Phần II - Bài 2
Giới thiệu đường lối tu thiền của Phật giáo
HT. Thích Thanh Từ
A- Dẫn nhập
Tu thiền là thực
hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Ðức Phật tọa thiền suốt
bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con
đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người
thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng
ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp
thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết
quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
B- Nội dung
A. Thiền không phải của đạo Phật
1- Thiền chuyển luân xa: Thiền
này hành giả dẫn điện từ rốn ra sau lưng, lên đầu xuống rốn, từ rốn ra
sau lưng, lên đầu xuống rốn, dẫn điện chạy vòng vòng như vậy là chuyển
luân xa.
2- Thiền xuất hồn: Hành
giả mở các khiếu huyệt trên thân rồi xuất hồn bay đi học đạo với các
bậc thầy chưa từng biết, sau đó tự thực hành. Thiền này có hai cái hại:
Cái hại thứ nhất là khi mở huyệt đạo để xuất hồn, có người mở không khéo
phát điên. Cái hại thứ hai là xuất hồn bay đi học đạo, ai nói là minh
sư liền theo, không giảng trạch chánh tà nên dễ bị thần linh đánh lừa.
3- Thiền thai tức: Hành
giả thở vô, giữ hơi tại đan điền một lúc rồi mới thở ra, lâu ngày bụng
dưới lớn dần như người nữ có thai, nên gọi là thiền thai tức.
4- Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần:
Hành giả luyện tinh hóa thành khí, luyện khí hóa thành thần. Ðây là lối
tu tiên, đưa người đạt được thần thông du hí khắp mọi nơi.
5- Thiền Yoga hay Du già: Thiền này có nhiều cách tu, trọng tâm thiền này luyện cho cơ thể khỏe mạnh hơn là giải thoát.
Năm loại thiền kể trên thuộc thiền ngoại đạo, không phải thiền của đạo Phật.
B. Thiền của đạo Phật
Thiền của đạo Phật
trọng tâm phát huy trí tuệ, phá si mê chấp ngã chấp pháp, để giải thoát
sanh tử luân hồi đau khổ. Tạm chia ra: Thiền nguyên thủy, Thiền Ðại thừa
phát triển, Thiền tông.
I. Thiền nguyên thủy: Thiền
nguyên thủy được truyền bá ở các nước: Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan,
Lào, Campuchia... Thiền nguyên thủy có rất nhiều pháp, ở đây chỉ nêu lên
những pháp thường dùng.
1- Tứ niệm xứ:
* Quán thân bất
tịnh: Là thấy đúng như thật về thân. Quán xét thân mình từ đầu tới chân
toàn là một đãy da bao bọc não, tủy, thịt, gân, xương, máu, mủ... Những
món này còn nằm trong đãy da thì dễ coi một chút, nếu nó ra khỏi đãy da
thì rất nhơ nhớp. Phần đầu là quý nhất, thế mà những chất tiết ra từ mắt
là ghèn, từ tai là cức ráy, từ mũi là nước mũi, từ miệng là đờm dãi đều
tanh hôi nhơ nhớp, ai thấy cũng gớm ghê. Thân mình và tay chân cũng như
thế; chỗ nào trong thân bài tiết ra cũng đều tanh hôi nhơ nhớp, không
có cái nào là sạch, là quý cả. Nếu bên trong thân sạch sẽ thì khi tiết
ra có mùi thơm. Nhưng vì quá dơ bẩn nên tiết ra có mùi tanh hôi nhơ nhớp
mà lúc nào chúng ta cũng ảo tưởng thân mình là đẹp, là sạch, là quý...
Do si mê thấy thân lầm lẫn như thế, nên tự cao ngã mạn phát sanh bao
nhiêu thứ phiền não. Do đó, Phật dạy chúng ta phải thấy đúng như thật về
thân, để phá cái nhân si mê chấp ngã, dứt mầm luân hồi sanh tử.
* Quán thọ là khổ:
Thọ là những cảm giác mà mình lãnh thọ. Mắt thấy hình sắc đẹp tâm ưa
thích là cảm thọ lạc, thấy hình sắc xấu tâm chán ghét là cảm thọ khổ.
