Phần II - Bài đọc thêm
Giới thiệu về Kim Cang Thừa
Nguyễn Thế Ðăng
1- Ðôi nét về ý nghĩa và lịch sử của Kim cương thừa
Kim
cương thừa (Vajrayana), còn gọi là Mật thừa, cũng như mọi tông phái
khác của Phật giáo, đều nhắm đến mục đích đạt đến trọn vẹn Phật tánh để
thành Phật. Có thể nói rằng, tông phái nào không nhắm đến mục đích giải
thoát, đạt đến Phật tánh, thì tông phái ấy không phải là Phật giáo đích
thực.
Ngay trong tên gọi
đã nói lên điều đó: Kim cương thừa, là con đường để đạt đến trí tuệ kim
cương, Phật tánh như kim cương bất hoại, không ô nhiễm bởi phiền não
sinh tử. Phật tánh ấy bản chất là sáng (như Phật A Di Ðà có nghĩa là Vô
lượng quang), nên trong Kim cương thừa, tánh sáng đó được gọi tên là
Tịnh quang (Clear light). Phật tánh ấy thể hiện trong ba thân: Pháp
thân, Báo thân và Hóa thân, cho nên mục đích của Kim cương thừa là đạt
đến ba thân ấy. Một ý nghĩa nữa là: Kim cương là sự kết hợp không thể
phân chia của trí tuệ, tánh Không và Ðại bi.
Kim cương thừa còn
gọi là Tantrayana. Tulku Pema Wangyal giải thích chữ Tantra như sau:
"Kim cương thừa gồm các giáo pháp được biết dưới tên Tantra. Phần đông
chúng ta đã quen với từ Phạn này: tan có nghĩa là một dòng, tra
là cái giải thoát cho. Giải thoát cho dòng gì? Dòng tâm thức. Tantra là
cái giải thoát cho dòng tâm thức bị nhiễm ô của chúng ta một cách rất
nhanh chóng".
Theo sự giải thích
của Tsongkapa thì Tantra có nghĩa là Phật tánh thể hiện trong ba phần
nhân, hạnh, quả. "Nghĩa của tantra là tương tục, không đứt đoạn, có 3
phần: "căn bản" tức là Phật tánh, Như Lai tạng tánh; "con đường" là 4 kỹ
thuật tiếp thông và chứng nghiệm nhờ vào hai giai đoạn phát triển và
thành tựu; và tính Bất hoại tức là Vô trụ xứ Niết bàn (PhậtVajradhara:
Kim Cương Trì), khuôn mẫu của Nhất như, hay là tương tục như là Quả" (The life and teaching of Naropa - Hebert V.Guenther).
Kim cương thừa còn gọi là Mật chú thừa (Mantrayana). Mật chú (mantra) có nghĩa là cái hộ trì, bảo vệ tâm để tiến đến giải thoát.
Mục đích của Kim
cương thừa là đạt đến cái tri kiến của Phật: tất cả âm thanh đều là chân
ngôn (tức là pháp âm Phật), tất cả hiện tượng đều là Niết bàn, tất cả
chúng sanh đều là Phật. Ðó cũng là mục đích của Thiền tông, Hoa Nghiêm
tông, Thiên Thai tông...
Trong lịch sử, Kim
cương thừa xuất hiện gần như cùng lúc với Ðại thừa, là sự thực hành để
thành tựu của Ðại thừa, như Thiền tông Trung Hoa là sự thực hành để
thành tựu của Ðại thừa. Nagarjuna (Long Thọ, khoảng 500 năm sau Phật
nhập diệt) là luận sư vĩ đại số một làm hưng khởi Ðại thừa, cũng là một
vị Tổ của Kim cương thừa. Ngài đã viết những giảng luận về Kim cương
thừa, điều đó cho chúng ta thấy hầu như Ðại thừa và Kim cương thừa có
cùng một lúc. Phái chính thống Prasangika Madhyamika của ngài Long Thọ
là cột trụ cho mọi quan điểm về tánh Không của 4 phái Phật giáo Tây
Tạng.
Cả hai trường phái
Trung quán và Duy thức đều đóng góp rất nhiều vào việc phát triển Kim
cương thừa. Cụ thể với Trung quán là tánh Không và với Duy thức là sự
nghiên cứu những biến hiện của tâm thức, trở thành một lý thuyết cho sự
quán tưởng và tương ưng (Du già) của Kim cương thừa.
