Phần II - Bài 5
Giới thiệu về Mật Tông (Kim Cương Thừa)
Thích Viên Giác
A- Dẫn nhập
Mật
tông là một trong những tông phái của Phật giáo, xuất phát từ Ấn Ðộ vào
khoảng thế kỷ thứ VII, rồi sau đó được truyền bá sang Trung Hoa, Nhật
Bản... và đặc biệt là phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở Tây Tạng, Mật
tông còn được gọi là Kim cương thừa.
Kim cương thừa được
coi như là con đường thẳng dốc đứng để đi lên đỉnh núi; điều đó vừa nói
lên tính siêu việt, đồng thời cũng nói lên sự khó khăn và nguy hiểm của
con đường, lối tu Mật giáo. Trong các kinh điển Ðại thừa, có nhiều bộ
kinh lồng vào những thần chú, Ðà la ni như là để khai triển ý nghĩa sâu
thẳm của tâm linh quả chứng hay ý lực chư Phật, Bồ tát; có lẽ đây là cơ
sở để Mật giáo phát triển về sau.
Lịch sử phát triển
Mật tông đôi khi đã có những xu hướng lệch lạc ra ngoài quỹ đạo hướng
đến giải thoát theo lý tưởng của đạo Phật. Bởi có sự biểu hiện thiên về
phù phép, tà thuật... làm cho uy tín của Mật giáo bị tổn thương nặng nề.
Ngày nay, với sự nỗ lực truyền bá Mật giáo hay Kim cương thừa của các
bậc đại sư Tây Tạng đã làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của tông phái này.
Kim cương thừa là một con đường giải thoát đặc biệt của Phật giáo Phát
triển.
B- Nội dung
I. Lịch sử Mật tông
Mật giáo được thành lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam Ấn với sự xuất hiện của bộ kinh Ðại Nhật
(Mahàvairocana sùtra). Ðây là bộ kinh căn bản của Mật tông. Ở Ấn Ðộ,
giai đoạn mà Mật giáo phát triển mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương
triều Pàla (750-1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người
đã nhiệt thành ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm truyền
bá Mật giáo.
Ngài Long Thọ
(Nagarjuna, 600-650) được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài thuộc dòng
Bà la môn, thọ giới tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá tu 12 năm đắc thánh
quả Ðại thủ ấn tất địa (Mahamudràsiddhi). Theo truyền thuyết, có lần
Ngài gặp đứa trẻ chăn cừu giúp Ngài qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển
thần thông giúp đứa trẻ làm vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ
quanh đầu. Phật giáo Tây Tạng cho rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ
luận sư (thế kỷ II) là một, tức Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có đệ
tử truyền pháp là Long Trí.
Long Trí
(Nagabodhi) là truyền nhân của ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà la môn,
nhưng lại thường đi ăn trộm, khi ngài Long Thọ đang ở tịnh xá Suvarna,
Long Trí đến rình xem thấy ngài Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng,
bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài Long Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền
ném cái bát cho Ngài. Ngài kinh ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học.
Ngài Long Thọ làm phép quán đỉnh cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu
luyện, Ngài chứng ngộ thánh quả.
Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 663-723) người Nam Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua
Tây Ấn học về Nhân Minh luận với ngài Pháp Xứng, sau đó tham học về
Luật, Trung Quán luận, Du Già luận, Duy Thức luận..., sau cùng tu học và
nghiên cứu Kim Cương Ðỉnh (Vajra-Sekhàra) và các kinh Mật giáo với ngài
Long Trí ở Nam Ấn 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến Lạc Dương
truyền bá Mật giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung
Hoa đồng thời với ngài Thiện Vô Úy.
Bất Không Kim Cương
(Amoghavajra, 750-774) là đệ tử xuất sắc của ngài Kim Cương Trí. Ngài
người Bắc Ấn, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo thầy đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo
giới năm 20 tuổi. Tu học 12 năm thông suốt Mật giáo. Sau khi thầy mất,
Ngài cùng với các đệ tử qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh
du già và Ðại Nhật thai tạng. Trở về Trường An với số kinh điển đồ sộ,
Ngài khởi công dịch thuật. Ngài Bất Không Kim Cương là Quốc sư của ba
triều vua Huyền Tông, Túc Tông và Ðại Tông.
Thiện Vô Úy
(Subhakarasimha, 637-735) là đệ tử của ngài Long Trí, tức là huynh đệ
với ngài Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa, tu học ở tu viện Nalanda,
thâm hiểu Du Già, chân ngôn và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716,
đời vua Huyền Tông, trước ngài Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là
vị Tổ sư của Mật tông Trung Hoa, được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài
dịch nhiều kinh quan trọng của Mật tông như Ðại Nhật kinh, Tô Tất Ðịa Yết La kinh... Ðệ tử của Ngài có các ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm...
