II. Phật giáo từ thời Lý Thánh Tông đến thời Trần Nhân Tông
Phật giáo giai đoạn
từ thời Lý Thánh Tông (ở ngôi 1054-1072) đến thời vua Trần Nhân Tông (ở
ngôi 1279-1293) đã có những bước phát triển hết sức đặc thù, cùng với
việc mở rộng biên giới Tổ quốc về phương nam, Phật giáo giai đoạn này đã
chuyển mình theo một xu thế phát triển mới, xu thế cư sĩ hóa Phật giáo,
chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của một trào lưu nhập thế tích cực của
Phật giáo Việt Nam kể từ Trần Nhân Tông trở đi. Tuy nhiên, trước hết
chúng ta nói sơ lược về sự ra đời dòng thiền thứ ba trong lịch sử Phật
giáo dân tộc, một dòng thiền tuy tồn tại không lâu, chỉ khoảng 150 năm
(1055-1205), nhưng ý nghĩa lịch sử của nó thì không kém phần quan trọng.
1. Sự ra đời của dòng thiền Thảo Ðường đời Lý
Năm 1069, vua Lý
Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, lấy thêm được các châu
Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chính, mở rộng biên cương của Tổ quốc vào tận
huyện Do Linh của tỉnh Quảng Trị ngày nay; và đã bắt về một số tù nhân,
trong đó có ngài Thảo Ðường. Ngài Thảo Ðường người Trung Quốc, rất giỏi
Thiền học. Truyện chép rằng, lúc bị đưa về nước ta, Ngài được bố trí
giúp việc cho một vị Tăng lục. Một hôm, Ngài lén chữa bản Ngữ lục mà vị
Tăng lục đang biên soạn. Vị Tăng lục đó hết sức ngạc nhiên về tài năng
và sự hiểu biết của Ngài, liền mang chuyện này trình lên vua, nhà vua
bèn phong Ngài làm Quốc sư và mời về ở tại chùa Khai Quốc. Và dòng thiền
thứ ba trong lịch sử Phật giáo Việt Nam từ đó ra đời - dòng thiền Thảo
Ðường. Vậy bối cảnh để dòng thiền này thành lập là như thế nào?
Nước ta đến thời Lý
Thánh Tông đã là một quốc gia hùng cường. Cuộc chinh phạt Chiêm Thành
năm 1069 thắng lợi đã tạo cho đất nước một xu thế phát triển mới, xu thế
Nam tiến mạnh mẽ. Với xu thế phát triển đó, Phật giáo cần có những bứt
phá mới để đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Là một nhà lãnh đạo chính
trị đồng thời là một Phật tử, vua Lý Thánh Tông không thể không nhận
thức được việc chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo cho sự phát triển và
việc đào tạo con người, do vậy chính vị vua Phật tử này đã cho xây dựng
Văn miếu năm 1070 và sáu năm sau đó, tức năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho
thành lập Quốc tử giám, một ngôi trường đại học đầu tiên trong lịch sử
giáo dục Việt Nam. Và với mục tiêu xây dựng đất nước, vị vua Phật tử này
đã không ngần ngại trong việc đưa tư tưởng Nho giáo vào để bổ sung cho ý
đồ giáo dục của mình. Chính sự xuất hiện của hệ thống trường học và
đường lối giáo dục như vậy đã chứng tỏ nền giáo dục Phật giáo đến giai
đoạn này đã được hợp thức hóa, và có một sự chuyển biến hết sức căn bản
từ một nền giáo dục tự phát tại các chùa thành nền giáo dục chính quy do
nhà nước thành lập. Trong tình hình đó, Phật giáo cần có những đổi thay
để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, và dòng thiền Thảo Ðường ra đời
với sự xuất hiện của các thế hệ truyền thừa chính thức không phải là
giới xuất gia như trước mà đa phần là cư sĩ, đấy là một đặc điểm nổi bật
của Phật giáo trong tình hình phát triển mới của dân tộc. Bởi lẽ, Phật
giáo nếu thực sự đi vào đời thì không chỉ giới hạn trong giới Tăng sĩ,
mà cần phải phổ biến trong giới tại gia cư sĩ; đồng thời, để cho Phật
giáo được phát triển thì ngoài thành phần cốt tủy là Tăng già, cần phải
có một sự ngoại hộ vững chắc. Lực lượng đó không thể ai khác ngoài giới
tại gia, những người sống trong đời thường mà thực hành Phật pháp, vẫn
tham gia vào mọi hoạt động xã hội để xây dựng đất nước, ngay cả vai trò
của người lãnh đạo cao nhất, mà vẫn có thể là một thiền sư, chẳng hạn
như các hoàng đế Lý Thánh Tông (thế hệ thứ nhất), Lý Anh Tông (thế hệ
thứ ba), v.v...
