Phần II - Bài 4
Giới thiệu về Tịnh Ðộ Tông
Thích Viên Giác
A- Dẫn nhập
Tịnh
độ là một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với người Phật tử
tại nhiều nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Giáo nghĩa Tịnh độ
tông thuộc hệ tư tưởng Ðại thừa và xuất hiện vào thời kỳ Phật giáo Phát
triển.
Phật giáo Nguyên
thủy chú trọng tự lực, Phật giáo Phát triển (Ðại thừa) đa dạng hóa đường
lối tu tập nên có những pháp môn chú trọng tha lực, tức nhờ vào Phật
lực mà thành tựu đạo quả hoặc vượt thoát khổ đau, lý tưởng như pháp môn
Tịnh độ. Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu
cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ đau
của con người.
B- Nội dung
I. Lịch sử và sự truyền thừa Tịnh độ tông
Lý thuyết Tịnh độ
được phát triển ở Ấn Ðộ, là một đường lối tu tập nhưng không thiết lập
tông phái, chỉ khi các kinh điển Tịnh độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh
độ trở thành tông phái.
Phật giáo truyền
vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất cho đến đầu thế kỷ thứ hai nhưng
những kinh luận thuộc giáo nghĩa Tịnh độ phải đến thế kỷ thứ ba mới xuất
hiện. Vào thời Ngụy (250), ngài Khang Tăng Ngãi (Sanghavarman) dịch
kinh Vô Lượng Thọ, cư sĩ Chí Khiếm (thời Tôn Quyền) dịch bộ Ðại A Di Ðà kinh. Ðến đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Ðà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Ðà, ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas) dịch Quán Vô Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh luận. Ðặc biệt, ngài Thế Thân trước tác Vãng sinh Tịnh độ luận..., đến đây giáo nghĩa Tịnh độ tông tương đối hoàn chỉnh. Ba tác phẩm được coi là nền tảng của Tịnh độ tông là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Ðà, cộng thêm tác phẩm Vãng sinh Tịnh độ luận
của Thế Thân. Mặc dù chỉ một vài bộ kinh triển khai giáo lý Tịnh độ,
nhưng rất nhiều kinh luận trong hệ thống giáo lý Ðại thừa ca ngợi tư
tưởng Tịnh độ, làm cho Tịnh độ tông trở nên phổ biến và nổi bật trong
nền tư tưởng Phật học Trung Hoa.
Lịch sử truyền thừa
của Tịnh độ tông không theo đường lối thông thường là người trước
truyền cho người sau như các tông phái khác, mà chỉ căn cứ vào sự đóng
góp nhiều ít công cuộc xiển dương giáo lý Tịnh độ.
Tịnh độ tông Trung
Hoa, ngài Huệ Viễn (333-416) được coi là người sáng lập. Ngài quê ở Nhạn
Môn, 21 tuổi xuất gia làm môn đệ của ngài Ðạo An. Ngài thông minh xuất
chúng, được ngài Ðạo An khen ngợi. Vì hoàn cảnh loạn lạc, Ngài di cư
xuống Tương Dương, sau đó trên đường hành đạo, Ngài đến Lô Sơn, thấy
cảnh trí u tịch, phù hợp với chí nguyện tu hành, Ngài ở lại đó và thành
lập chùa Ðông Lâm. Ngài chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu
hành không màng thế sự..., nhất là quan hệ gần gũi với vua chúa. Ðể phản
đối sắc lệnh của nhà vua về việc người xuất gia vào chầu phải lạy, Ngài
viết bộ Sa môn bất bái vương giả luận. Năm 402, Ngài lập ra Hội
Niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên là Bạch liên xã, đây là một hình thức tổ
chức quần chúng tu tập, manh nha một đường lối tu Tịnh độ cho tứ chúng
về sau. Tổ chức Bạch liên xã không phân biệt tại gia hay xuất gia, cách
tu đơn giản là thành kính lễ bái và niệm hồng danh Ðức Phật A Di Ðà.
Pháp tu của ngài Huệ Viễn đã tạo nên đường lối của Tịnh độ tông.