Phát xuất từ Ấn Ðộ,
Kim cương thừa được những đại sư nổi tiếng ở Nalanda như Shantirashita
và Padmasambhava... truyền vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ 8. Hầu hết kinh
điển Phạn ngữ đã được dịch, và qua sự truyền trực tiếp, bởi thế Phật
giáo Tây Tạng rất gần gũi với Phật giáo Ấn Ðộ vào thời kỳ Ðại thừa và
Kim cương thừa ở Ấn Ðộ.
2- Ðường lối của Kim cương thừa
Kim cương thừa là
sự tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, tâm để trở thành thân, khẩu, tâm của
một vị Phật. Khi ba sự tịnh hóa ấy thành tựu, gọi là ba nghiệp tương
ưng, tức là ba nghiệp tương ưng trọn vẹn với Phật tánh. Thân trở thành
Hóa thân, khẩu trở thành Báo thân và tâm trở thành Pháp thân của Phật.
"Mật thừa có 4 đặc tính: thứ nhất là pháp Du già tịnh hóa triệt để môi
trường chung quanh; thứ hai là pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác;
thứ ba là tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ; thứ tư là pháp Du già tịnh hóa
triệt để mọi hành vi. Bất cứ giáo lý nào chứa đựng bốn sự tịnh hóa ấy
đều là Mật thừa" (Geshe Kelsang Gyatso).
Ðức Ðạt lai Lạt ma
thứ 13 nói: "Ðối với những ai chưa thỏa mãn các pháp thực hành Hiển
thừa, thì có 4 loại tantra: krya, charya, yoga và yoga tantra tối
thượng. Tinh túy của bốn loại này là yoga tantra tối thượng hay là "phần
tantra tối cao"; qua nó, sự giác ngộ viên mãn về Phật tánh rốt ráo có
thể được hoàn thành chỉ trong một đời này. Ðể hoàn thành Phật tánh tròn
đủ, người ta cần một con đường kết hợp cả hai mặt: phương tiện (năng
lực) và trí tuệ (quán chiếu). Ðiều này tạo ra trạng thái đại hòa hợp của
thân và tâm đã được tịnh hóa, đây là sự đạt đạo tối hậu. Trong các
tantra tối thượng, "phương tiện" ám chỉ các yoga thân huyễn (illusory
body) và "trí tuệ" để chỉ các yoga tịnh quang (clear light) (The
practice of Kalachakra).
Sự tịnh hóa, thăng hoa, tương ưng ấy được thực hiện qua nhiều phương tiện, phương pháp, kỹ thuật.
* Thần chú (mantra):
Bình thường, câu nói nào của chúng ta cũng tạo thành một tâm tương ứng.
Như nói, tôi thương A lắm, tôi ghét B lắm. Lập tức, câu nói ấy tạo
thành một trạng thái tâm thương và tâm ghét nơi ta. Thần chú cũng ảnh
hưởng đến chúng ta theo cách ấy. Thần chú là những âm thanh, những tần
số mà vũ trụ này tạo thành bằng những tần số rung động. Năng lượng là
những rung động ở tần số rất cao. Vật chất là những rung động ở tần số
cấp thấp. Khi khoa học nói: vật chất là năng lượng cô đặc, có nghĩa là
tùy theo mức độ rung động mà có những thế giới từ thô đến tế. Vì thần
chú là những rung động, nên nó có thể làm cho chúng ta tương ưng với
những rung động vi tế, những năng lượng vi tế, những thế giới vi tế.
Thần chú là những âm thanh do chư Phật, Bồ tát nói ra khi đang ở trong
tam muội, trong cảnh giới tự chứng, trong tâm giác ngộ của các Ngài; nên
khi trì chú, chúng ta cũng có thể tương ưng với tam muội ấy, cảnh giới
ấy, tâm ấy của chư vị. Thần chú là cây cầu âm thanh bắc từ tâm thức thấp
trược của chúng ta đến tâm cao sáng của chư vị giải thoát. Ngôn ngữ lại
có tính cách thông tin, truyền đạt, khai mở, duy trì; thần chú cũng có
tính cách thông tin, truyền đạt, khai mở, duy trì tâm giác ngộ như thế.
