm đầy đủ bổn phận của hương đăng
vậy. Đây không riêng hương đèn đốt nhưng tâm mọi nguời đều phải như vậy. Không
chỉ kính Tam Bảo mà còn kính cả thiên thần đều phải như thế.
Kinh Kim Quang
Minh phẩm Tứ Thiên Vương ghi rằng: là mùi hương vi diệu trong khoảng một niệm
liền bay đến thiên cung. Mùi thơm biến thành vòng tỏa hương vi diệu, sắc vàng
chói lọi chiếu tận thiên cung như cung trời Đế Thích, cung Phạm Thiên cho chí
cõi chư Phật trong không trung trên chư Phật cũng biến thành hương vòng; ánh
sáng vàng chiếu khắp cũng lại như thế.
Kinh Hoa Nghiêm
phẩm Hiền Thủ ghi rằng: Lại phóng tia sáng trang nghiêm, đủ loại diệu hương
nhóm tụ xông lên rải khắp các cõi trong 10 phương để cúng dường chư Phật. Lại
phóng ánh sáng hương bột trang nghiêm đủ loại mạt hương nhóm xông lên rải khắp
các cõi trong 10 phương để cúng dường hết thảy Đại Đức tôn. Căn cứ theo đây
toàn dựa vào sự thành tâm quán tưởng để làm việc cúng dường là một loại biện
hương biến khắp cả 10 phương thành đài ánh sáng, trổi thiên nhạc, đốt hương
thiên bảo, trình lên các món mỹ vị, đặt áo thiên bảo, diễn nói đại pháp. Mỗi mỗi
biến khắp tới cõi cõi vô ngại, chỉ thành tâm quán tưởng mà thành tựu. Sáng
chiều dâng hương như thế, thời khóa tụng sớm tối như thế, lễ bái tụng kinh như thế,
cầu nguyện sám hối như thế được Tam Bảo thiên thần cảm ứng như nguyện. Là mỗi
ngày dùng hương hoa, đèn nước, sáng chiều dâng cúng bằng tâm thành kính nên đạt
được phước báo không thể nghĩ bàn. Ngoài ra, hể người nào thành tâm đốt đèn
được cảm báo nhiều hơn.
Kinh Đồ Vương
Thọ quyết ghi rằng: nhà vua thỉnh Phật thọ trai hỏi rằng:
-
Phải làm sao cho thích hợp?
Kỳ Bà nói:
-
Chỉ có cách là nên đốt đèn.
Vua ban sắc
xuống đem đủ 100 hộc dầu mè thắp suốt từ cung đến tinh xá Kỳ Hoàn. Lúc bấy giờ
có bà lão nghèo cảm kích xin được 2 tiền cũng mua dầu cúng Phật.
Vua nói:
-
Bà quá nghèo tại sao không đem tiền mua thức ăn?
Bà lão đáp:
-
Nay thấy nhà vua làm việc đại công đức, dù nghèo khó lão cũng muốn đốt một ngọn
đèn làm nhân cho đời sau.
Người chủ bán
dầu nghe vậy đong thêm 3 tiền dầu thành 5 tiền; số dầu của vua thắp không đủ
tới nửa đêm. Bà phát nguyện rằng: “Nếu đời sau con đắc đạo như Phật, mong cho
ngọn đèn này cháy suốt đêm không tắt”. Sáng ra, Ngài Mục Kiền Liên thấy những
ngọn đèn khác tắt hết, duy chỉ ngọn đèn bà lão còn nguyên vẹn, Ngài dùng oai
thần theo hơi gió thổi cho đèn tắt, đèn vẫn cháy sáng và còn cháy mạnh hơn.
Phật bảo Ngài Mục Kiền Liên: “đây là ánh quang minh đức Phật tương lai, không
thể dùng thần lực của ông mà có thể dập tắt được. Bà lão này đời trước gặp Phật
pháp mà chưa tu tập nên đời nay nghèo khổ, sau đây 30 kiếp bà sẽ thành Phật
hiệu là Tu Di Đăng Quang Như Lai.”