Tai nghe âm thanh nhẹ nhàng trầm bổng vừa ý là cảm thọ lạc, nghe âm
thanh nặng nề chát tai tâm bực bội là cảm thọ khổ. Mũi, lưỡi, thân, ý
cũng như thế. Mắt thấy sắc không xấu không đẹp, tai nghe tiếng không hay
không dở... tâm không ưa không ghét là cảm thọ không khổ không lạc. Thọ
khổ thì thấy khổ quá rõ, còn thọ lạc tại sao lại khổ? Ví dụ lưỡi nếm
thức ăn ngon là thọ lạc, nhưng thọ lạc chỉ trong phút chốc, thức ăn qua
khỏi cổ là hết, hết rồi nhưng còn muốn nữa nên khổ. Cảm thọ không khổ
không lạc cũng thế, có rồi mất, nó vô thường nên khổ.
Con người có hai
cái chấp nặng nhất là chấp thân thật và chấp cảm giác của thân là quý,
cho nên mắt đòi sắc đẹp, tai đòi âm thanh hay, mũi đòi hương thơm... Hết
đòi cái này tới đòi cái kia, không có ngày dừng. Vì không thấy thọ đúng
như thật, nên say đắm theo những cái ưa thích tạm bợ vô thường nên khổ.
Phật dạy chúng ta biết đúng như thật những cảm thọ là vô thường, là
khổ, để không đua đòi thụ hưởng thì không bị lệ thuộc với ngoại trần,
được tự do giải thoát hết khổ.
* Quán tâm vô
thường: Tâm người lúc nghĩ tốt lúc nghĩ xấu, lúc nghĩ chuyện mình lúc
nghĩ chuyện người, nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác, không phút giây
dừng nghỉ. Tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt, không nhất định, luôn luôn
chuyển biến vô thường. Thế mà ai cũng cho là thường, là cố định, là chân
lý, người nào nghĩ khác, làm khác ý nghĩ mình là nổi giận. Vì chấp
những nghĩ suy là thường, là chân lý nên cãi vã, đấu tranh, sát hại, gây
đau khổ cho nhau. Do đó, Phật dạy quán tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt
là vô thường không thật, để không lầm chấp nó là thường là thật, mới
phá được kiến chấp mình đúng, kẻ khác sai.
* Quán pháp vô ngã: Có hai cách quán.
a)- Pháp chỉ cho
những niệm buồn, thương, giận, ghét... Những niệm này không có chủ thể,
không cố định; khi thì buồn lúc thì vui, khi thì thương lúc thì ghét...
làm cho con người rối rắm bất an. Phật dạy quán những pháp này là tướng
không cố định, không có thật, để phá niệm chấp ngã về tâm.
b)- Pháp còn chỉ
cho tất cả sự vật như bàn, ghế, nhà cửa, ruộng vườn... Với mắt người
phàm tục thì thấy cái bàn thật, cái ghế thật... Nhưng với mắt người trí
tuệ thì thấy cái bàn cái ghế không thật mà do các duyên như gỗ, đinh,
công thợ... hợp lại tạm có, có một thời gian rồi hoại diệt, nên nói là
vô ngã, không có chủ thể. Thân người cũng là một pháp, cũng do đất nước
gió lửa hợp lại tạm có, có rồi hoại diệt.
Phật dạy quán các
pháp đúng như thật của nó là vô ngã để phá chấp thân là thật, chấp tâm
là thật, chấp cảnh là thật. Khi thấy thân, tâm, cảnh không thật thì hết
mê muội, hết luyến ái, hết chạy theo người, chạy theo cảnh.
2- Minh sát tuệ:
Hành giả dùng trí
tuệ thấy rõ và theo dõi từng cử động nơi thân, hoặc những ý nghĩ khởi
lên nơi tâm. Ví dụ hơi thở vô bụng phồng lên, hành giả biết và chú ý
niệm thầm "phồng à". Khi thở ra bụng xẹp xuống, hành giả biết và chú ý
niệm "xẹp à". Hoặc tâm khởi tưởng điều gì phải biết ngay tâm đang tưởng
tượng và niệm (thầm) liền "tưởng tượng à, tưởng tượng à"... Ðó là thiền
Minh sát tuệ.
Người theo Phật
giáo Nguyên thủy tu thiền, hoặc quán Tứ niệm xứ, hoặc ứng dụng Minh sát
tuệ, hoặc quán Ngũ đình tâm. Ðó là những pháp thiền người tu theo Phật
giáo Nguyên thủy thường dùng.