Ðến thế kỷ sau,
ngài Ðàm Loan (476-542) tiếp nối xiển dương pháp môn Tịnh độ. Ngài cũng
là người ở Nhạn Môn, tu học rất tinh cần, chuyên nghiên cứu chú giải
kinh sách nhưng nửa chừng bị bệnh nặng, Ngài tìm thầy chữa bệnh, nhân đó
gặp đạo sĩ Ðạo Hoằng Cảnh dạy cho tiên thuật và giao cho 10 cuốn tiên
kinh. Trên đường về phương Bắc gặp được ngài Bồ Ðề Lưu Chi (Bodhiruci)
trao cho Ngài những tác phẩm pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào đó Ngài chuyên
tu Tịnh độ. Ngài trước tác những bộ: Vãng sinh luận chú, Tán Phật A Di Ðà kệ... Ngài
dạy chúng tu học và xiển dương giáo lý Tịnh độ, chú trọng yếu tố "Tín
tâm niệm Phật", đây cũng là sắc thái khác của Tịnh độ tông.
Ngài Ðạo Xước
(562-645) có nhân duyên với ngài Ðàm Loan dù sống cách nhau vài chục
năm. Ngài đã tiếp nhận pháp môn Tịnh độ trong trường hợp đặc biệt. Ngài
Ðạo Xước xuất gia năm 14 tuổi, chuyên nghiên cứu về Niết bàn tông, một
hôm đến chùa Huyền Trung núi Thạch Bích, đọc bia đá ghi chép sự tích
ngài Ðàm Loan thì lòng sinh cảm kích, Ngài quay sang tu Tịnh độ và
thường giảng dạy Quán Vô Lượng Thọ kinh. Ngài nỗ lực giáo hóa dân
chúng trong vùng tu Tịnh độ và là người chế ra tràng hạt để dạy cách
trì danh niệm Phật. Ðối với nông dân, Ngài bày cách lấy hạt đậu đếm số
niệm Phật gọi là "tiểu đậu niệm Phật". Ngài trước tác An lạc tập
và một số tác phẩm khác, triển khai ý nghĩa tu dễ và tu khó để kết luận
rằng tu Tịnh độ là dễ. Ngài biện minh ý nghĩa tha lực của Ðức Phật A Di
Ðà làm cho mọi người đều thích thú pháp môn này. Ðệ tử của Ngài khá
đông, xuất sắc gồm có Thiện Ðạo, Ðạo Phủ, Tăng Ðiền...
Ngài Thiện Ðạo
(613-681) nối chí thầy mình xiển dương giáo lý Tịnh độ. Phật giáo đời
Ðường rất hưng thịnh, Tịnh độ tông cũng phát triển mạnh mẽ, phần lớn nhờ
công lao của Thiện Ðạo. Ngài là người ở Lâm Truy, khi xuất gia tìm thầy
học đạo, Ngài gặp Ðạo Xước học pháp môn Tịnh độ. Sau khi thầy mất, Ngài
về Trường An trụ trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân, giảng dạy và truyền
bá pháp môn Tịnh độ. Ngài viết 10 vạn cuốn kinh A Di Ðà và vẽ
300 đồ hình tả cảnh Tịnh độ, làm cho thế giới Tịnh độ trở nên sống động
và hiện thực trong tâm người tu nên họ theo rất đông. Ngài trước tác
nhiều kinh sách như Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ, Vãng sinh lễ tán, Quán niệm pháp môn, Ban châu tán. Ðường lối tu tập của Ngài được đời sau ca ngợi và trở thành một phương thức đặc trưng của Tịnh độ tông.
Ngài Từ Mẫn
(680-748) là một hành giả Tịnh độ khá nổi tiếng vào đời Ðường, Ngài noi
gương các vị tiền bối, lên đường "nhập Trúc cầu pháp". Ngài ra đi năm
702 (thời Võ Tắc Thiên), đến Bắc Thiên Trúc (Ấn Ðộ) gặp được hóa thân
của Quán Thế Âm Bồ tát trao cho pháp môn Tịnh độ. Ngài ở Ấn Ðộ 18 năm
mới về nước, được vua Huyền Tôn tặng danh hiệu "Từ Mẫn tam tạng". Ngài
trước tác Vãng sinh Tịnh độ tập để truyền bá pháp môn Tịnh độ mà
Ngài đã lãnh hội trên đất Ấn, trở thành một dòng tư tưởng Tịnh độ độc
lập. Tuy nhiên, hệ thống của Ngài không hưng thịnh lâu.