Một ví dụ là muốn khai mở tình thương ở nơi ta bằng cách tiếp thông với
tâm từ bi của Quán Thế Âm Bồ tát, chúng ta có thể trì chú Lục tự đại
minh hoặc Ðại Bi của Ngài.
* Ấn (mudra):
Kim cương thừa quan niệm thân tâm ta là một tiểu vũ trụ tương tự với
đại vũ trụ bên ngoài. Như kinh nói: "Trong thân thể này có sự sinh thành
thế giới, sự duy trì thế giới và sự hoại diệt của thế giới", sự tương
quan mật thiết của thân tâm ta và thế giới là như vậy.
Ấn là những cách
thế, xếp đặt thân thể (nhất là 5 ngón tay tượng trưng cho 5 đại) để có
được một sự điều hòa đem lại một trạng thái tâm thức nào đó. Các hóa
thần ôm ấp nhau thường thấy ở các hình ảnh Kim cương thừa cũng là một
loại ấn (karma mudra). Ở đây chẳng có gì là dục tính. Sự ôm ấp âm dương
ấy là sự kết hợp của phương tiện "dương" và trí tuệ "âm", sự kết hợp của
Ðại lạc "dương" và tánh Không "âm". Sự kết hợp khách quan ấy còn phản
ánh vào trong chính thân tâm của con người: khi quán tưởng các hình ảnh
kết hợp âm dương ấy, những năng lực âm dương, bên tả và bên hữu trong
thân thể sẽ kết hợp với nhau, tạo thành một sự bùng nổ năng lực rất cao.
* Mạn đà la (mandala):
là một hình vẽ biểu thị vũ trụ, vũ trụ trong cái nhìn của một bậc giác
ngộ. Theo Duy thức, vũ trụ chính là sự biến hiện của tâm ta, cho nên mạn
đà la vừa biểu thị vũ trụ, vừa biểu thị tâm ta. Quán tưởng mạn đà la là
quán tưởng vũ trụ, đồng thời quán tưởng tâm mình. Sự quán tưởng đó dựa
trên tánh Không, nên vũ trụ vốn Không mà tâm ta cũng vốn không. Ở đây,
chúng ta thấy Thiền tông cũng diễn tả về tâm và vũ trụ tương tự như vậy;
tâm mở ra thì đầy khắp pháp giới, quy về thì nhỏ thành một điểm không
thể thấy. Quán tưởng mạn đà la cũng bắt đầu từ một điểm trung tâm; từ đó
nới rộng ra đến ngoại biên. Quán tưởng Kim cương thừa thường bắt đầu từ
một chủng tử (bija) ở trung tâm lực trái tim, phóng ánh sáng đến tất cả
chúng sanh và chư Phật trong mười phương thế giới, rồi ánh sáng và thế
giới đó lại thu về trong chủng tử tự; sau cùng, cả chủng tử tự này cũng
tan biến vào tánh Không bổn nhiên.
Mạn đà la là một đồ
hình vũ trụ thu nhỏ. Theo lý thuyết cắt phần đồ hình khoa học hiện nay,
nếu cắt một phần của tấm ảnh, một phần đồ hình biểu lộ toàn thể tấm
ảnh. Mạn đà la là hình ảnh thu nhỏ của
vũ-trụ-trong-bản-chất-giác-ngộ-của-nó, nên năng lực của
vũ-trụ-trong-bản-chất-giác-ngộ đó cũng biểu hiện nơi mạn đà la. Cũng như
một tượng Phật, tuy không phải là chính Ðức Phật, nhưng nó cũng mang
một năng lực nào đó của giác ngộ. Bởi thế, trong những lễ quán đảnh, đệ
tử nhập môn được đưa vào chiêm ngưỡng mạn đà la, để tiếp xúc với năng
lực giác ngộ. Mạn đà la Kalachakra được đặt vĩnh viễn ở Bảo tàng New
York, theo cảm tưởng của khách đến tham quan, cho một cảm giác an bình
kỳ lạ (The wheel of time).