II. Thiền Phật giáo Ðại thừa hay Phật giáo Phát triển:
Thiền Phật giáo Ðại
thừa hay Phật giáo Phát triển được truyền bá ở Trung Hoa. Ðại sư Trí
Khải dạy tu thiền theo Lục diệu pháp môn gốc từ Phật giáo Nguyên thủy,
nhờ ứng dụng khéo thành pháp tu của Ðại thừa.
1- Lục diệu pháp môn:
- Sổ tức: Hành giả
điều hòa hơi thở không mạnh, không gấp, yên ổn, thong thả... hít vô thở
ra đếm từ một tới mười, nhiếp tâm tại số, không cho dong ruổi gọi là sổ
tức. Tâm hành giả vận chuyển tự nhiên theo hơi thở với số không cần gia
công, biết hơi thở rỗng nhẹ, tưởng tâm lần lần tế nhị. Khi không muốn
đếm thì bỏ sổ tức tu tùy tức.
- Tùy tức: Xả pháp
sổ tức, tâm nương theo hơi thở ra vào, hơi thở vào thì theo vào, hơi thở
ra thì theo ra, dứt hết các duyên, ý không phân tán. Biết hơi thở ra vô
là thô, muốn bỏ, khi ấy xả tùy tức tu chỉ.
- Chỉ: Dứt các
duyên lự, không nhớ đếm hơi thở hay theo hơi thở, tâm ngưng lặng gọi là
tu chỉ. Biết thân tâm đứng lặng vào định, không thấy tướng mạo trong
ngoài, hành giả khởi nghĩ định này tuy vô vi tịch tịnh, an ổn, khoái
lạc, nhưng không có trí tuệ, không thể phá hoại nhân sanh tử. Khởi nghĩ
như thế, không đắm nơi chỉ mà khởi quán.
- Quán: Tâm ở trong
định dùng tuệ quán tưởng hơi thở ra vào vi tế như gió trong hư không,
ba mươi sáu vật trong thân không thật, như bẹ chuối; tâm thức vô thường
sanh diệt, từng sát na không có ta và người, người đã không có thì định
nương vào đâu? Quán như thế, biết hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông,
tâm sáng, thấy trong thân ngoài thân đều bất tịnh, biến đổi từng sát na,
tâm quán lưu động, không phải đạo chân thật. Khi ấy xả quán tu hoàn.
- Hoàn: Ðã biết
quán từ tâm sanh hoặc từ phân tích cảnh sanh đều không hợp bản nguyên,
phải phản quán, quán lại tâm năng quán, quán tâm này từ đâu sanh, gọi là
tu hoàn.
- Tịnh: Bấy giờ tâm đã thanh tịnh, không còn nương theo hơi thở, không còn quán. Ðó là tịnh.
2- Tam quán:
Ðại sư Trí Khải còn
dạy tu theo Tam quán là quán không, quán giả và quán trung. Hành giả
quán tất cả pháp trên thế gian này do nhân duyên hợp mà tạm có hình
tướng, tạm có tên gọi, không có thật thể, nên nói là không. Tuy là không
nhưng duyên hợp thì nó giả có. Vì giả có nên quán giả. Nếu thấy được
nghĩa không giả hòa hợp là quán trung.
III. Thiền tông:
Sau đây là pháp tu
của Thiền tông. Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Êẽn Ðộ sang Trung Hoa, Ngài ở chùa
Thiếu Lâm, ngồi xoay mặt vào vách không tiếp người gần chín năm. Hôm ấy
vào tiết mùa Ðông có Thần Quang là một thiền khách đến yết kiến, thấy Tổ
ngồi xoay mặt vào vách, đứng chắp tay chờ mãi, tuyết rơi lên tới gối.
Tổ quay lại thấy, hỏi:
- Ngươi đến đây cầu cái gì mà chịu khổ hạnh như vậy?
Thần Quang thưa:
- Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.
- Diệu đạo vô
thượng của chư Phật dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay
nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay, huống là dùng chút công
lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa!
Thần Quang nghe dạy bèn lén lấy dao chặt cánh tay đặt trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Tổ biết đây là pháp khí bèn dạy:
- Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.
Qua câu chuyện,
chúng ta thấy Phật pháp cao siêu tuyệt vời đưa tới giải thoát sanh tử.
Người tu đạo phải quyết tâm gan dạ xem thường thân mạng mới có thể đạt
được, còn tu lai rai cầm chừng thì không thể tiến được.
Sau đó, Thần Quang thưa:
- Pháp ấn của chư Phật, con có thể được nghe chăng?
- Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.
- Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
- Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.
