Phần II - Bài 7
Giới thiệu về Kinh Hoa Nghiêm
HT Thích Trí Quảng
I. Lịch sử kinh Hoa Nghiêm
1- Khái niệm về lịch sử kinh Hoa Nghiêm
Về mặt học thuật,
chúng ta học lịch sử phần lớn căn cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi
lại để đánh giá. Nhưng đứng ở lãnh vực tôn giáo để quan sát, chúng ta
lại có nhận thức về lịch sử khác hơn là những điều được các nhà học
thuật ghi nhận.
Từ hiểu biết theo
học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu lịch sử Ðại thừa
Phật giáo theo tinh thần của người tu có niềm tin, có trí tuệ. Và bước
sang lịch sử kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phải phát Bồ đề tâm. Có
thể nói, chúng ta học Ðại thừa bằng Bồ đề tâm của chính mình, không học
bằng vọng thức, nghĩa là tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm hồn
thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phân tích, học hiểu theo văn tự,
ngữ ngôn.
Kinh Hoa Nghiêm có ba bộ: Bộ thứ nhất gọi là Ðại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do ng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết.
Như vậy, kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Ðức Phật khác hơn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.
Cả ba bộ kinh này
đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ
sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ tát chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ. Và mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài kệ.
Bộ Tiểu Hoa Nghiêm mà ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay hai bộ. Bộ Hoa Nghiêm
60 quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời
Ðường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên hoàng đế, quen gọi là Võ hậu.
Bộ kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta tu học chủ yếu nương theo bộ kinh đời Ðường. Kinh Hoa Nghiêm
do Báo thân viên mãn Lô Xá Na và kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật
chuyển thì chúng ta không thấy được Báo thân và Pháp thân Phật, nên
không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.
Ðiều này gợi cho
chúng ta ý thức rằng khi học Phật pháp, nhất là học Ðại thừa, đòi hỏi
quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong cuộc sống.
Hiểu kinh Hoa Nghiêm
là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền định, phát sinh được trí tuệ và
dùng trí tuệ quán sát mọi sự, mọi vật. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm dẫn
chúng ta vào pháp giới hay nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở
dạng chân thật, thì ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của
cuộc đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.
Theo phán giáo của ngài Trí Giả, Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm
21 ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng bài
kệ gọi là vi trần? Trong khi các bộ kinh khác, Ðức Phật nói trong thời
gian dài hơn mà lại không nhiều.
Phật nói Hoa Nghiêm
21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc sống vật chất theo đời
thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày tư duy thiền định thiết
nghĩ thật lớn lao không thể tính được. Ai không hành đạo, không công phu
tu tập không thể nào biết được điều này.
Một niệm tâm trong
thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số chúng sanh. Ngài Thiên Thai chứng
được 3.000 pháp biến dịch trong một niệm tâm. Và 3.000 pháp này tác động
lẫn nhau, tạo thành trùng trùng duyên khởi theo Hoa Nghiêm.
21 ngày Phật tư duy
dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì hoạt động dưới dạng
Pháp thân, trở thành đại tự nhiên. Tư duy bằng vọng niệm chẳng là bao.
Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng bản thể của sự vật, ở chơn
như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm, tuy ba nhưng thông làm một.
Từ bồ đề đạo tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm
21 ngày, nhưng thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những
gì xảy ra từ khi Ngài phát tâm Bồ đề và giáo hóa chúng sanh cho đến
ngày thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo hóa. Tất cả mọi
người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp tục học pháp với Tỳ Lô
Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo tinh thần Ðại thừa.
Thật vậy, Ðức Phật
vẫn còn giáo hóa và hộ niệm cho chúng ta, nên chúng ta mới tu học được.
Nếu không có lực gia trì đó, Phật pháp không thể tồn tại đến ngày nay.
Thái độ của người học Phật giáo Ðại thừa nói chung và lịch sử kinh Hoa Nghiêm
nói riêng, là phải thấy cái bao la vô cùng tận, còn cái chúng ta hiểu
được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy
rằng khi nào tu tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì
vậy, cho rằng học hết giáo lý là xong, quả là sai lầm lớn.
Trên tinh thần bao
la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận ra thọ mạng Phật pháp tồn
tại thường hằng miên viễn ở dạng Pháp thân vĩnh hằng bất tử. Ðức Phật
chỉ phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thực Ngài vẫn hiện hữu ở khắp
mọi nơi, ở bên cạnh chúng ta trong từng niệm tâm vậy.