Theo Thiền uyển tập anh,
không tính sáng tổ là ngài Thảo Ðường, dòng thiền Thảo Ðường truyền
thừa được 5 thế hệ, từ vua Lý Thánh Tông đến Phụng Ngự Phạm Ðẳng thì
thất truyền. Về tư tưởng Thiền thì không thấy gì đặc sắc, nhưng điểm nổi
bật của dòng thiền này là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam, vai trò của giới cư sĩ được khẳng định một cách chính thức, phù hợp
với yêu cầu phát triển mới của dân tộc, của việc đưa đạo vào đời, nhằm
định hướng cho đời sống tâm linh, văn hóa của dân tộc. Chủ trương này
được phát triển mạnh mẽ vào đời Trần, với đỉnh cao là tư tưởng "cư trần
lạc đạo" của nhà vua-thiền sư Trần Nhân Tông.
2. Vài nét về tình hình Phật giáo
Trong giai đoạn
này, các dòng thiền ra đời trước đó vẫn tồn tại. Tuy có sự hiện diện của
ba dòng thiền, nhưng về cơ bản, nền tảng tư tưởng của chúng không có gì
khác xa nhau, mà chỉ bổ sung và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Ðặc điểm
nổi bật là sự có mặt chính thức của giới cư sĩ trong dòng thiền Thảo
Ðường, phù hợp với xu thế Nam tiến của dân tộc, vì yêu cầu về con người
cho các vùng đất mới. Nó cũng đã ảnh hưởng đến các dòng thiền khác. Ðiều
đáng chú ý là nhà vua-thiền sư Lý Thánh Tông trong thời đại của mình đã
làm được hai việc quan trọng: một là dựng Văn miếu, và hai là thành lập
dòng thiền cư sĩ, tuy không thấy một tác phẩm nào hiện có của Ngài lý
giải về hai sự kiện trên, và mãi đến thời Trần Thái Tông, qua các tác
phẩm của Ngài, những việc làm này mới được lý giải một cách rõ ràng.
Trong Thiền tông chỉ nam tự, Ngài cho biết chủ trương lập Văn
miếu là để dùng Nho làm công cụ truyền bá cho Phật giáo (27), và cư sĩ
hóa với những lý giải bằng thuyết "cư trần lạc đạo".
Với sự mở mang biên
cương của Tổ quốc về phương Nam, và với yêu cầu cấp thiết đào tạo nhân
tài cho đất nước một cách chính quy, nhà lãnh đạo Phật tử-hoàng đế Lý
Nhân Tông đã lập Văn miếu, chủ trương đưa Phật giáo vào đời sống hằng
ngày, vào tận từng đơn vị gia đình với hình thức thiền sư- cư sĩ, đồng
thời tạo lập một thế lực vững mạnh hộ trì Phật giáo, làm cho Phật giáo
phát triển sâu rộng trong xã hội. Xu hướng này là một tiền đề cho sự
xuất hiện của các thiền sư-nhà tư tưởng lớn của dân tộc như Tuệ Trung
Thượng sĩ, Trần Thái Tông, v.v... sau này.