* Hóa thần (yidam, tiếng Anh: deity):
Nói là thần theo lối nói bình dân, thật ra hóa thần là hóa thân của một
vị Phật trong Kim cương thừa. Ví dụ Ðức Quán Thế Âm có nhiều hóa thân:
Tara, Quán Âm 11 mặt... Kinh nói đến 32 tướng thân (Hóa thân) của Quán
Thế Âm. Như thế, khi quán tưởng hóa thần tức là quán tưởng Hóa thân của
một vị Phật. Cũng như nhìn thấy hình tướng của người nào, ta cảm thông
với tâm người đó; nghe tiếng nói ai đó bên kia vách, ta cảm nhận được
phần nào tâm người đó; khi quán tưởng hóa thần, chúng ta cũng tương ưng
với tâm giải thoát của chư Phật. Khi trì thần chú, tức âm thanh của vị
ấy, ta tiến gần đến "khẩu", "ngữ" của bậc giải thoát ấy. Những hóa thần
có loại hiền lành, có loại dữ tợn để đối trị với tâm bệnh của hành giả.
Qua vài điểm trên
với lời giải thích sơ sài, chúng ta thấy Kim cương thừa là sự thực hành
của Ðại thừa với nhiều phương tiện, nhưng mục đích đều là đạt đến thực
tại rốt ráo như Ðại thừa. Có điều Kim cương thừa nhấn mạnh đến năng lực,
như khi Thiền tông biểu thị thực tại rốt ráo - tức là tánh Không - thì
vẽ một vòng tròn trắng. Kim cương thừa cũng đồng ý với vòng tròn trắng
đó, nhưng với Kim cương thừa thì vòng tròn trắng Không ấy chứa đầy năng
lực. Chú ý đến phương diện năng lực của thực tại là một điểm rất đặc thù
của Kim cương thừa. Vũ trụ là năng lực, như thế giới Hoa Nghiêm là sự
giao thoa trùng trùng của ánh sáng và năng lực, như năng lực vũ trụ được
gọi là Phật lực trong phẩm Như Lai thần lực của kinh Pháp Hoa. Bởi thế,
những phương tiện thiện xảo của Kim cương thừa phần nhiều chú trọng đến
năng lực, nhưng trong một hình thức cụ thể, do đó dễ thực hành và có
nhiều hiệu quả.
3- Những đặc điểm của Kim cương thừa
Trong lời giới thiệu cuốn The practice of Kalachakra,
Ðức Ðạt lai Lạt ma viết: "Tu hành tantra mạnh mẽ hơn sự tu hành tổng
quát của kinh điển, vì một số lý do. Một trong số đó là tantra bao gồm
cả hai yếu tố "phương tiện" và "trí tuệ". Trong con đường kinh điển,
người ta thiền định về tánh Không, hay là tính cách và tự tánh của các
hiện tượng trong ước nguyện đạt đến giác ngộ vì động lực đại bi. Thiền
định về tánh Không là yếu tố trí tuệ, còn nguyện vọng Bồ tát là phương
tiện. Tuy nhiên, trong con đường Kinh thừa này, hai yếu tố ấy không thể
thực hiện đồng thời trong một tâm niệm bởi một hành giả ở mức độ bình
thường. Trong con đường Mật thừa (Tantra), người ta quán tưởng mạn đà la
và các hóa thần bổn tôn, và rồi tập trung vào tánh Không của chúng.
Theo con đường này, phương tiện và trí tuệ sanh khởi đồng thời trong một
tâm.
Trong Phật tánh,
phương tiện và trí tuệ, thân và tâm, là một vị. Con đường tantra dùng
động lực này ngay từ khởi điểm, và như thế làm phát sinh giác ngộ rất
nhanh chóng. Tính cách đặc biệt của con đường tantra là nó đem một
phương diện quan trọng của kết quả do thực hành - tính toàn diện của
Phật tánh - vào trong cơ cấu của sự tu hành ngay lúc khởi đầu. Thiền
định được tiến hành với trí tuệ soi thấu tánh Không, và chính cái tâm
thức tập trung vào tánh Không này được phát sinh trong hình tướng của
các hóa thần thủ hộ của mạn đà la. Ðây là đặc trưng của tất cả bốn loại
tantra. Trong yoga tantra tối cao, nguyên lý này được vận dụng hơn nữa,
hành giả sử dụng những mức độ vi tế nhất của những năng lực thân thể và
của tâm thức, những mức độ mà người không tu hành không thể thâm nhập.