Lại nữa Kinh
Thí Đăng Công Đức ghi rằng: nếu người nào cúng đèn thắp sáng nơi chùa tháp
Phật, lúc lâm chung được 3 loại ánh sáng:
1- Trước đã tạo
phước lúc chết đều hiện ra ở trước nhớ lại không mất, sanh tâm vui đẹp
2- Nhân đây mà
phát tâm niệm Phật, hay làm việc bố thí nên lòng rất hoan hỷ, chết được an lạc
3- Nhân phước
này mà liền có tâm niệm nghĩ tới pháp.
Lại cũng còn có
được 4 thứ ánh sáng soi chiếu:
1- Thấy mặt
trời hiện
2- Thấy mặt
trăng hiện
3- Thấy chư
thiên
4- Thấy Phật
ngồi trên tòa sen
5- Thấy mình
đang chắp tay cung kính hầu Phật.
Người nào thấy
4 loại ánh sáng đây bèn sanh lên cõi trời thứ 33.
Kinh Hoa Nghiêm
phẩm Hiền Thủ ghi rằng: lại phóng quang chiếu diệu, ảnh trùm hết ánh sáng chư
thiên. Chỗ nào có ngăn chướng được trừ hết, khắp vì chúng sanh mà làm cho được lợi
ích. Đây là ánh sáng giác ngộ hết thảy chúng sanh khiến cầm đèn cúng dường
Phật. Đem đèn cúng dường chư Phật nên trong đời được vô thượng đăng. Y cứ theo
đây việc cầm một cây hương đèn cúng dường Phật chóng thành tựu vô lượng công
đức.
Tuần chiếu tức
đi tuần gồm ban ngày và ban đêm khác nhau. Đi tuần ban ngày do tự chấp, là
trông coi những việc tạp chúng thường trụ, phụ giúp với ban trực nhựt. Không
phải lúc nào cũng ở các nơi quét dọn, làm sạch sẽ, mà cũng không cho tăng chúng
ra ngoài đùa giởn nữa. Như có quan chức đến tới trình bạch nơi nhà khách theo
chúng thọ trai quá đường hai lần một ngày. Tuần ban đêm là do liệt chấp, tối
định hương, đến hầu hương, gõ 3 tiếng bảng, châm trà, bật đèn phòng, mở nước.
Gõ 4 tiếng bảng đốt đèn nhà trù (bếp), dứt một tuần hương; gõ 5 tiếng bảng định
hương nên phải đúng giờ. Như để trể sáng không đúng giờ, cúng cháo sáng, giờ
quá đường là phạt quỳ trước trai đường. Thời khóa tụng nghe 3 hồi đại hồng
chung, gõ nhịp bảng, lên điện cúng Phật cũng như thế; thời kinh tối nghe 3 hồi chuông
ở thiền đường và nhịp bảng là theo chúng lên chánh điện tụng kinh. Ban đêm sau
giờ chỉ tịnh hồi một hồi bảng. Lúc rảnh việc bèn giúp điện chủ làm việc. Nếu thủ
trống xem ở sau, Chương 9 nói về Pháp khí.
Quét dọn mỗi
ngày: quét tước trên dưới, trong ngoài các con đường đông tây cũng như ở trước
sau các hành lang không để bê bối; cần phải nhổ cỏ sạch sẽ; kiêm luôn việc
hương đăng nơi điện Thiên Vương.
Chứng nghĩa
ghi: bộ luật bổn ghi rằng: ông trưởng giả Cấp Cô Độc mỗi ngày vào buổi sáng sớm
thường đến rừng Thệ Đa quét đất, lạy Phật. Một ngày nọ trưởng giả bận việc
không vào chùa, đức Phật thấy đất dơ, liền cầm chổi quét. Lúc đó Ngài Xá Lợi
Phất v.v…thảy đều quét đất; quét dọn chung quanh xong tất cả vào nhà cùng ngồi.
Phật bảo các Thầy tỳ kheo rằng: phàm quét đất có 5 điều lợi như sau:
1- Nhân quét
đất mà tự tâm thanh tịnh
2- Người thấy
đất sạch làm cho tâm họ thanh tịnh
3- Chư Thiên
hoan hỷ do đất sạch không bụi bặm, liền trừ hết bẩn kiêu mạn
4- Gieo được
nghiệp đoan chánh điều phục tâm
5- Nhân quét
đất chùa mà công đức càng tăng trưởng, sau khi chết được sanh lên cõi trời.