Ngài Nhất Hạnh
(638-727) quê quán ở Thuận Ðức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người tinh
thông Tam luận, Thiền học, Thiên Thai..., đặc biệt tinh thông cả thiên
văn học. Khi ngài Thiện Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được truyền pháp "Thai
tạng giới" của Mật giáo. Ngài cùng với thầy dịch kinh Ðại Nhật và trước tác bản sớ Ðại Nhật kinh.
Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được truyền cho nghi quỹ của
Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả hai phái của Mật giáo Ấn Ðộ.
Mật giáo Ấn Ðộ được
khởi xướng và truyền bá do các cao tăng như Long Thọ, Long Trí, Kim
Cương Trí, Thiện Vô Úy. Trên mặt giáo nghĩa và hành trì thì chia làm hai
phái Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa
theo tư tưởng của hai bộ kinh Ðại Nhật và Kim Cương Ðỉnh.
Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở Nhất Hạnh, đường lối Mật tông Trung
Hoa tổng hợp của lý luận và thực tiễn. Mật tông phát triển mạnh và đã
tạo nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, được các triều
vua ủng hộ nên rất hưng thịnh. Công đức truyền bá Mật giáo Trung Hoa do
các ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không, Nhất Hạnh, Vô Hành...
Mật giáo được
truyền vào Tây Tạng thế kỷ VIII do ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava),
người Ấn Ðộ, sống cùng thời với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Ðề Tán
(755-797). Ngài đến Tây Tạng, đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông
phái Ninh Mã (Nuyingmapa), một trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng.
Ngài được coi là Ðức Phật Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ,
thiên tai và các giáo phái. Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm
775 và trước tác nhiều tác phẩm quan trọng như bộ Tử thư... Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
Sự truyền thừa của
Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất phức tạp; những bậc đại sư nổi bật
đóng góp làm hưng thịnh và sáng rỡ Phật giáo Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh
có Atisa (A Ðề Sa, 982-1054), thế kỷ X, Ngài người Ðông Ấn, được mời
sang Tây Tạng và sống ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây
Tạng nói chung và Mật giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường
phái Kadampa (Cam Ðan) ảnh hưởng lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ đề đạo đăng luận,
đặc biệt công trình sắp xếp hệ thống kinh sách Phật giáo Tây Tạng, lấy
triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng,
điều đó ảnh hưởng đến các hệ tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.
Người cải cách nổi
tiếng của Mật giáo Tây Tạng là Tông Khách Ba (1357-1419), Ngài sinh tại
Amdo, thuộc vùng Ðông bắc Tây Tạng. Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với
nhiều vị đại sư khác nhau, tư tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài
sáng lập tông phái Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng
nhất của Tây Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và
tổng kết thành hai tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ)
tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (Chân ngôn đạo
thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập của Mật giáo. Phật giáo Tây Tạng
được chấn chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông Khách Ba. Trước khi mất,
Ngài phó chúc cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức Ðạt lai
Lạt ma và Ban thiền Lạt ma; theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển
sinh để tiếp tục cai trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật
sống. Mật tông được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các
nơi khác không phát triển mấy.
II. Giáo nghĩa Mật tông
1- Mandala:
Xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Ðại Nhật và Kim Cương Ðỉnh, Mật giáo thiết lập hai Mandala: Thai tạng giới Mandala và Kim cương giới Mandala.
Mandala, Hán dịch
là luân viên cụ túc, nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Ðây là biểu tượng của vũ
trụ và năng lực trong vũ trụ được trình bày bằng các hình vẽ. Mandala,
về mặt triết lý, là cơ sở hợp nhất thế giới hiện tượng và thế giới bản
thể, là đối tượng của thiền quán. Trong ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là
đàn tràng bằng đất để hành giả bày biện các lễ vật hay pháp khí phục vụ
cho nghi thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện...
Thai tạng giới
Mandala (Garbhadhàtu mandala) là yếu tố thụ động tâm linh, cũng có nghĩa
chỉ cho vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tánh. Tác dụng lý tánh như thai mẹ
chứa đựng đứa con, từ lý tánh thai tạng mà xuất sinh mọi công đức.
Kim cương giới
Mandala (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ
viên mãn, còn gọi là trí thủy giác. Kim cương giới là trí tuệ nội chứng
của Phật. Bí tạng ký nói: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí".