Ở đây, tịnh quang
được dùng như nguyên nhân chất thể đặc biệt của Pháp thân Phật. Qua việc
đem tịnh quang vào con đường tu hành, giác ngộ tức thời trở nên có thể.
Kỹ thuật tối tinh tế này chỉ được tìm thấy trong yoga tantra tối cao".
Kim cương thừa sử
dụng tất cả những gì mà con người có thể có được trong thân tâm mình để
tiến bộ trên đường giải thoát. Bởi thế, có một câu nói nổi tiếng rằng:
"Con người đã ngã té trên đất, hắn phải nhờ chính mặt đất để đứng dậy".
Sự nhấn mạnh vào phương tiện, phương pháp, kỹ thuật là một đặc điểm của
Kim cương thừa.
Những phương tiện
đó với người không theo Kim cương thừa đôi khi có vẻ kỳ lạ, ví như quán
tưởng mình là một vị hóa thần (deity) và thế giới chung quanh là một mạn
đà la của hóa thần ấy. Thật ra, sự quán tưởng ấy có tác dụng rất mạnh
để phá chấp ngã và chấp pháp: không có ngã, không có pháp là cốt tủy của
Ðại thừa. Khi quán tưởng tự thân là hóa thần, có được sự kiêu hãnh kim
cương (vajra pride), cái ngã sẽ tan biến vào chính tánh Không của hóa
thần; và khi thấy thế giới bên ngoài là một mạn đà la, sự phân biệt
ta-người, xấu-tốt, dơ-sạch, tăng-giảm... sẽ biến mất. Ðây là sự phá hủy
các hình tướng thế tục, sự xuất hiện của thế gian do vọng tưởng kết
thành - là những thứ mà kinh Kim Cương gọi là "phi tướng" trong câu
kinh: "Kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai". Và vì là quán tưởng
cho nên cả hóa-thần-ta và mạn-đà-la-thế-giới đều là tánh Không, như mộng
huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển... Dĩ nhiên, đây chỉ là một công
dụng của việc quán tưởng hóa thần và mạn đà la, còn nhiều công dụng
không thể nói hết đối với con đường Phật pháp. Và vì nhiều công dụng
không thể nói trọn, nên Kim cương thừa được gọi là Mật.
Một phương tiện
khác là nguyên lý tâm-khí bất nhị. Theo quan niệm này, một loại tâm bao
giờ cũng cưỡi trên một loại khí nào đó. Tâm sân thì cưỡi trên khí sân.
Khí là thân vi tế của tâm. Không có khí, tâm sẽ không có hình tướng, sẽ
không hiện hành. Khi trong ta không có khí sân, tâm sân sẽ không có chỗ
hiện hữu; dầu có muốn tưởng đến sân, nó cũng không hiện hành. Bởi thế,
khác với các tông khác nhằm tịnh hóa tâm thức, Kim cương thừa còn nhằm
đến sự tịnh hóa cái khí (winds). Một trong những công dụng của thần chú
là: vì thần chú là một rung động đặc biệt và vi tế, nên nó là một phương
tiện để tịnh hóa cái khí này, tịnh hóa khí cũng là tịnh hóa nghiệp, vì
chủng tử nghiệp có "nhà ở" trong khí. Khí được tịnh hóa thì tâm cũng
được tịnh hóa. Khí được tịnh hóa cùng cực thì tâm giải thoát. Khí là
thân thể vi tế của chúng ta. Khí cùng với những hạt (drops) vi tế trong
thân và hệ thống kinh mạch (channels) tạo thành thân thể vi tế (như có
thân của giấc mộng, thân sau khi chết - thân trung ấm...). Thân vi tế
này được tịnh hóa thì gọi là thân kim cương. Ở những chỗ kinh mạch đan
nhau, thắt gút với nhau trên đường kinh mạch trung ương (central
channel), gọi là các trung tâm lực hay luân xa (chakra). Cũng chính
trong khí này và trong những luân xa mà nghiệp trú ngụ, gọi là khí
nghiệp (karam winds). Tịnh hóa thân trong Kim cương thừa chính là tịnh
hóa khí nghiệp này để xóa tan những ngăn che với ánh sáng của tánh Giác.