Sách Thiền Lâm
Bảo Huấn ghi rằng: vào chùa đường tắt mở ra, lối đi (hành lang) khai thông, sửa
sang. Việc này phải biết do bậc trưởng lão đãm trách.
Thỉnh tự chấp -
mời biệt chấp không cần phải có nghi lễ.
Thỉnh tự chấp
phải trình ở phòng khách; Duy Na đưa cho chư tăng một danh sách để mỗi người
tùy nghi chọn. Trình cho Trụ Trì xem qua, nếu chấp thuận giữa Duy Na, Tri
Khách; sai thị giả mời Duyệt Chúng đồng làm việc. Tới phòng Phương Trượng đảnh
lễ, ngồi rồi tuần tự trình bày một số công việc đã cắt cử, để tùy nghi. Ngày
kế, dùng cháo sáng, đi quá đường ngay tại trai đường, công bố mời thỉnh thành
phần chức sự: 4 trưởng ban, một Giám Viện, Đô Giám hay Phó Giám Tự, Trụ Trì
đồng ý, Tri Khách đồng ý…
Trước đó dán
thông báo rằng, thừa lịnh Hòa Thượng mời Thầy A làm chức Y v.v…Sau khi nghe 2
tiếng bảng, bảng hiệu chính là để mời tự chấp mới. Đắp y, mang tọa cụ, người nhận
việc trước không đắp y đều tới phòng khách. Tri Khách liền theo thứ tự đọc danh
sách các Ban v.v…Đọc xong, bạch chúng rằng: “xin chúc mừng quý vị sư phó”, rồi lễ
xuống một lạy. Những vị làm việc cũ đến phòng Phương Trượng đứng 2 bên; kế đến
Tri Khách hướng dẫn Ban chức sự mới đến trước Phương Trượng bạch:
-
Bạch Hòa Thượng, việc thỉnh tân Ban chức sự đã hoàn mãn, chúng con xin ra mắt
và đảnh lễ Hòa Thượng.
Lễ 3 lạy xong,
tân Ban chức sự lui ra. Những vị làm việc cũ tiến vào đứng theo thứ tự, cựu
chúng trưởng bạch:
Đảnh lễ Hòa
Thượng xong, Phương Trượng bảo:
-
Vào tham đường.
Trước hết, Ban
chức sự cũ tới giảng đường đứng qua 2 bên. Tri Khách gõ bảng báo hiệu 3 hồi, và
nói:
-
Xin mời quý Thầy tân Ban chức sự tham đường hành lễ.
Cho đến lúc lễ
xong, 4 chúng trưởng, Trụ Trì trở về chỗ; tức liền lui ra, chỉ những vị khác ở
lại. Duy Na tiếp tục theo thứ tự giao việc cho từng người. Giao việc từng người
xong, Duy Na nói:
-
Xin chúc mừng quý vị sư phó.
Rồi lạy một
lạy. Lạy xong mỗi người chiếu theo từng việc thứ tự mà làm. Công việc là tụng
kinh tối, trải bồ đoàn trên chánh điện, đem trở về liêu sau khi khóa lễ xong.
Duy Na nói:
-
Mời các Thầy tân Ban chức sự xuất ban (tiến ra trước)
Lễ 1 lạy xong,
chúng trưởng chỉ việc, xem phần sau chỉ rõ.
Duy Na nói:
-
Mời quý Thầy tân Ban chức sự vào Tổ đường lễ Tổ.
-
Kế tới lễ Phương Trượng, lễ xong Tri Khách hướng dẫn tân Ban chức sự đi tuần
tra các liêu, nhịp khánh một hồi 3 tiếng, bạch:
-
Mời quý Thầy tân Ban chức sự đi tuần liêu.
Tới hỏi thăm
từng Thầy cho tới khi xong; mỗi người lui về. Gõ bảng ở phòng khách nhóm chúng
xem đơn. Phương Trượng mời dùng trà, uống trà xong trở về liêu phòng. Y cứ theo
vị trí tọa hương cho chí trước lúc chỉ tịnh, phân ngồi hương xong, Duy Na nói
rằng:
-
Mời quý Thầy tân Ban chức sự đứng lên lễ thập phương Tam Bảo.