Như vậy, Thai tạng
giới biểu hiện cho bản thể Phật tính của mọi chúng sanh và Kim cương
giới biểu tượng cho trí tuệ viên mãn. Từ Thai tạng giới mà xuất sinh Kim
cương giới theo tiến trình nhân quả. Sự hợp nhất Kim cương giới và Thai
tạng giới là sự chứng ngộ tối thượng.
Ðức Phật Ðại Nhật
(Tỳ Lô Xá Na) là biểu tượng hợp nhất tối thượng, vũ trụ là sự hợp nhất
viên mãn. Vì vậy, Ðức Ðại Nhật chính là vũ trụ thân. Mật tông dựa trên
cơ sở ấy cho rằng vũ trụ thân là pháp thân và pháp thân biểu hiện trong
mọi hiện hữu, sở dĩ chúng ta không nhận thấy được vì tâm thức mê mờ,
chúng ta chỉ thấy thế giới là bất an và khổ đau vì thiếu trí tuệ Kim
cương; trí tuệ Kim cương có công năng là phá tan mọi chướng ngại pháp.
Con đường trở về hợp nhất với vũ trụ thân, nói cách khác, muốn đi vào
quỹ đạo của pháp thân phải có những tác pháp thiêng liêng, thể hiện sự
gia trì giúp ta thể nhập một cách sâu xa và phổ quát của pháp giới tính.
Lý thuyết này có phần tương tự với lý thuyết Bất tư nghì giải thoát
trong kinh Duy Ma Cật.
Mạn đà la có nhiều loại, tựu trung có 4:
a) Ðại Mạn đà la
(Maha mandala): vòng tròn hội tụ các Ðức Phật và Bồ tát, trình bày bằng
hình vẽ hoặc điêu khắc. Mạn đà la này biểu tượng cho tự thân của Phật và
mối quan hệ giữa tự thân Phật với toàn thể vũ trụ nên gọi là Ðại.
b) Tam muội gia Mạn
đà là (Samaya mandala): vòng tròn hội chúng với những pháp khí trong
tay tùy theo bản nguyện của mỗi vị. Samaya dịch là bổn thệ, tức là xu
hướng và khả năng hóa hiện độ sanh của mỗi vị Phật, Bồ tát.
c) Pháp Mạn đà la
(Dharma mandala): là Mạn đà la của văn tự lý giải chân lý. Tất cả những
lời Phật dạy, những chân ngôn của Phật và Bồ tát đều bao hàm trong đó.
d) Yết ma Mạn đà la
(Karma mandala): là Mạn đà la bằng điêu khắc chạm trổ biểu hiện các
động tác, các hành trạng độ sanh của Phật và Bồ tát.
Tóm lại, Ðại
mandala là tổng thể pháp giới, là tự thân của Phật; pháp môn mà chư
Phật, Bồ tát thuyết gọi là Pháp mandala; vũ khí mà chư tôn cầm trong tay
là Tam muội gia mandala và những hình ảnh của chư tôn gọi là Yết ma
mandala. Bốn mandala này biểu tượng cho năng lực thiêng liêng của Tam
mật: thân mật, khẩu mật và ý mật.
Trên đây là 4
mandala của chư Phật và Bồ tát; ngoài ra, tất cả muôn loài, mọi hiện
tượng đều có 4 mandala của chúng, đại khái sắc tướng của chúng gọi là
Ðại mandala, đặc tính - khả năng riêng của chúng là Tam muội mandala,
danh từ để gọi chúng là Pháp mandala, hành vi của chúng là Yết ma
mandala. Ðiều cần chú ý là 4 mạn đà la không độc lập, chúng có mối liên
hệ duyên sinh và mặc dù Phật, Bồ tát có mạn đà la riêng nhưng không tách
rời mọi mạn đà la của pháp giới. Vì vậy, Phật và chúng sinh là một,
cùng chung thể tánh là sáu đại: Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Sự
khác nhau giữa Phật và chúng sanh ở chỗ Phật thì tỉnh thức mà chúng sanh
thì mê muội.
2- Mantra:
Mantra là một số âm
chứa đựng sức mạnh của vũ trụ hay biểu hiện khía cạnh nào đó của Phật.
Mantra chính là thần chú, được đọc lặp đi lặp lại nhiều lần trong các
buổi tu tập hành trì. Ðịnh nghĩa về thần chú, Lama Govinda nói: "Chữ
"thần" là tinh thần, tức năng lực suy nghiệm; chữ "chú" là lời, là tiếng
dùng làm công cụ biểu diễn. Như vậy, "thần chú" là công cụ để suy
nghiệm, là hiện tướng dẫn khởi một ảnh tượng tinh thần. Thần chú vang
lên kêu gọi nội dung của nó nơi thực tại trước mắt một cách trực tiếp.