Như vậy, hệ thống
truyền thừa pháp môn Tịnh độ từ sơ khởi cho đến đời Ðường không tiếp nối
đời này qua đời khác mà tùy thuận vào nhân duyên của mỗi hành giả. Bắt
đầu từ đời Ðường mới có sự truyền thừa, và rõ nét nhất phải chờ đến đời
Tống. Sau này, các học giả phân chia đường hướng tu tập của pháp môn
Tịnh độ thành 4 hệ thống: Huệ Viễn chú trọng "Quán tưởng niệm Phật", Ðàm
Loan chú trọng "Tín tâm niệm Phật", Thiện Ðạo chú trọng "Khẩu xưng niệm
Phật", Từ Mẫn thiên về "Thiện căn niệm Phật".
Ðến đời Tống
(960-1279), Phật giáo vẫn duy trì các hệ tư tưởng và truyền thống tu tập
của các tông phái. Tịnh độ tông mặc dù vẫn duy trì truyền thống độc lập
của mình, nhưng vẫn bị ảnh hưởng tác động của các hệ tư tưởng khác. Vào
thời kỳ này, các tông phái nói chung đều có xu hướng dung hợp, ví dụ
Thiên thai tông chủ trương kiêm tu Tịnh độ, đại biểu cho chủ trương này
có ngài Tuân Thức, Từ Lễ, Trí Viên. Luật tông cũng kiêm tu Tịnh độ do
ngài Nguyên Chiếu chủ trương. Thiền tông cũng kiêm tu Tịnh độ do ngài
Diên Thọ chủ trương... cho nên sắc thái Tịnh độ muôn màu muôn vẻ. Những
hội niệm Phật đua nhau xuất hiện, nổi bật là hội "Tịnh hạnh xã" của ngài
Tĩnh Thường.
Ðời Minh
(1360-1661), Tịnh độ tông được phát triển do các đại sư Vân Thê, Liên
Trì, Trí Húc, nhất là hàng cư sĩ tu Tịnh độ phát triển mạnh phổ cập sâu
rộng trong quần chúng. Ðến đời Thanh, tư tưởng Tịnh độ dung hợp trong
mọi pháp môn, tông phái. Những đại sư xiển dương Tịnh độ có ngài Tĩnh
An, Thực Hiền (1686-1734). Ngài Êẽn Quang ở cuối đời Thanh là một bậc
cao đức truyền bá pháp môn Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ hưng khởi ở Trung
Quốc, sau đó được truyền qua các nước Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam,
Triều Tiên, được tiếp nhận nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ.
II. Giáo nghĩa Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm nền tảng cho tư tưởng của mình: kinh "Vô Lượng Thọ" nói về tiền thân Ðức Phật A Di Ðà khi còn là Pháp Tạng Tỳ kheo đã phát nguyện 48 lời nguyện để cứu độ chúng sanh, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật, kinh A Di Ðà miêu tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Ðức Phật A Di Ðà đang thuyết pháp, và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ của ngài Thế Thân tán thán và giảng về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ
thì giáo lý Tịnh độ đã được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết cho hoàng
hậu của nước Kosala là Videhi. Bà bị chính con trai bà giam lỏng và chán
nản vô cùng trước cảnh thế thái nhân tình. Bà cầu mong Ðức Phật cứu
giúp vượt qua nỗi khốn khổ này, Ðức Phật đã xuất hiện và giới thiệu các
quốc độ chỉ có an lạc không có khổ đau, bà chọn cõi Phật A Di Ðà. Ðức
Phật dạy bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sanh về cõi ấy.
Trong kinh tạng Nguyên thủy không đề cập đến chi tiết ấy, có thể nói
kinh tạng Nguyên thủy ít quan tâm đến yếu tố tha lực. Ðến thời kỳ đầu
của Phật giáo Phát triển, ngài Nagasena đã đưa lý thuyết Phật cứu độ vào
trong lý luận của mình, trở thành tiền đề cho tư tưởng Phật lực về sau.
Cực lạc thế giới,
Hán dịch từ tiếng Phạn Sukhànatì, là nơi có hạnh phúc mà không có khổ
đau. Cõi giới này do Ðức Phật A Di Ðà giáo hóa. Có thể nói thế giới Cực
lạc là một khái niệm khác của Niết bàn, vì Niết bàn (Nirvana) có nghĩa
là dập tắt mọi phiền não khổ đau. Trong ý nghĩa hẹp hơn thì đó là một
thế giới hiện thực ở phương Tây, khác với thế giới Ta bà đầy đau khổ này
mà kinh A Di Ðà gọi là "ngũ trược ác thế".