Nếu liên quan
tới chúng trưởng thời lúc hành lễ, các tự chấp (nhân sự) nên xuống giường, đứng
vào
vị trí
của mình. Riêng người không phận sự không theo các chúng chấp sự cùng lễ. Vì
đây là phần việc ban tự chấp đã được lập xong. Duy Na lại nói:
-
2 dãy các vị sư phó, thay các vị sư phó đi xem đơn.
Bạch xong, Duy
Na cùng chúng đi xem xét giường các phòng, 2 dãy đông tây lang mỗi nơi cẩn thận
xong, mỗi người về ngồi theo chỗ của mình vào giờ chỉ tịnh.
Việc mời Ban
chức sự: dán thông báo tại chùa ở lễ đường nơi hành lễ. Nếu người hầu liêu chỉ
ghi là tham đường, ảnh đường; thị giả tuy thông báo nhưng không vào tham đường.
Ngoài ra, Đô Giám, Giám Viện, Tri Khách v.v.. đều không vào tham đường.
Mời xong các
phần vụ, Giám Viện, Duy Na, Tri Khách, Thị Giả 4 người cùng đì xem các liêu,
các đơn và phòng khách. Tại phòng khách mời tân Ban chức sự cùng dùng trà.
Ngoài ra, 4 trưởng nhóm nên chọn tên Thánh đặt cho chúng như Văn Thù, Phổ Hiền
v.v…để giúp ích công việc. Giám Viện, Tri Khách, Duy Na v.v.. gọi là hiền chấp.
Phật, các bậc Thánh hiền đều làm như vậy. Thư Ký, Thị Liêu, Điển Tòa v.v…gọi là
năng chấp, có nghĩa là hay bàn Phật sự ở thế gian hay xuất thế gian. Những công
việc trên đều nên tận lực mà làm và đem toàn tâm giúp đỡ chúng; nhờ vậy đó đây
đều được lợi nhuần mà không phụ người làm việc vậy.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Phật sự ở tòng lâm không đầy đủ cũng có nghĩa Phật Pháp không thông và
khó giữ được huệ mạng. Pháp thế gian không khác, điều khó là ở lý, thường trụ trước
phải hòa rồi sau mới làm đẹp được. Chọn người làm việc nên phân biệt khách tăng
mới đến không biết rõ, có thể tạm để nhàn hạ là tiện lợi nhất. Để chờ một thời
gian tự thấy thông suốt, không nghi mới có thể nhận lãnh việc quan trọng; đến
như người nhận công việc cũng phải chuyên cần làm việc, không được sợ khó từ
chối. Đất Tam Bảo phải tận tâm tận lực chẳng than phiền không tốt.
Sách Chích Cổ
ghi rằng: Vân Phong Duyệt thiền sư đầu tiên đến học với Đại Ngu tới phòng xin
Thầy khai thị. Ngài Đại Ngu sai làm hóa chủ xuống phố phường đi phổ hóa; lại do
trời tuyết lạnh vì chúng xin than, sư bèn thuận theo lệnh Thầy; xin than xong
làm dơ nhà thiếu người dọn dẹp. Thầy lại phiền đến ông, sư gắng nhận làm. Đồ
tọa cụ bề bộn sau tọa thiền, đai thùng sút rớt từ trên giá xuống, bổng nhiên
đại ngộ liền thấy ngay cái diệu của chỗ dụng; bèn đắp y vào phòng, Nham cười
nói:
-
Duy Na vô cùng hoan hỷ!
Sư bèn lạy
không kịp thốt một lời rồi đi ra. Ôi! 3 cái việc dễ làm như đáy thùng lủng, làm
đâu nở phụ ngươi sao?
Ban thủ cầm
phất có 2 ý:
a- Mời người
mới nhận việc:
Thủ Tọa; tòng
lâm tiêu biểu nơi tai mắt của nhân thiên. Tọa thiền, lãnh chúng đề xướng tông
phong tìm người khó được. Hễ mời ngưòi lãnh chúng, Trụ Trì dự định ngày tại
trai đường, công bố giữa chúng rằng: “nay có Thầy A, B hoặc Hòa Thượng… tài đức
song toàn, chúng rất nể phục, tri kiến cao minh nơi gởi trao huệ mạng. Làm mưa
pháp nhuần thấm khắp nơi không thiếu sót, đại chúng các Thầy đã cung thỉnh, mong
Ngài từ bi nhận lãnh.”