Thần chú là năng lực chứ không phải đơn thuần là ý kiến mà tâm trí có
thể tránh trớ hay cãi lại. Thần chú phát lồ, tự thị hiện như thế, như
vậy đó. Chính ở nơi đây chứ không phải bất cứ nơi đâu, lời nói là hành
động mà sự thực hiện thì trực tiếp và tức khắc" (Cơ sở Mật giáo, Trần Ngọc Sinh dịch, tr.14).
Thần chú còn gọi là
đà la ni (Dhàranì), Hán dịch là tổng trì, tức bao gồm tất cả, đó là
những thần chú mang sức mạnh siêu nhiên, thường thì đà la ni dài hơn
thần chú (mantra). Ðà la ni là biểu hiện khía cạnh chứng đắc của Phật
hay Bồ tát được thấy trong thiền định, biểu tượng hay ký hiệu hóa hình
ảnh, nội dung chứng đắc ấy, được lưu trữ và dễ dàng hiện hành khi gọi
chúng trở lại. Chức năng đà la ni không khác với thần chú. Mặt khác, tác
dụng của thần chú hay đà la ni được coi như là phương tiện để đạt được
thiền định.
Một vấn đề cần nói
rõ là hình thức của thần chú hay cách đọc thần chú không phải làm cho ta
thoát khỏi khổ đau hay những nỗi bất hạnh hoặc tiêu trừ được nghiệp
chướng; mà chính là nhờ tâm trong sạch và thành thực mới cứu vớt được
chúng ta, như Ðại sư Milarepa nói: "Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư vị nên biết rằng: nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện tâm" (Sđd).
Sự hành trì và đọc
tụng thần chú là một trong ba khía cạnh thân mật, khẩu mật và ý mật. Ðọc
thần chú là khẩu mật. Thần chú thường được nhiều người Phật tử đọc
nhất, tiêu biểu là thần chú "OM MANI PAD - MEHUM" được coi là của ngài
Quán Thế Âm. Thần chú không phải là một công thức chết, cũng không phải
là những sóng âm thanh tác động vào thế giới siêu hình để kêu gọi năng
lực trong vũ trụ. Thần chú là một công cụ để biểu diễn tinh thần, thái
độ tâm lý, tri thức, ý chí và thành thực mới là những yếu tố quan trọng
để biến thần chú thành năng lực hay mời gọi các năng lực siêu nghiệm
khác. Hơn nữa, thần chú chỉ có thần lực với những ai đã trải qua kinh
nghiệm do thụ pháp và hành trí dưới sự hướng dẫn của một đạo sư (Guru).
Tóm lại, thần chú
(mantra) là một phương tiện trong những phương tiện mà Mật tông thực
hành để thanh lọc tâm linh và đạt được thiền định, sau cùng là hợp nhất
và đồng hóa với vạn hữu. Thần chú được coi là "mật" vì nó chứng tỏ mối
liên hệ mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng, nhất là sự nối kết
giữa vật chất và tinh thần.
3) Tam mật tương ứng:
Như đã nói, Tam mật
là thân mật, khẩu mật và ý mật. Theo Mật tông, để đạt được khả năng
điều động năng lượng vũ trụ hay năng lượng tâm linh thì phải thực hành
nghi thức đúng phép gồm cả ba lãnh vực của thân, khẩu, ý. Thân thể tác
động qua điệu bộ, nhất là của hai bàn tay, được diễn theo lời thần chú
sẽ tạo nên thái độ tâm linh phù hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra
(thần chú), âm thanh biểu tượng, là hiện tượng thiêng liêng làm cho rung
động nội tâm của hành giả. Tâm ý thì quán tưởng mandala, tạo thành một
thể thống nhất để thể nhập Tam mật của Phật.
Tam mật của Như Lai
bản thể bình đẳng, không giới hạn, có mặt khắp pháp giới, hay nói cách
khác: mọi hình sắc đều là thân mật, mọi âm thanh đều là khẩu mật, mọi lý
đều là ý mật. Như đã nói, thân Phật và thân vũ trụ là một nên quan điểm
về thân mật trong Mật giáo lấy tư tưởng trùng trùng duyên khởi của Hoa
Nghiêm làm cơ sở. Sự hiện hữu của thân không đơn giản là một hữu thể độc
lập, mà có các mối quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, hay nói
cách khác là với cái không phải thân. Ðiều kiện mà thên tồn tạo gồm cả
pháp giới, gọi là mọi hình sắc là thân. Tương tự trong Trung Bộ kinh,
Phật dạy quán sắc uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc, thô tế, liệt thắng, xa
gần đều không hiện hữu (vô ngã). Sự mầu nhiệm hay bí mật của thân là
cái mầu nhiệm của thân vô ngã.