Biến cố chính trị
năm 1226 đã chấm dứt một thời kỳ rối ren cuối nhà Lý và cáo chung luôn
cả triều đại này, Trần Cảnh (1218-1277) được đưa lên nắm chính quyền,
lấy hiệu là Thái Tông, mở ra một triều đại mới là nhà Trần. Tuy nhiên,
sự thay đổi đó không ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của dân tộc,
mà về cơ bản, đặc biệt là Phật giáo, vẫn tiếp tục phát triển với nền
tảng của thời đại trước cho đến thời vua Trần Nhân Tông mới thực sự
chuyển biến một cách rõ rệt. Triều đại nhà Trần là một triều đại Phật
giáo, với nhiều chiến công hiển hách, ba lần đánh tan quân xâm lược
Nguyên-Mông, và đạt được những thành tựu rực rỡ trong công cuộc xây dựng
đất nước./.
* Chú thích:
(1) Xem Quỳnh Cư-Ðỗ Ðức Hùng, Các triều đại Việt Nam, nxb. Thanh Niên, 1995, phần nói về Lý Nam Ðế.
(2) Do ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang nước ta và ở tại chùa Pháp Vân, nên dòng thiền này cũng còn được gọi là dòng thiền Pháp Vân.
(3) Không phải là Kiến Nghiệp, kinh đô của nhà Ngô xưa (222-280) như một số người lầm tưởng, theo học giả Lê Mạnh Thát (trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh),
"đất Nghiệp" ở đây là kinh đô của nhà Bắc Tề, nơi có núi Tư Không mà
ngài Tăng Xán từng lánh nạn (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
(4) Gọi đủ là Phật thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh. Theo tác giả của Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh
Lê Mạnh Thát, thì bản dịch hiện mang số 80 trong Ðại tạng kinh có thể
không phải là bản mà ngài tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch như tiểu sử về Ngài
trong Thiền uyển tập anh đã kể. Phải chăng bản dịch của Ngài đã
mất và chắc chắn nôi dung không phải thuộc loại kinh này, bởi nghiên cứu
về học lý của Ngài qua hai bản dịch đã kể không có điểm tương thích mà
học lý của bản dịch ngày nay thể hiện. Xem chú thích 9, sđd, trang 498.
(5) Tức chùa Diên ứng, còn gọi là chùa Dâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(6) Gọi đầy đủ là Ðại phương quảng tổng trì kinh.
(7) 1.Quán nội giới
của thân là không, 2. Quán ngoại giới của thân là không, 3. Quán các
pháp trong và ngoài đều không, 4. Không bị chấp trước vào Nhất thiết
trí, 5. Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành, 6. Không bị
chấp trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền thánh, 7. Không bị
chấp trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự hành đạo lâu ngày, 8. An trú
ở Trí tuệ Ba la mật, 9. Không bị chấp trước vào công việc giảng luận
giáo hóa, và 10. Quán sát chúng sinh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.
(8) Tiểu truyện Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Thiền uyển tập anh.
(9) Cũng có người gọi Ngài là Bất Ngữ Thông.
(10) Thuộc làng Phù Ðổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
(11) Phiên âm Hán -Việt nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp
Giai tùng tâm sinh
Tâm vô sở sinh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở tác vô ngại
Phi ngộ thượng căn
Thận vật khinh hứa.
(12) Nguyên văn
phiên âm chữ Hán: " Tây thiên thử độ/ Thử độ Tây Thiên". Tây Thiên ở đây
có thể hiểu 2 nghĩa, một là chỉ cho Ấn Ðộ, nơi xuất phát của Thiền
tông,; và hai là chỉ cho cõi Phật. Xem toàn văn bài kệ trong Thiền uyển tập anh.
(13) Thái sư là
chức danh của triều đình như Tể tướng, Khuông Việt là tước hiệu của vua
Ðinh Tiên Hoàng tặng, nghĩa là vị Thái sư khuông phò nước Việt.