Thần Quang nhìn lại tâm mình, tìm mãi không thấy ở đâu, bèn thưa:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Ngay đó Thần Quang lãnh hội, biết pháp an tâm, Tổ đặt tên là Huệ Khả.
Từ lâu, ai cũng như
ai đều cho cái nghĩ suy là tâm mình, nên hết nghĩ việc này, tới nghĩ
việc kia, tâm lúc nào cũng loạn động bất an. Tổ bảo đem tâm ra ta an cho
là bảo xoay lại tìm cái nghĩ suy lăng xăng đó ở đâu? - Khi xoay lại tìm
thì nó lặng mất. Ý nghĩ lăng xăng mất ngay để tâm an. Vậy, xoay lại tìm
ý nghĩ lăng xăng, thì ý nghĩ lăng xăng lặng, đó là phương pháp tu để
được an tâm, để được định. Ðây là phản quang tự kỷ, xoay lại soi sáng
tâm mình, Tổ dạy tu một cách đơn giản, rõ ràng và thực tế, không phải
chuyện xa vời không thực hiện được.
Về sau, Tổ Huệ Khả cũng dạy cho ngài Tăng Xán như thế. Một hôm có một cư sĩ đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- Ðệ tử mang bệnh ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi vì đệ tử sám tội.
Tổ bảo:
- Ðem tội ra, ta sẽ vì ngươi sám hối.
Cư sĩ đứng sững giây lâu, thưa:
- Ðệ tử tìm tội không được.
- Ta vì ngươi sám hối rồi.
Sám hối cũng là lối phản quang tự kỷ. Ở trước thì phản quang tìm tâm (vọng tưởng), bây giờ thì phản quang tìm tội.
Về sau nữa, Tổ Tăng Xán cũng dạy cho Sa di Ðạo Tín như thế. Sa di Ðạo Tín đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
Tổ hỏi:
- Ai trói buộc ngươi?
- Không ai trói buộc.
- Không ai trói buộc đâu cần cầu giải thoát?
Ðạo Tín nghe liền đại ngộ.
Các Ngài ngộ đạo
đều xoay lại mình tìm coi vọng niệm có thật không, nghiệp tội có thật
không, sự trói buộc có thật không? Thấy tất cả đều là ảo tưởng không có
thật. Thấy nó không thật là ngộ được lý Thiền. Ðó là lối phản quang tự
kỷ.
Từ đời Tống trở về
trước, Thiền tông chưa có pháp tu khán thoại đầu. Từ đời Tống trở về
sau, các Thiền sư Trung Hoa trong tông Lâm Tế thấy đa số Tăng Ni đều
thông hiểu lý Thiền, nhưng không chịu tu mà chỉ nói suông, nên các Ngài
dạy khán thoại đầu, không cho tìm hiểu nghĩa lý để nói suông nữa.
Khán thoại đầu là
pháp tu mà hành giả dồn hết tâm lực khán câu thoại đầu do vị thầy hướng
dẫn đưa ra cho tới khi ngộ. Trong thời gian này không học kinh luận,
ngoại trừ những buổi khai thị của vị thầy. Hiện giờ, đa số Tăng Ni và
Phật tử chưa thấu suốt lý Thiền, nên chúng tôi không hướng dẫn khán
thoại đầu mà phải giảng dạy cho hiểu lý Thiền, hiểu rồi mới biết đường
lối tu. Ðó là tùy thời tùy cảnh mà dùng phương tiện cho hợp với căn cơ
của người đương thời để tu cho có kết quả tốt.
C- Kết luận
Tu thiền là một
pháp tu thực tế phù hợp với tinh thần khoa học hiện đại. Tâm chúng ta
khởi vọng tưởng phiền não, chúng ta khéo quán thì vọng tưởng lặng, hết
phiền não, tâm an định. Tu tới đâu có kết quả lợi ích tới đó, rất cụ
thể, không xa vời. Vọng tưởng phiền não là cái không thật hư ảo, nơi
mình sẵn có Phật tánh là cái chân thật bị vọng tưởng phiền não che
khuất, bây giờ bỏ hết vọng tưởng thì Phật tánh hiện ra. Ðó là những vấn
đề chủ yếu của việc tu thiền./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Thiền ngoại đạo là những pháp nào?
2- Thiền của đạo Phật có mấy thứ?
3- Thiền của đạo Phật trọng tâm phát huy cái gì?
4- Tu thiền được lợi ích gì?