Sau giờ ngọ gõ
bảng hiệu, bảng nhóm chúng tại phòng khách để cung thỉnh. Nghi thỉnh xem ở phần
trước. Thỉnh xong, đưa lên phòng Phương Trượng làm lễ, xong tới tham đường; Trụ
Trì trao công tác, chúng làm lễ xong đưa về hậu liêu. Thời kinh tối hôm đó, thị
giả cầm bài phất lên. Trên văn bài bên phải phía trên dán tên chữ hồng. Trên
bảng đề tên viềt rằng: Thỉnh Hòa Thượng A làm Thủ Tọa hoặc xưng đại sư, các
việc khác tùy theo đó mà thay đổi… Trụ Trì vâng hầu liêu, truyền lư, đắp hồng
y, tích trượng đến phòng Thủ Tọa, thăm hỏi, Thủ Tọa đắp y, thị giả cầm tích
trượng đứng sau. Duy Na bạch: “Xin cung thỉnh Thủ Tọa sư!” Dẫn khánh đi trước,
rước đến trước tòa, Thủ Tọa lạy, lạy xong thăng tòa ngồi. Thị giả đứng hầu 2
bên.
b- Duy Na cử
bài tán, Thủ Tọa niệm hương xong, Duy Na xướng: “Đảnh lễ Thủ Tọa Sư”. Sư nói:
“Không”. Liền ngưng, đợi thời pháp xong, Duy Na xướng: “Đảnh lễ Thủ Tọa Sư 3
lạy”. Lễ xong bước xuống tòa, chúng tiễn về liêu, nếu Sư từ chối bèn thôi không
tiễn. Thủ Tòa lên phòng lễ Phương Trượng, trình cao kiến, lễ tạ một lễ. Phương Trượng
đãi trà, Thư Ký viết pháp ngữ treo lên. Ngày kế, Thủ Tọa chi tiền nhờ Thủ Khố
sắm đồ đãi chúng. Nếu Thủ Tọa nghèo không có tiền, lấy tiền chùa thay thế. Ngày
Mồng một, Rằm và những ngày lễ, trước lễ Phương Trượng, kế đến lễ Thủ Tọa hoặc
Trưởng Chúng mới nhận vai trò cầm phất trần, nghi giống nghi này. Khóa lễ xong
thiết bàn hương án khác tại chánh điện.
1.6 Vâng Mệnh
Nếu 4 mùa 8
tiết mời Ban Thủ cầm phất, dự định ngày Trụ Trì ra lịnh Đô Giám, Tri Khách, Thị
Giả đến liêu Ban Thủ mời: sáng mai vào lúc giờ ngọ thỉnh Ngài vì chúng cầm
phất. Đúng ngày, sau công phu sáng, gõ 2 hồi bảng, Đô Giám, Tri Khách, Thị Giả
cầm phất một lần nữa đến phòng Thủ Tọa. Đô Giám tác bạch cùng chúng làm lễ, sau
Thị Giả bạch: “Xin tuân lệnh Hòa Thượng Phương Trượng sai A, B, C cung kính bái
thỉnh Ngài vào giờ ngọ trưa nay vì chúng mà cầm phất”. Ban Thủ cùng Thị Giả đến
phòng Phương Trượng đảnh lễ thưa là đã nhận tuân lệnh. Lại lễ tạ các Thầy chấp
sự xong, rồi hồi liêu, khiến ngoài liêu mình cầm bảng viết đưa đến giữa nhà
giảng lập bàn ngay ngắn; lại cho lập một bàn bên trái ở đầu cho Hòa Thượng
Phương Trượng. Tới giờ thỉnh 3 hồi chuông, Đô Giám cầm nhang cùng 2 chúng đến
phòng Thủ Tọa lễ một lễ, rồi rước tới giảng đường. Ban Thủ lạy 10 phương chư
Phật, và tới trước Phương Trượng lễ một lạy rồi bước lên tòa ngồi. Đô Giám dâng
hương, đại chúng đồng lễ một lạy, Ban Thủ không lễ đáp lại. Đốt hương, niệm
hương, Thị Giả cắm hương lên lư. Nếu là bậc danh đức Thường Trụ làm Ban Thủ thì
Phương Trượng cầm phất tới trước tòa thăm hỏi. Người cầm phất đứng một bên,
nhưng rồi sau đó ngồi v.v.. Thị Giả thỉnh Hoà Thượng ngồi thuyết pháp. Duyệt Chúng