(14) Một trong
những dấu vết hiếm hoi còn lại của thời kỳ lịch sử này là chiếc chuông
Thanh Mai, niên đại 798, được phát hiện tháng 4/1986 tại tỉnh Hà Sơn
Bình, có khắc tên những người đứng cúng đúc chuông, trong đó có tướng
của triều đại Phùng Hưng là Ðỗ Anh Hàn với đầy đủ tước hiệu. Xem Ðinh
Khắc Thuân-Hoàng Ngọc, Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ VIII, tạp chí Hán-Nôm số 1+2/1987.
(15) Tiểu sử của các vị danh tăng Việt Nam được ngài Nghĩa Tịnh (682-727) ghi lại trong sách Ðại Ðường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện.
(16) Có tên chữ Phạn là Mahayanapradìpa.
(17) Nguyên văn phiên âm Hán-Việt:
Ta hỷ Tử vương
Kỳ cực di cường
Truyền đăng chi sĩ
Yến dĩ vân vong
Thần châu vọng đọan
Thánh cảnh hồn dương
Quyến dư trường nhi lưu thế
Khoái bố tố nhi tình thương.
(18) Có nơi gọi là Phụng Ðình, đó là một nhầm lẫn.
(19) Về các bài thơ, xem Lê Mạnh Thát, Về mấy bài Ðường thi liên quan đến Phật giáo Việt Nam, Tập văn Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, số 46-2000.
(20) Ngài Ðịnh
Không họ Nguyễn, mấy đời vọng tộc, am tường thế số, hành động đúng pháp
tắc,được mọi người kính trọng. Chuyện chép rằng, khoảng năm Ðường Trinh
Nguyên (785-804), Ngài lập chùa Quỳnh Lâm tại quê mình, trong lúc đào
đất đắp nền thì phát hiện có 1 cái lư hương và 10 cái khánh, Ngài cho
người đem xuống bến sông để rửa và không biết tại sao 1 cái bị chìm
xuống đáy sông. Nhân đó Ngài đổi tên cho làng từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp
(theo kiểu chiết tự của chữ Hán) và nói những lời sấm tiên đoán rằng tại
làng này sẽ có người họ Lý làm vua làm cho Tam bảo hưng thịnh (Xem thêm
tiểu truyện Thiền sư Ðịnh Không).
(21) Tiểu truyện Thiền sư Pháp Thuận, Thiền uyển tập anh.
(22) Sách Thiền uyển tập anh,
tiểu truyện Thiền sư Pháp Thuận chép: "Ðang lúc nhà (Tiền) Lê mới dựng
nghiệp, trù kế hoạch sách lược, sư tham gia đắc lực. Ðến khi thiên hạ
thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính
trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo
văn thư giao phó cho sư". Ðáng tiếc là những tác phẩm của Ngài nay còn
không nhiều, hầu hết đã bị thất lạc. Gần đây, trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh,
học giả Lê Mạnh Thát đã rà soát trong các thư tịch cổ Trung Quốc (Toàn
thư và Tống hội yếu), đã phát hiện một lá thư do Ngài chấp bút.
(23) Thiền uyển tập anh chép (phiên âm Hán-Việt nguyên văn):
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
(Nhân) tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch nghĩa:
Trời lành gió thuận, gấm buồm trương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình day dứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vị Nam bang
Phân minh tấu Thượng hoàng.
(24) Phát hiện năm
1963 tại xã Gia Trường, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Xem Hà Văn Tấn,
Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư, in trong Theo dấu các văn hóa cổ, nxb. KHXH, 1998.
(25) Tiểu truyện Ðại sư Khuông Việt.
(26) Nguyên văn phiên âm Hán-Việt:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
(27) "Ngã Phật chi giáo hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế giả". Xem Thơ văn Lý-Trần, tập II, quyển thượng, nxb. KHXH, 1989, trang 26.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Sự ra đời của dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi có ý nghĩa như thế nào trong lịch sử Phật giáo nước ta?
2- Trình bày khái quát các đặc điểm của tình hình Phật giáo trong giai đoạn từ thời vua Lý Nam đế đến thời vua Lý Thánh Tông. |