Tương tự như thân,
về ngữ mật thì mọi âm thanh đều là ngữ mật. Thế giới mà chúng ta đang
sống là thế giới được biểu hiện bằng ngôn ngữ, mọi thứ đều có tên gọi,
mọi thứ đều được khái niệm hóa qua ký hiệu ngôn ngữ, mọi vật đều được
nhận thức và giải thích qua mẫu tự và văn cú, ngôn ngữ diễn biến linh
động để làm hiển lộ cái mầu nhiệm bên trong, đó chính là sức mạnh của âm
thanh. Mật tông cho rằng thế giới được tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33
phụ âm. Thể nhập thực tại qua ngôn ngữ âm thanh là một phương cách đặc
biệt của Mật tông.
Ý mật là sự cảm
nhận một cách trực tiếp của tâm. Ðó là cái tâm thuần túy, không bị chi
phối bởi các kiến thức, không phải cái tâm suy nghĩa có đối tượng, mà
tâm ấy nguyên vẹn đơn sơ cảm nhận trực tiếp thực tại vô ngã, thực tại vô
ngã ấy được cảm nhận qua nhiều khía cạnh khác nhau. Thế giới tâm là
một, Duy thức học gọi là thế giới tánh cảnh. Tâm nhận thức trực tiếp
những gì đang diễn ra như thường nói: "Ðương thể tức không". Ðó là thực
tại được cảm nhận một cách tích cực.
Thực hành tantra
(nghi thức) là tạo thế cân bằng hòa điệu của thân tâm, rồi tạo mối quan
hệ hay sự nối tiếp thân khẩu ý các vị tương ứng với Tam mật của Phật,
Phật cũng chính là vũ trụ thân. Ðó là sự thể hiện hòa điệu giữa con
người và vũ trụ. Sự gia trì Tam mật của Phật sẽ nhập vào Tam mật của ta.
Ðó gọi là Tam mật tương ưng hay Tam mật du già.
C- Kết luận
Những gì được trình
bày về Mật tông ở trên chỉ là những nét phác họa sơ sài, còn nghĩa lý
bí mật, phương pháp thực hành tantra của Mật tông thì phức tạp vô cùng,
cần phải nghiên cứu sâu rộng và hành trì nghiêm túc may ra mới có cái
nhìn chính xác và đầy đủ.
Triết lý của Mật
tông là triết lý của Bát nhã Ba la mật (Prajnãpàramità) và giáo lý Hoa
Nghiêm cộng với Duy thức học. Sự phối hợp giáo lý siêu nghiệm với hình
thức ấn, chú, mandala... là một sự kết hợp đặc biệt. Vũ trụ, thế giới,
con người, vạn vật... đều mang một giá trị thiêng liêng đối với một hành
giả Mật tông. Nếu nhìn phớt qua các biểu tượng và nghi quỹ của Mật tông
có vẻ như sự thành tín sơ khai hoặc mê tín, nhưng chính thái độ tinh
thần được thể hiện qua nghi quỹ ấy lại là hiển lộ mối liên hệ giữa tinh
thần và vật chất, giữa con người và vũ trụ với những năng lượng vô cùng
tận. Các biểu tượng Mật tông rất dễ bị ngộ nhận và phê phán, tuy nhiên
khi lặn sâu vào biển tâm, ta mới khám phá ra được tác dụng và ý nghĩa
của chúng, chúng là những phương tiện diễn đạt những kinh nghiệm tâm
linh sâu sắc nhất của hành giả.
Triết lý và phương
pháp hành trì của Mật tông cơ bản vẫn xây dựng theo tiến trình
Giới-Ðịnh-Tuệ như tất cả mọi đường lối tu tập khác của Phật giáo. Nó có
mối liên hệ khá chặt chẽ với giáo lý Nguyên thủy và giáo lý Ðại thừa. Sự
khác biệt của Mật tông là ở phương tiện để thể nhập thực tại (Tánh
không, Vô ngã), đó là phương tiện huyền bí.
Sự phát triển của
đạo Phật tạo ra nhiều tông phái khác nhau và các phương pháp hành trì
khác nhau; đã là phương tiện thì "đa môn", cho nên bất cứ phương tiện gì
mà đưa đến niềm tin, loại bỏ chướng ngại nội tâm, giúp cho tâm thực
chứng giải thoát tối hậu thì đều được sử dụng: Mật tông là một trong
những phương tiện ấy./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của Mật tông.
2- Giáo nghĩa cơ bản của Mật tông là gì? |