Thân thể vi tế bằng
khí đó khi được tịnh hóa cùng cực sẽ thành thân huyễn (illusory body),
thân trống không (empty body), thân kim cương và cuối cùng là Sắc thân
(Rupa-kaya) hay Hóa thân của một vị Phật. Trong Kim cương thừa, khí là
phương tiện ám chỉ illusory body, đây là cái mà các father tantra (như
Guhyasamaja, Yamantaka...) thiên về. Còn tâm là "trí tuệ" ám chỉ clear
light, đây là cái mà các mother tantra (như Kalachakra, Heruba...) thiên
về. Trong các tantra tối cao, chính cái thân cùng cực vi tế và trong
sạch này (illusory body) sẽ kết hợp với tâm tịnh quang để tựu thành giác
ngộ; lúc ấy, thân này là Hóa thân của một vị Phật và tâm tịnh quang là
Pháp thân. Danh từ chuyên môn gọi điều này là sự kết hợp không còn học
hỏi nữa. Với Kim cương thừa, sự việc đó được diễn tả trong các hình vẽ
bằng một vị hóa thần ôm người nữ của mình, tức là thân vi tế cùng cực
sạch hết nghiệp kết hợp với tâm vi tế cùng cực, thân kim cương kết hợp
với ánh sáng trí tuệ kim cương, xóa tan mọi che chướng đạt đến toàn
giác.
Một trong những
phân biệt khác của Kim cương thừa và Kinh thừa là theo quan niệm của Kim
cương thừa, Kinh thừa là thừa nhân (cause vehicle) và Kim cương thừa là
thừa quả (effect vehicle). Gọi Ðại thừa hiển giáo là thừa Nhân, vì sự
tu hành của nó y cứ trên những nhân là sáu Ba la mật, hai thứ tích tập
phước đức và trí tuệ... trải qua nhiều đời để thành tựu quả là Phật. Còn
Kim cương thừa là thừa Quả, nghĩa là Kim cương thừa đặt nền tảng tu
hành trên chính cái quả là Phật tánh vốn có nơi mỗi hành giả ngay tự
bước khởi đầu. Thay vì con người là một vị Phật sẽ thành, thì ở đây
người ấy vốn có Phật tánh, vốn tự là Phật; sự tu hành, tiến bộ chỉ là sự
hiển lộ của Phật tánh sẵn có thôi. Sống ở trên Quả có nghĩa là một hành
giả Kim cương thừa phải thấy thế giới này như thế giới của một vị Phật
đã chứng, một Tịnh độ của Phật, phải thấy mình là một Hóa thân Phật, ăn
uống, ngủ nghỉ đều là sự sinh hoạt của một vị Phật trong cảnh giới tự
chứng của mình. Nói theo ngài Tangtong Gyalso (thế kỷ 14) khi dạy về
pháp Quán Thế Âm: "Hành giả quán thấy toàn thể ngoại cảnh đều được quang
minh chiếu soi. Tất cả những sự vật bình thường đều trở thành những vật
phẩm trang nghiêm của cõi Tịnh độ Cực lạc, tất cả chúng sanh đều thành
tựu viên mãn, thân họ là thân Quán Thế Âm, bất cứ họ nói gì đều là Lục
tự chân ngôn, bất cứ họ nghĩ gì đều là hoạt dụng tự phát của tâm giác
ngộ. Hiển nhiên, bản thân hành giả cũng được chuyển hóa như vậy. Nói một
cách dễ hiểu hơn, tất cả những hiện tượng trong vũ trụ đều chuyển hóa
thành những hình thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi cảnh giới của một
vị Phật giác ngộ".
Một đặc điểm nữa
của Kim cương thừa là biến tất cả mọi sinh hoạt đời sống thành sự tu
hành, thành con đường giác ngộ, lợi dụng tất cả cơ hội của đời sống để
đạt đến Phật tánh; ví dụ lợi dụng giấc ngủ để thành tựu clear light của giấc ngủ, lợi dụng giấc mơ để thành tựu illusory body, lợi dụng cái chết để đạt đến clear light
của cái chết... Có chín cách đưa những trạng thái của đời sống vào sự
thực hiện Pháp thân, Báo thân, Hóa thân như vậy: hội nhập với Pháp thân,
Báo thân, Hóa thân trong trạng thái thức; hòa nhập với Pháp thân, Báo
thân, Hóa thân trong trạng thái ngủ; hòa nhập với Pháp thân, Báo thân,
Hóa thân trong trạng thái chết (Clear Light of Bliss, Geshe Kelsang Gyalso).