nhịp khánh 3 hồi chờ lúc thuyết pháp xong, Pháp Sư xuống tòa. Lại tới trước
Phương Trượng lễ một lạy, rồi 2 chúng cùng Thị Giả đồng lễ. Chúng hướng dẫn Ban
Thủ về liêu, nếu Ngài từ chối không cho thời thôi. Ban Thủ lên phòng Phương
Trượng lễ cảm tạ. Đô Giám sai Thị Giả châm trà, đặt một chiếc ghế tại phòng Ban
Thủ. Trong ngày mời cầm phất, Ban Thủ dung cơm khách một ngày. Tối nghe hiệu 2
tiếng bảng là Phương Trưởng đãi trà.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Thủ Tọa xưa gọi là “Đầu Thủ” cũng gọi là “Tọa Nguyên”. Nếu mời vị danh
đức nên xưng gọi Hòa Thượng hoặc gọi Pháp tự và phải xưng đại sư. Sách Sơn Am
Tạp Lục ghi rằng: chùa Vĩnh Phúc tại Nhiêu Châu có Hạo Linh Giang làm Thủ Tọa
cầm phất, có vị tăng hỏi:
-
Lúc tới một bước thời như thế nào?
-
Giộng vách giộng tường
-
Lui một bước như thế nào?
-
Rơi hầm sụp hố
-
Không tiến không lui thời như thế nào?
-
Đứng chết đất Hán hoặc lạy.
Thủ Tọa trả lời
được 3 chuyển ngữ là hoàn tất được cơ hội tốt đến. Trụ Trì Cổ Lâm nói rằng:
“tốt ở đâu mà chẳng thấy đạo; một câu thoại đầu, muôn kiếp buộc làm lừa.” Tuy
nhiên, cắt nghĩa không được phải làm sao? Ngoài ra, Tường Phượng Sơn, Trạm
Thiên Uyên làm Thủ Tọa cầm phất nói rằng: Trước Tường Phượng Sơn đi xem mây trắng
vừa mở ra vừa khép lại, Ngu Tuyền ở bên trên ngồi nghe nước chảy, hoăc đè xuống
hoặc giở lên. Chỗ mắt làm Phật sự, chỗ tai nghe, chỗ tai làm Phật sự, chỗ mắt thấy,
chẳng phải chỉ có Quán Thế Âm, ta cũng từ trong đó chứng ngộ”. Trụ Trì Nhất
Nguyên nói rằng: “Có lợi thấy 2 chữ; chính là cùng người nói bàn không có 2 chữ
này, mới đúng là tự mình nói bàn.” Thiên Uyên nói rằng: “thuốc hoàn một viên,
sắt sáng thành kim, đó là lời của đường đầu vậy.” Quán được 2 chữ này thì việc
cầm phất, Trụ Trì và người cầm kiểm lại rõ ràng là tán gẫu; cùng nhau phô
trương hoàn toàn hàm ý cống cao dua nịnh không có gì cả. Đó là mẫu chuyện của
việc cầm phất.
1.7 Mời cơm
chay hay uống trà
Phương Trượng mời
cơm chay hoặc mời trà: chúng trưởng trong liêu, dự biết cho hay rằng, hôm nay
Hòa Thượng Phương Trượng mời dùng cơm chay hoặc mời uống trà. Các Thầy mỗi
người chuẩn bị sẵn sàng oai nghi. Ngoài Ban chấp sự, tất cả tập trung tới phòng
khách, Thị Giả mời họp mặt các Thầy tại trai đường. Theo từng Ban thứ tự cùng
lên phòng Phương Trượng đứng theo hàng, Trụ Trì (Phương Trượng) tới ngồi ghế. Duy
Na xướng:
-
Đại chúng đảnh lễ Hòa Thượng 3 lạy
Lạy xong, phân
theo thứ tự ngồi, tất cả giữ oai nghi, không được nói chuyên; không nên động
tiếng ly tách, chén đũa. Thọ trai hay dùng trà xong, nếu Phương Trượng có dạy
gì nghe rồi cùng đứng lên và đứng theo hàng ngũ. Duy Na xướng:
-
Đại chúng các Thầy lễ tạ Hòa Thượng 3 lạy.
