Phần II - Bài đọc thêm
Giới luật công truyền hay bí truyền?
Thích Phước Sơn
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích,
Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết
Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng hàm thông tại
gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo độc trì, như vương bí tạng phi
ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại
giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận". Dịch
nghĩa: "Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai
tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho
Tỷ kheo gìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được
biết đến. Nếu Sa di, bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn không được thọ
đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải
hết sức cẩn thận".
Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật Sa di: "Bất đắc đạo thính Ðại Sa môn thuyết giới".
Thật ra, câu cảnh
cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi
Tỷ kheo tụng giới; vì nghe lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa
đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng thực thụ nên không được phép tham
dự vào những sinh hoạt chính yếu của Ðại tăng như các việc yết ma, bố
tát, tự tứ v.v... Nếu người chưa thọ Cụ túc mà khoác áo cà sa, len lỏi
vào hàng ngũ Tỷ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát, tự tứ thì phạm
tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được thọ Ðại
giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương tiên (thủ
tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng chúng: "Người chưa thọ
giới Cụ túc đã ra chưa?". Và khi được xác nhận trong Tăng không có
người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma.
Như vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người
chưa thọ giới Cụ túc xem giới pháp của Tỷ kheo? Còn việc không cho Sa
di, bạch y tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm
chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự, sau đó, một Tỷ kheo phạm
tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo. Các Tỷ kheo thấy thế liền
bạch với Phật, Phật dạy: "Từ nay trở đi không nên cho bạch y và Sa di
tham dự bố tát" (Ngũ phần luật, Ð.22, tr.123a).
Phát xuất từ lời
Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe
lén Tỷ kheo tụng giới. Nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện
chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: "Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật
tạng toàn thư" (Nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng).
Và một đoạn khác trong Luật Sa di, Ngài khuyến khích: "Tuy Tỷ kheo sự,
Sa di đương dự tri chi" (Tuy là việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên
tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng
đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như trường hợp ngài Hoằng
Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận giải, nêu ra ba
lý do:
1- Nếu Sa di xem
trước giới luật Tỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn, sẽ sanh
tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.
2- Nếu Sa di biết
giới luật Tỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới rồi mà không giữ gìn
nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỷ
kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.
3- Khi đã biết
trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm
chí thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới nghe
qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn. Vì các lẽ:
Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết
hay sao mà "thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối thất?"; thứ hai, lẽ nào
những người xuất gia lại quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, hễ
"thấy Tỷ kheo phạm giới liền sanh tâm khinh rẻ?"; thứ ba, vấn đề giới tử
đắc giới thể là do ba việc: "Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm
và Giới tử chí thành", chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới
luật mà đắc giới thể?
Quả thật lối lập
luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giới pháp và giới luật. Ai cũng
biết ngài Qui Sơn (771-833) định nghĩa người xuất gia: "Phàm là người
xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn
khác với thế tục. Vì mục đích làm rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma,
báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi". Và các bậc cổ đức cũng đã nói: "Thế
thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà năng kham thủ?" (Trên đời
này, nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm
đương nổi "sứ mệnh xuất trần"?).
Vả lại Luật dạy, vị
thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì
sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải
là người hảo tâm xuất gia, có dũng khí kiên cường bất thối, chứ không
phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca dao ta có câu "Năm lừa mười
lọc mới trọc cái đầu".
Ðúng ra, vì nhờ xem
trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới là "phòng phi
chỉ ác", là "thuyền bè đưa người qua bể khổ", nên họ mới sinh tâm khát
ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy
những điều khó làm mà các Tỷ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng
tăng thêm tâm cung kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỷ
kheo khi đã hiểu rằng mọi người đều biết những giới luật mình đã lãnh
thọ, thì càng phải nỗ lực hộ trì không dám buông lung, vì sợ thiên hạ
phê bình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các nước Nam phương như
Campuchia, Thái Lan..., mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỷ kheo và họ
rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ
trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và
tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành
phố ta có những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương
Phật pháp. Nếu Phật tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách
ngăn chặn hành vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong
sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này nữa,
tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỷ kheo, các
chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn
cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế. Vì trong các giới điều dành cho
Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới
bổn của Tỷ kheo hết. Ðành rằng chỉ có các Tỷ kheo thọ 250 giới, và các
Tỷ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp của mình, còn
những người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Ðó là nói về
trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu với thiện chí hướng
thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ kheo mà không vi
phạm bất cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội đoàn
nào đó gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì
liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ
ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ
chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều lệ của tổ chức ấy rồi
mới tham gia. Ðó là một việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học.
Vả lại, Phật giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền,
là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp nhận sự
cuồng tín. Chính Ðức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền của Bà La Môn
cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc Thánh kinh Vệ Ðà.
Phật còn dạy: "Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta". Và một chỗ
khác lại nói: "Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra, chứ
không phải bàn tay nắm lại". Hoặc nói: "Phật pháp là thiết thực hiện
tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ".
Chung quy cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư
tưởng và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc
đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỷ kheo; như kinh
Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo không được buôn bán đổi chác, không được mua
ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây, không được coi ngày, xem
tướng v.v... Như vậy toàn là giới cả, chứ có gì khác đâu. Vả lại ngày
nay, kinh điển, giới luật được in ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể
tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho được.
Hơn nữa, giá như
ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý
làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem
cất trên khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì thử hỏi hành vi
ấy là tôn kính hay bất kính đối với tổ tiên?
Ai cũng biết rằng
tính chất của giới luật là "thanh lương", nghĩa là mát mẻ, là "biệt biệt
giải thoát", tức là giữ được điều nào giải thoát được điều ấy, thế mà
bảo rằng "người nào xem trước giới luật Tỷ kheo thì phạm tội ngang bằng
tội ngũ nghịch" thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng
hóa ra quyển Luật Tứ phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói
kiểu ấy là chỉ nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự,
nếu nhiều người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn
nhiều; và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng
chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Ðành rằng công đức
xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta
chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối, không
được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta cũng không thể chấp nhận, vì nó
trái hẳn với tinh thần học Phật. Ðức Phật dạy: "Khi nghe một điều gì,
các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù nó là Thánh điển".
Thử hỏi, từ khi Ðức
Ðạo sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến Tổ Châu Hoằng
(1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải
thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán (1611-1685) xuất hiện sau Tổ Châu Hoằng
gần cả thế kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì
làm sao chúng ta không bức xúc cho được?
Do vậy, chúng tôi
mạo muội nêu vấn đề này ra thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ
nhất là hy vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng
Ni trẻ, nhất là những người mới xuất gia, chưa thọ Ðại giới; thứ hai là
để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới pháp có thể nhận thức đúng đắn
tinh thần giới luật mà đấng Ðại giác đã từ bi truyền dạy. Vì thế, tuyệt
nhiên không hề có ý phê bình ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi
cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng
nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi sai sót./.
-oOo-