Cuộc sống sau lúc
ngồi thiền cũng là một sự tu hành. Tsongkapa nói: "Khi đã thấy Lạc và
tánh Không trong thiền định, thì trong đời sống sau thiền định, hành giả
phải thấy sắc, thanh... là sự kết hợp giữa Lạc và Không, do đó suốt đời
sống hàng ngày là một "xuất thần" liên tục (Six Yogas of Naropa).
Một đặc điểm của
Kim cương thừa là sự tích tập phước đức nhanh hơn so với Ðại thừa thông
thường. Như chúng ta đã biết, Phật là bậc Lưỡng Túc Tôn, hai thứ tích
lũy trí tuệ và phước đức đã trọn vẹn. Quá trình tích lũy phước đức đã
đầy đủ rồi, thì có được Sắc thân Phật với 32 tướng chánh và những tướng
phụ. Ðây là một quá trình mà theo Kinh thừa phải tu tập lâu dài nhiều
kiếp. Với Kim cương thừa, sự tích lũy phước đức này có thể rút ngắn lại
trong một đời bằng sự quán tưởng hóa thần (và những quán tưởng khác). Sự
thiền định này tạo ra một tương tự về Sắc thân, nơi cư trú, tài nguyên
và hoạt động của một vị Phật.
Một đặc điểm nữa
của Kim cương thừa là việc chuyển hóa các phiền não tiêu cực (tham, sân,
si...) thành Bồ đề. Ðây cũng là một chủ đề của Kinh thừa, nhưng ở Kinh
thừa có tính cách lý thuyết hơn, như nói: Phiền não tức Bồ đề, tánh của
tham sân si là Bồ đề... Chúng ta hãy xem một đoạn rút ngắn lời dạy của
Padmasambhava về sự chuyển hóa sợ hãi bằng những chủ đề của Ðại thừa
thông thường như tánh Không, như huyễn, bất nhị...
"Ðể cắt đứt sự chấp
ngã và tin vào ma quỷ, hãy đến một nơi dễ sợ nhất cắm trại. Hãy bắt đầu
với việc quy y Tam bảo, phát triển Bồ đề tâm và cầu xin bổn sư. Rồi sau
một hồi lâu quán tưởng Từ bi và Bồ đề tâm đối với tất cả chúng sanh
nhiều như hư không, mà trước hết là với ma quỷ của vùng ấy...
Thứ hai, để cắt đứt
sự chấp ngã, hãy nhận biết rằng mọi đối tượng là không thực. Khi nhận
ra mọi đối tượng là không thực, mọi ý niệm đều là vọng tưởng, mọi sự đều
trống không, và cái thấy biết của con bấy giờ cũng như một giấc mộng,
hay một ảo giác huyễn hóa, lúc ấy hãy đi ngủ trong một trạng thái Không -
vô quái ngại, trong đó rốt ráo không có gì hiện hữu...
Thứ ba, để cắt đứt,
hãy hiểu tánh bất nhị nhờ vào cái thấy vững chắc của giai đoạn thành
tựu. Dùng sự sợ hãi, sự tin vào ma quỷ để nâng cao tính chất bất nhị. An
trụ thư thả trong trạng thái bất nhị, trong đó thân và tâm là không
hai, bạn và thù là không hai, chư Thiên và ma quỷ là không hai. Tóm lại,
an trụ trong trạng thái nơi đó không có bất kỳ hiện tượng nhị nguyên
nào. Nếu ma quỷ thực sự xuất hiện, hãy nhảy vào lòng ma quỷ và con sẽ đi
xuyên qua nó không chướng ngại trong tánh Không bất nhị và không nền
tảng. Cuối cùng, ma quỷ không có một thực thể nào.