Xong mỗi người
lui về chỗ. Ngoài ra, 2 liêu chúng lãnh đạo (cương lãnh) trong ngoài, ban lãnh
chúng lãnh đạo hổ trợ nhau vì thể trọng để cho giềng mối đạo được chấn chỉnh.
Khi kiết giới,
giải hạ, tiết đông chí, tất niên, ngày Tết (mồng một)…và những ngày đại lễ. Trụ
Trì tức Phương Trượng dùng cơm chung với đại chúng, và thưởng công lao 2 chúng
bằng cách đãi trà giữa 2 ban cũ-mới, cũng như trái cây trong một buổi tiệc vui.
Như người nghỉ việc qua một nhiệm kỳ tham dự; nên bày tỏ của chúng thường trụ
bằng một lạy đền đáp công lao. Ngoài ra, những phần vụ khác hể ai có công đức
được khen thưởng, tùy theo việc làm của họ. Ngoài phần vụ công tác, khen thưởng
công lao đều tại phòng khách hoặc ngay phòng ở của những vị đó. Việc tưởng
tượng càng giản tiện công tâm bao nhiêu, đạo tâm càng chân thật bấy nhiêu,
khiến chúng hết lòng tu hành không để vọng niệm sanh khởi.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Phương Trượng mời dùng cơm hay đãi trà là việc không phải thành một lệ.
Đây chỉ nói đại khái một cách mời chung ban chức sự của viện, như vị mới vừa
nhận chức hoặc mới được bầu lên làm việc, hay bất cứ một việc nào khác…đều có
thết đãi cơm, mời trà; nói chung là sự khoản đãi đại chúng của Ngài Phương
Trượng (Trụ Trì). Cẩn thận chọn lựa, thành thật để chọn được người đúng cho mỗi
công việc. Trung hòa, khiêm nhượng dùng thương nghị khi có ý kiến bất đồng,
hoàn toàn xử lý theo người trưởng là thành công, cũng chỉ vì việc lợi ích chung
cho Tam Bảo mà thôi.
Chức sự 2 dãy
xin nghỉ việc: phàm 2 dãy (đông-tây) có người từ chức, sau giờ ngọ trước tác
bạch xin nghỉ việc. Tối lại sau giờ tọa thiền các vị nghỉ việc tuyên bố rút lui
giữa chúng và chính thức ra giữa phòng khách nói lời từ nhiệm. Không cần lên
phòng Phương Trượng, cũng như không cần phải tới thiền đường. Giữa chúng ở
trước Duy Na tác bạch nghỉ việc. Duy Na hứa thuận, sau đó tới phòng Phương
Trượng lễ tạ đến tối mới chính thức tuyên bố tại thiền đường.
Ngày nay phần
nhiều thay đổi nhân sự là ngay thời khóa tụng buổi tối xong, thông báo ngưng
nghỉ việc liền. Sáng hôm sau ngay sau thời công phu, đại chúng nhất tề tới trai
đường dùng điểm tâm, cùng với Phương Trượng. Thọ bửa xong, uống trà. Cơm nước
điểm tâm xong mới đưa người mãn nhiệm kỳ vào chánh điện dâng hương lạy Phật, tạ
ân Tam Bảo.
Chứng nghĩa ghi
rằng: Chức sự từ chức phải xem ai là người có khả năng bổ sung thay thế. Người
không có khả năng làm việc e không tránh khỏi lại từ chức nữa. Như người có khả
năng làm việc được không nên nghe lời bàn tán, bỏ qua vì nhân tài khó gặp. Việc
của Tam Bảo thường do sự thành tựu của một người, nhưng nhờ đó thường trụ (Tam Bảo)
ảnh hưởng tới sự hưng suy. Đúng ra không nên đề phòng sự bất trắc xảy đến mà
nên tin tưởng lấy Tam Bảo làm trọng yếu. Người nào có lòng và thực tâm hẳn
không phụ đại chúng từ chức khi mới nhận việc.
Hết quyển 6