Thế giới Cực lạc có
những ưu điểm tiêu biểu như không có ô uế, không có phiền não, thọ mạng
lâu dài, ăn uống tự có, có các thần thông... Ðất nước rất đẹp được cấu
tạo bằng các chất quý báu như vàng, ngọc, lưu ly...; cây cối, ao hồ,
cung điện, đường sá đều bằng các thứ báu, có ca nhạc như âm nhạc cõi
trời, các loài chim hót ca như thuyết pháp... Tóm lại, đó là một thế
giới lý tưởng, là môi trường tốt cho sự tu hành và đạt được hạnh phúc
tối thượng.
Ðức Phật A Di Ðà là
vị giáo chủ của thế giới Cực lạc. A Di Ðà là danh từ dịch âm của
Amitàbha, dịch nghĩa là Vô lượng quang, còn Amitàyus là Vô lượng thọ. Vô
lượng quang chỉ cho ánh sáng vô lượng, biểu tượng cho trí tuệ viên mãn
hay cho Pháp thân (Dharma-kàya). Vô lượng thọ chỉ cho đời sống vĩnh cửu,
biểu tượng của đại định hay còn gọi là Giải thoát thân (Vinuktikàya).
Với ý nghĩa danh hiệu như vậy, Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng cho sự sống
vĩnh cửu và giải thoát hoàn toàn khổ đau, đó là mục đích cao cả và hấp
dẫn đối với con người ở mọi thời đại.
Theo kinh Vô Lượng Thọ
thì Ðức Phật A Di Ðà từng là một nhà vua. Sau khi ngộ đạo, Ngài phát
tâm xuất gia và trở thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng (Dharmàkara). Ngài
quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sanh trong cõi
Cực lạc của mình. Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sanh giải thoát.
Những nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: "Ví con được thành Phật, mười
phương chúng sanh muốn sanh về cõi nước con mà chí tâm tin mến niệm từ
một niệm cho đến mười niệm, nếu không được sinh thì con không thành bậc
Chánh giác. Chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp".
Nguyện thứ 19: "Ví con được thành Phật, mười phương chúng sanh phát Bồ
đề tâm, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện muốn sanh về cõi nước con,
đến lúc mạng chung, ví con chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện thân
trước người đó, thì con không thành bậc Chánh giác". Nguyện thứ 20: "Ví
con được thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ
nghĩ quốc độ con, vun trồng các công đức, rồi dốc lòng hồi hướng muốn
sanh về cõi nước con, nếu không được toại nguyện thì con không thành bậc
Chánh giác" (Kinh Vô Lượng Thọ, Chân Thường dịch, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992).
Qua nội dung 48 lời
nguyện cho thấy con đường tu tập Tịnh độ dựa vào nguyện lực của Ðức
Phật A Di Ðà và nhất tâm niệm Phật là con đường tu dễ nhất, đó là lý do
tại sao Tịnh độ tông được truyền bá rộng rãi nhất.
Con đường tu tập của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba nguyên tắc:
1- Niềm tin (Tín):
Ðây là điều kiện tiên quyết, không có niềm tin hay niềm tin không đủ
mạnh thì không thể tu Tịnh độ được. Sự tin tưởng là nền tảng khởi lên
ước muốn và hướng tâm về thế giới Cực lạc. Như tất cả các pháp môn khác,
niềm tin là mẹ của các thiện pháp và phát sinh công đức.
Niềm tin của hành
giả Tịnh độ rất rõ, tin rằng Ðức Phật A Di Ðà và thế giới Cực lạc là có
thực, Ðức Phật và Thánh chúng luôn sẵn sàng tiếp độ chúng ta, chỉ cần
chuyên tâm tin tưởng và niệm Phật quyết chí vãng sanh thì chắc chắn được
vãng sanh. Vì vậy, các kinh sách Tịnh độ và các hành giả Tịnh độ thường
nói xác quyết chứ không có thái độ lưỡng lự, phân hai.
2- Nguyện lực hay tâm mong muốn (Nguyện): Niềm
tin ổn định sẽ đưa đến ước muốn vãng sanh gọi là ước nguyện. Mọi hoạt
động tâm lý đều hướng về Tịnh độ, mọi ước muốn đều được kích thích bằng
sự nhàm chán đối với đời sống uế trược và bất an này. Nếu ta còn ham
muốn vật chất, tình cảm, tư tưởng của cuộc đời này thì ước muốn vãng
sanh không mạnh. Nghiệp liên kết với đời sống này không giảm thì Tịnh độ
không hấp dẫn ta được, nên có chán Ta bà mới ước mong mãnh liệt về Tịnh
độ được. Ðó cũng là lý do tại sao người lớn tuổi ưa tu Tịnh độ hơn là
giới trẻ.