2- Lịch sử truyền thừa và phát triển kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Êẽn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa Nghiêm chỉ còn tìm thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Êẽn Ðộ. Ðó là bộ Ðại Trí Ðộ luận của ngài Long Thọ có dẫn dụng kinh Hoa Nghiêm và những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập địa kinh luận giải thích về hai phẩm: Thập trụ, Thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có một phần nhỏ của kinh được truyền thừa. Còn toàn bộ kinh Hoa Nghiêm không có.
Tuy nhiên về sau, kinh Hoa Nghiêm
được truyền sang Trung Quốc có 3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước Vu
Ðiền của Trung Á (ngày nay thuộc khu tự trị của Trung Quốc).
Kinh Hoa Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc bộ lục thập Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ cựu dịch.
Cách 200 năm sau, đến đời Ðường, ngài Thập Sa Nan Ðà dịch, chia thành 80 quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.
Và cũng ở đời Ðường, ngài Bát Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới, gọi là tứ thập Hoa Nghiêm, gồm 40 quyển.
Kinh Hoa Nghiêm
phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông Hoa Nghiêm. Sơ tổ
của tông này là ngài Ðỗ Thuận (557-640), nhưng đến ngài Trí Nghiêm
(602-668) là Nhị tổ mới chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm.
Và Tổ thứ ba của
tông này rất nổi tiếng, đó là ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ, 643-712). Phải
nói là đến thời của ngài Pháp Tạng mới luận giải kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh này cho Tắc Thiên hoàng hậu.
Ngài Ðỗ Thuận và Trí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục thập Hoa Nghiêm.
Nhưng ngài Ðỗ Thuận chịu ảnh hưởng của hệ Bát Nhã, vì lúc ấy pháp tánh
học thịnh hành. Còn ngài Trí Nghiêm chịu ảnh hưởng của Duy thức, tức
pháp tướng học do ngài Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát triển
Hoa Nghiêm.
Ngài Pháp Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát Nhã và Duy Thức của Sơ tổ và Nhị tổ, kết hợp thành bộ Hoa Nghiêm sớ. Ðây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm cho Phật pháp thịnh hành ở thời này.
Hai vị Ðỗ Thuận và
Trí Nghiêm đều là người Hán. Riêng ngài Pháp Tạng sanh ở Trung Quốc mà
gốc người Trung Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được tư tưởng triết học Êẽn
Ðộ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng hợp được tinh ba của hai luồng
tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù nổi bật của tông Hoa Nghiêm,
khiến cho giới trí thức đời Ðường bấy giờ phải thán phục.
Có thể nói tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc vì tư tưởng kinh Hoa Nghiêm
thích hợp với người Trung Quốc. Trước khi kinh này được truyền sang, tư
tưởng Lão Trang thịnh hành ở Trung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần
giống với tinh thần Hoa Nghiêm, nên người trí thức đương thời dễ tiếp
thu được tư tưởng Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm
phát triển được là nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa
Nghiêm và biết kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư
tưởng chỉ đạo của tông Hoa Nghiêm.
Tư tưởng Lão Trang
quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý "Tự nhiên", tự nhiên
là "Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của vũ trụ. Và theo Trang tử:
"Ðạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến, con dế, ở chỗ cỏ Ðế, cỏ
Bại, ở chỗ gạch ngói, ở chỗ phân tiểu...".
Người trí thức chịu
ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi
tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị cao tăng lý giải; theo đó, mọi
sự, mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả
sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong pháp giới.
Người chứng đạo
thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật ngữ gọi là lý
sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn chướng ngại,
vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối nghịch, đối đầu, từ đó
phiền não trùng trùng duyên khởi.
Thực chất của sự
hành trì theo yếu nghĩa Hoa Nghiêm là thiện ác đều do chính ta tạo nên,
kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạp. Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì tất cả viên
dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới cho đến con ong, cái kiến, cỏ
cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ Lô Giá Na Phật.
Kinh Hoa Nghiêm
chuyên chở một tư tưởng quá lớn lao, người bình thường không tiếp thu
nổi, không hiểu thì làm sao ứng dụng được. Vì thế, dù là tư tưởng siêu
tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.