Kết quả là, khi con
hiện hữu thì các ma quỷ còn hiện hữu; khi con bình an thì các ma quỷ
bình an; khi con giải thoát thì các ma quỷ được giải thoát; khi con được
thuần hóa, các ma quỷ cũng được thuần hóa. Ma quỷ là ma quỷ của chính
con, và cắt đứt nó làm cho con an bình. Thế nên, chính là một sự nâng
cao, làm mạnh thêm trí huệ khi giáp mặt với một nơi chốn đáng sợ hơn là
thiền định trong ba năm" (Advice from Lotus, Born).
Cuối cùng, trong
Kim cương thừa cũng có những phương pháp chỉ dạy trực tiếp như Thiền
tông với "bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật". Ðó là Ðại Ấn (Mahamudra) của phái Kargyu và Ðại
Toàn Thiện (Maha-Ati) của phái Nyingma. Ðại Êẽn chính là tánh Không.
Trong kinh Ðịnh Vương (King of Concentration Sutra), Ðức Phật nói: "Tánh
của tất cả các pháp là Ðại Ấn". Dùng ấn tánh Không này ấn tất cả các
pháp, kể cả tâm thức và tư tưởng, đưa tất cả trở về tánh Không để giải
thoát".
Mức độ cao nhất của
Ðại Ấn là chỉ thẳng thực tại. Shamar Rinpoche nói: "Loại Mahamudra thứ
ba, Mahamudra cốt lõi thì không có gì chung với hai loại trước. Trong
cách tiếp cận của Trung quán, sự tham cứu mãnh liệt thiết lập một niềm
tin vững chắc trong tâm hành giả, dẫn người ấy thấu hiểu Ðại Ấn. Trong
Mahamudra Mật thừa, anh ta dựa vào thiền định về hóa thần và cách thực
hành Yoga. Nhưng ở đây không cần đến những việc đó.
Vị thầy đã giác ngộ
và học trò sẵn sàng được giác ngộ. Nó là sự nhận biết trực tiếp về tâm
bởi tâm, trực tiếp thiền định về Quả hơn là trải qua nhiều bước. Ðệ tử
có thể nhận ra tâm mình và những biểu lộ của nó mà không dựa vào bất cứ
phương pháp nào ở trên, đơn giản vì có người chỉ thẳng nó ra cho y; lúc
đó, trí tuệ thông tỏ của y nhận ra cái y được chỉ cho. Với một số người,
sự nhận ra ấy là tức thời. Ðây là phương pháp rất sâu xa, cao hơn hết
mọi thứ, được Saraha, Tilopa và Milarepa truyền thụ" (The Change of Expression).
Còn Ðại Toàn Thiện
có nghĩa là Phật tánh vốn sẵn đủ, vốn tự toàn thiện ở mỗi chúng ta,
không cần chỉnh trị, sửa sang thêm bớt, không phải tu tập, chỉ cần thấy
nó (kiến), tham thiền về nó (thiền định) và sống với nó (hạnh). Chúng ta
thấy lời dạy của Padmasambhava cho đệ tử không khác gì "tức tâm tức
Phật" của Mã Tổ:
Hãy nghe đây, Dorje Dudjom họ Nanam!
Cái có tên là "tâm sáng tỏ của giác ngộ"
Là vốn sẵn bên trong, bổn nhiên tự hữu và không có trung tâm, cũng chẳng có chu vi
Chớ sửa chữa, chỉnh trị nó, mà ở trong trạng thái tự thông tỏ và trống sáng tự nhiên
Không thay đổi, không làm biến chất, mà an trụ giải thoát trong tánh bổn nhiên!
Ở yên như thế, tâm con người thoát khỏi động niệm
Chính tâm ấy là Phật!
Với Ðại Ấn và Ðại Toàn Thiện, chúng ta có thêm những phương cách để làm phong phú thêm Thiền tông.
Qua vài điểm đại
cương ở trên, chúng ta có thể có một cái nhìn khái quát về Kim cương
thừa và cũng hiểu phần nào tại sao hiện nay Kim cương thừa là tông phái
có ảnh hưởng lớn trong việc thâm nhập của Phật giáo vào Tây phương. Kim
cương thừa cũng là một tông phái ít bị thay đổi so với Phật giáo Ấn Ðộ,
cho nên còn mang những tinh túy của Phật giáo Ấn Ðộ./.
-oOo-