Biểu hiện của ước
nguyện về Tịnh độ là mọi hành vi, lời nói và tâm ý đều phải thể hiện ước
nguyện đó. Với lời nguyện mạnh mẽ từ bỏ uế độ vãng sanh Tịnh độ, mong
có khả năng để cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện như vậy mới tương ứng với
tâm nguyện của Tịnh độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh chúng ở Cực
lạc.
3- Hành trì (Hạnh): Khi
tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi hành động, ngôn ngữ đều được tu tập
liên tục, nghĩa là thực hành phương pháp niệm Phật, quán tưởng... đều
đưa đến hợp nhất thân khẩu ý, không để cho các đối tượng của trần gian
lôi kéo làm tâm bị tán loạn. Mọi công đức, thiện pháp ta có đều hồi
hướng về Tịnh độ, thường thì hành giả thiết lập cho mình một thời khóa
tu niệm, ví dụ như trong một ngày một đêm chia thành sáu thời khóa để
tụng niệm, tạo cho mình tiêu chuẩn niệm bao nhiêu lần, nhờ hành trì mà
hành giả có thể đắc định, thấy Phật và Thánh chúng cõi Cực lạc.
III. Phương pháp niệm Phật
Mục đích của pháp
niệm Phật A Di Ðà là đưa đến nhất tâm, chế ngự mọi vọng tưởng của tâm.
Niệm Phật là thực hành chánh niệm, như vậy về mặt bản chất, pháp môn
niệm Phật không khác biệt với thiền quán, là cốt lõi của các pháp môn.
Phương pháp niệm Phật có bốn cách:
1- Trì danh niệm Phật: Niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, hoặc niệm thầm hoặc phát âm thanh.
2- Quán tượng niệm Phật: Niệm Phật và chăm chú nhìn vào tượng Phật, thấy rõ tướng tốt của Phật, hoặc tướng tốt của các Bồ tát và Thánh chúng.
3- Quán tưởng niệm Phật: Quán
tưởng hình ảnh của Ðức Phật A Di Ðà cho đến khi thấy được linh ảnh của
Ðức Phật. Pháp quán này khác với quán tượng là không sử dụng hình ảnh
bên ngoài. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đề cập đến 16 pháp quán.
4- Thật tướng niệm Phật: Niệm
Phật đạt đến chỗ vô niệm, không còn chủ thể và đối tượng. Pháp quán này
mang sắc thái Thiền hơn là Tịnh độ cho nên không phổ biến được.
Phương pháp tu Tịnh
độ được nhiều người chấp nhận và hành trì, nhất là Trì danh niệm Phật,
ai thực hành cũng được, có thể niệm lớn tiếng gọi là Cao thanh trì, niệm
thầm gọi là Mặc trì, mấp máy môi mà không ra tiếng gọi là Kim cang trì.
Người xưa còn đưa ra 4 sắc thái niệm Phật: Hòa hoãn niệm là niệm từ từ
không cần gấp, không nôn nóng, chỉ cần bền bỉ, có thể vừa làm việc vừa
niệm Phật, không cần "tu mau kẻo trễ"; thứ hai là Truy đảnh niệm, là đưa
câu niệm Phật nằm trên đỉnh cao của dòng tâm thức, nghĩa là niệm Phật
luôn hiện tiền, không bị chi phối bởi công việc, quyết chí cao, ấn định
thời gian và cần có kết quả rõ; thứ ba là Thiền định niệm, tức trụ tâm
vào định rồi sử dụng tâm định ấy mà niệm Phật. Ðây là lối tu dựa trên cơ
sở truyền thống nguyên thủy, khi tâm đạt định, hướng tâm ấy về tam
minh, ở đây hành giả hướng tâm về cõi Tịnh độ và Ðức Phật A Di Ðà; thứ
tư là Tham cứu niệm, là cách niệm Phật ảnh hưởng thiền công án, như nêu
câu hỏi: Niệm Phật là gì? Sự nung nấu nghi tình đến đỉnh cao sẽ bùng vỡ ý
thức và giác ngộ. Sắc thái này mang dấu ấn của Thiền hơn là của Tịnh
độ.