Phải có những bậc
danh đức ngộ đạo hiện hữu, như ngài Ðỗ Thuận, Trí Nghiêm, Pháp Tạng nắm
trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và lý giải cũng như thể hiện trong
cuộc sống, mới có thể phát triển tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về
sau, không có người thừa kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp, nên ngọn
đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.
Tiếp theo, kinh Hoa Nghiêm
được một nhà sư Trung Hoa mang sang Nhật Bản, nhưng không thuyết giảng.
Ðến đời Thánh Vũ thiên hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư Triều Tiên sang
Nhật Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra đời ở
Nhật.
Ðặc biệt là nhờ
công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ thiên hoàng
phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới.
Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền thuyết, người ta chỉ đúc được
pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt
tượng Tỳ Lô Giá Na rộng đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ
là bị rã.
Sau đó, nhà sư Phật
Triết từ Giao Châu, Việt Nam, đóng bè tre sang Nhật Bản. Ngài Hạnh Cơ
Bồ tát ra đón ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc
tượng.
Pho tượng được hoàn
thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh ngài Phật Triết
về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra nghi thức cúng dường khai
quang, còn truyền tụng đến ngày nay.
Như đã nói, tư
tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp thu. Vì vậy, công đức hoằng
truyền kinh Hoa Nghiêm mà ngài Thẩm Tường đã tu tạo, không có người tiếp
nối đạo mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông Hoa
Nghiêm, chùa Ðông Ðại và tượng Tỳ Lô Giá Na, thì ngày nay chỉ còn hiện
hữu như một kỷ niệm mà thôi.
Tóm lại, kinh Hoa Nghiêm
phát xuất từ Êẽn Ðộ, nhưng vì quá cao siêu nên hiếm người tiếp thu được
và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền
sang Trung Quốc hay Nhật Bản và gặp được những vị vua chúa có phước báo
và quyền thế phát tâm mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch,
truyền bá kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành công.
Riêng ở Việt Nam,
Phật giáo đương nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một
số vị cao tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được phần nào tinh ba của
kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung, bộ kinh này không phát
triển mạnh được ở Việt Nam.
II. Nội dung kinh Hoa Nghiêm
Theo phán giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Ðức Phật thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm
trong 21 ngày và sau đó Ngài đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như,
bắt đầu lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Ðức Phật
giảng kinh Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.
Cách phán giáo của
Trí Giả đại sư được Phật giáo Ðại thừa tán đồng. Phật giáo Nguyên thủy
cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo, Ðức Phật ngồi tư duy ở Bồ
đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Ðại thừa, trong
21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định.
Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển
ghi nhận có 9 hội. Ðến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi
Phật, Mục Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được
kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.
Vì khó hiểu như vậy, một số người cho rằng kinh Hoa Nghiêm
có tính cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này qua thực
tế như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà bác học thì
người có trình độ đại học trở xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu
được.
Pháp Phật nói cho
Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi là phàm phu. Cần hiểu
rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... mà kể cả chúng ta cũng
hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị ngũ
ấm ngăn che, vướng mắc sắc ấm. Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong thiền định, dùng tâm chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự chuyển vật.
Tinh thần Ðại thừa
đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết
thành quả tốt, dù cho hành động bề ngoài không tốt. Sức mạnh phi thường
của tâm chi phối, khiến việc thành tựu, không cần phải cử thân động
niệm, kinh gọi là vô tác diệu lực. Ðó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn đề cập đến.
Khi Ðức Phật đắc
quả Vô thượng giác ở Bồ đề đạo tràng, không còn lệ thuộc ngũ ấm thân,
Ngài phát hiện ra con người thật bên trong là chơn tâm hay Tỳ Lô Giá Na
Pháp thân và thấy Bồ tát vi trần. Phật pháp thân ấy nói với các vị Bồ
tát trong thiền định, không phải là người bằng xương bằng thịt nói và
cũng không nói cho người nhân gian. Vì vậy, người nhân gian làm thế nào
biết được và tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến Long Thọ Bồ tát kiết tập.
Ðến pháp hội thứ
hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh quang Phật
thuyết pháp. Ánh quang này chiếu đến Trời Phạm Thiên, nên vị Ðại Phạm
Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật thuyết pháp.
Ở pháp hội một,
thuyết trong thiền định dành cho người trụ định mới nghe được. Ðến pháp
hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi người có trí tuệ, nghe
bằng Bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ
đạo nhìn sông núi, cá chim đều là Phật thuyết pháp.
Sau đó, Phật thuyết
ở Trời Ðao Lợi, đến Dạ Ma thiên, Ðâu Suất thiên, Tha Hóa Tự Tại. Ðến
đây, Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa nhằm chỉ cho biết đối tượng của
pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người có đầy đủ phương tiện giáo
hóa chúng sanh.
Bồ tát pháp trong kinh Hoa Nghiêm rất
cao sâu. Hàng thấp nhất là Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua
một cõi, tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị địa phải
là Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến
danh cũng phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải làm vua Trời Ðao Lợi, cai
quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời Dục cao nhất là Tha Hóa
Tự Tại.
Ðức Phật giảng cho
các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có phước báo, quyền uy ở
trần gian nên phát tâm làm Phật sự, dễ tu tạo công đức lớn lao. Nếu
không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo công đức,
như vua Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
Từ cõi Trời Tha Hóa
Tự Tại, Ðức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết thập nhẫn, thập định.
Cuối cùng, Ngài trở lại thực tế cuộc sống ở rừng Thệ Ða nói phẩm Nhập
pháp giới.
III. Quan niệm về đạo Phật theo kinh Hoa Nghiêm
Kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật giáo Ðại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết diệu pháp.
Quan niệm về Ðức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất
nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Ðức Thích Ca. Ngài cũng mang
thân tứ đại giống như chúng ta và trải qua quá trình tu hành, đắc quả
Vô thượng Bồ đề.
Quan điểm cho rằng
Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc Chánh giác, được xét lại
trong thời Phật giáo Phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao
người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có Phật thành tựu quả vị toàn
giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm trụ
trì hoặc người chẳng đạt được quả vị nào.
Từ đó, Phật giáo
Phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của
con người, tức chân linh, để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo
tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự được hình thành, nói về vô số tiền
kiếp của Phật đã xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo
mặc cho chân linh. Ðó là quan niệm mới của Phật giáo Phát triển bắt đầu
quán sát người ở hai mặt: mặt bề ngoài là sanh thân hay thân mạng hữu
hình và thân mạng vô hình bên trong là Báo thân.
Theo Ðại thừa, Báo
thân là phước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa thành tựu dễ dàng vì
lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo
đức hoàn toàn thánh thiện.
Như vậy, Ðại thừa
nhìn Phật qua tri thức và đức hạnh của Ngài và triển khai Báo thân. Suy
nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm mục tiêu phát triển
Báo thân của chính mình. Nói cách khác, trên bước đường tu, chúng ta xem
Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng
mình.
Ðức Phật dạy rằng
ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi, viên mãn
hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp qua khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành
Bồ tát đạo, làm lợi ích chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Ðẳng giác.
Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng phải phát tâm
Bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Ðó là tư tưởng nòng cốt của Phật giáo Ðại
thừa.
Tiến đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Ðức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp.
Tinh thần Hoa
Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Ðức Phật hoàn toàn mới, khác hẳn các bộ
kinh Ðại thừa khác. Ðức Phật không bị giới hạn trong một loại hình cố
định nào.
Thật vậy, Hoa
Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không có gì
không phải là Phật, đó mới là Ðức Phật chân thật. Phật này là Phật huệ,
nên trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong
thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật.
Tư tưởng đặc biệt
của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Ðức Phật toàn diện đòi
hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu,
sống và hành đạo như vậy.
Ðứng trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới, được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân: Ngũ
ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn thân, Duyên giác
thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân, Hư không thân.
Hay có thể nói 10 loại hình này là diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến
đến quả vị Phật và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài
hữu tình, vô tình.
Theo Hoa Nghiêm,
trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ
ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ðức Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm,
nhưng Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối.
Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng do bị ràng buộc triệt
để, nên luôn gánh chịu khổ đau sanh tử.
Ðức Phật khẳng định
rằng ngũ ấm cấu tạo nên con người và con người bị lệ thuộc nó. Chính vì
còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, nên chúng ta còn bị 4 thứ: đói,
khát, nóng, lạnh hành hạ. Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc
được sơ quả là xa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì vậy, chúng ta thấy
các Thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ mà không
cảm giác đói khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự
chi phối của thân xác.
Thân của Ðức Phật
khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài cũng sử dụng
nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân hoàn toàn theo mục
tiêu mà Ngài đặt ra.