C- Kết luận
Tịnh độ tông chú
trọng vào niềm tin của cá nhân và sự cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Pháp
tu chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A Di Ðà và quán tưởng đến thế giới Cực
lạc. Ðây là một tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được
nhiều tông phái khác phổ biến và hành trì. Pháp môn niệm Phật là con
đường tu tập khá phù hợp với nhiều căn cơ khác nhau. Thực ra, pháp môn
niệm Phật có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, Ðức Phật dạy các đối tượng
quán niệm trong đó niệm Phật là đứng đầu, vì đây là đối tượng dễ đưa tâm
vào chánh niệm, trong Phật giáo Nguyên thủy, ý nghĩa về Phật lực đã
được bao hàm trong pháp niệm Phật. Qua thời kỳ tiền Ðại thừa, luận sư
Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo) chủ trương thuyết cứu độ qua cuộc vấn đạo của
vua Milinda (hoàng đế Hy Lạp). Vua cho rằng không thể chấp nhận được
khi một người ác lại được cứu độ nếu y tin tưởng vào một vị Phật vào đêm
trước ngày chết. Nagasena đáp: "Một hòn đá dầu nhỏ cách mấy vẫn chìm
trong nước, nhưng một tảng đá vẫn nổi trên nước nếu đặt lên thuyền". Về
sau, các luận sư Ðại thừa triển khai triệt để hơn về thuyết Phật cứu độ
và qua kinh điển, Tịnh độ tông tiêu biểu rõ cho luận thuyết ấy.
Con đường giải
thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, tức là nỗ lực cá nhân, pháp môn
Tịnh độ vẫn không ngoài đường lối ấy, hòn đá lớn nhờ thuyền chở mà nổi
trên nước, nhưng vận chuyển hòn đá ấy lên thuyền phải là công phu tự
thân, để có được 10 niệm nhất tâm và sự cứu độ của Phật, hành giả phải
có công phu tích lũy lớn, nghĩa là có một quá trình tu tập. Sau này, khi
các tông phái khác phát triển đã ảnh hưởng đến tư tưởng Tịnh độ, nhất
là tư tưởng Tịnh độ tại tâm như "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ" làm cho
pháp môn Tịnh độ có tính tự lực nhiều hơn nhưng có lẽ đó không phải là
bản ý của Tịnh độ tông.
Ðể kết luận, xin dẫn lời bàn về niệm Phật của nhà vua, Thiền sư Việt Nam thời Trần là Trần Thái Tông trong tác phẩm Khóa hư lục:
"Người niệm Phật có ba bậc: bậc thượng trí thì tâm tức Phật chẳng nhờ
tu chứng, thân Phật là thân ta không có hai tướng, tánh tướng không hai,
tịch mà thường còn, còn mà chẳng biết. Ðó là hoạt Phật. Bậc trung trí
phải nương vào niệm Phật, chú ý chuyên cần, niệm Phật không quên tự
nhiên thuần thiện. Niệm thiện đã hiện niệm ác liền tiêu. Niệm ác đã tiêu
duy còn niệm thiện. Bởi niệm ý niệm niệm niệm tất diệt. Khi niệm đã
diệt, ắt về chánh đạo. Tới khi mạng chung được vui Niết bàn. Bậc hạ trí
thì miệng chuyên niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện
sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng không thoái chuyển. Sau khi mạng
chung thì nhờ thiện niệm đó được sinh sang nước Phật, nghe Phật nói pháp
mà chứng đạo Bồ đề" (Khóa hư lục, HT. Thanh Kiểm dịch, Thành hội
Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992). Ngài kết luận ba hạng người
trên đây sâu cạn khác nhau nhưng mục đích và kết quả là một, tuy nhiên
bậc thượng trí nói thì dễ làm thì khó, bậc trung trí nếu chuyên cần nỗ
lực sẽ thành tựu trong đời này nhưng nếu nghiệp nặng chưa dứt thì khó
thành tựu, bậc hạ trí lối tu lấy niệm Phật làm nấc thang bước từng bước
vững chắc được qua nước Phật rồi thì chí nguyện sẽ thành. Vậy muốn thành
tựu cái siêu việt phải bắt đầu bằng cái đơn giản./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày sơ lược lịch sử truyền thừa của Tịnh độ tông.
2- Những nguyên tắc cơ bản của pháp môn Tịnh độ là gì?
3- Trình bày các phương pháp niệm Phật. |