Ðối với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm
trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Ðẳng giác để
giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ,
Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Ðức Phật khác hơn chúng sanh là như
vậy.
Chúng sanh thì bị
thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên
với nó. Ðức Phật thì tự tại hoàn toàn vì biến đổi được ngũ uẩn thành
Pháp thân mà kinh diễn tả là: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai".
Ðức Phật sử dụng, biến ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, nên ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân Phật Tỳ Lô Giá Na.
Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.
Theo tinh thần Hoa
Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá
bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh,
khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp.
Nói cách khác, thân
Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quan, tạo thành lực hấp dẫn đưa ta
đến với Phật đạo. Trong kinh thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo,
Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã
từng làm nai, chim, sư tử... Vì vậy, trong vũ trụ, cỏ cây hoa lá cho
đến động vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình
chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũng chịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na
để tồn tại.
Như vậy, loại thân
hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là trải thân ra làm đất đai, làm
cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài.
Không loài nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.
Dưới mắt người hành
đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi
gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi
sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc làm
họ khổ đau.
Trên tinh thần tất
cả đều đẹp, người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong
núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật,
nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở
chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong
thiền môn.
Bước theo lộ trình
Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập sống theo tinh thần rộng lớn như vậy, tập
làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển. Ðó là con đường đưa
chúng ta đến quả vị toàn giác trong tương lai.
Từ trong chúng sanh
thân, nhận ra cuộc đời không bền chắc, nên khởi tâm đi tìm hằng hữu. Từ
bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ trắc
nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp thân của
Ðức Phật hay Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.
Kế đến là hàng
Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân
duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và
theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân
thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.
Vì vậy, hàng Duyên giác hay Bích chi Phật ẩn tu, thâm
nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ
sanh lục đạo và hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được
coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.
Thanh văn tu hành
tập thể và Duyên giác hay Ðộc giác ẩn tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai
cách tu này, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri
thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.
Bồ tát hay bậc giác
hữu tình, tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài hữu tình. Họ
phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúp đỡ, cũng là do
Phật lực chi phối đến.
Trên tinh thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.
Khi người tu tròn
đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với
thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát,
không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể
để trao đổi sách tấn nhau tu hành như Thanh văn.
Vì Như Lai thân
không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các
loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động niệm.
Từ ngũ ấm thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc độ thân, chúng sanh thân, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thân và Như Lai thân là thân thứ 7.
Bấy giờ, ở quả vị
Như Lai, không cần làm như trước nữa, nhưng các loài hữu tình chúng sanh
tự phát tâm tu và tự giải thoát. Ðó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng
Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn kính,
quy ngưỡng Phật.
Trên bước đường tu,
sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt đến vị trí Như
Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt
động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ
bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là trí thân (thân thứ 8).
Dùng trí thân, tức
dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ đề. Chúng
sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng
sanh, tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như
Lai không chiếu tới.
Trí Như Lai chiếu
tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Ðức Phật. Ðó là điểm
then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Ðức Phật. Trí tuệ Phật chiếu
vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật
thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.
Ví dụ trí tuệ Như
Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện đi theo Phật đạo
và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền.
Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí hiện hữu để Phật pháp tồn tại,
phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Ðức Phật (thân thứ 9).
Quang cảnh thiền
môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra
Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp
thân của Phật đã thuyết pháp.
Như vậy, Pháp thân
Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý niệm Pháp thân
của Phật giáo Nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.
Kinh Hoa Nghiêm
quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của
huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật
trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một
miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó,
hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ nhận được huệ Như Lai, có ý niệm về Phật.
Trái lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.
Tiến theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân hay Tỳ Lô Giá Na thân.
Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp,
biến pháp thành Pháp thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành
một. Thiết nghĩ, đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả
bằng ngôn ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói
trên là một tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí
tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ hàng Thánh giả đến người
thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.
Trong vô hình, lực
Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới,
khiến cho tất cả phát tâm Bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành pháp
giới.
Ðó là thế giới
huyền môn của đạo Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo,
đạt đến bằng sự tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên
đảo vọng tưởng./.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày sơ lược lịch sử kinh Hoa Nghiêm.
2- Nội dung cơ bản của kinh Hoa Nghiêm là gì?
3- Trình bày quan niệm về Ðức Phật theo kinh Hoa Nghiêm. |