3. Ðôi nét về nhà dịch thuật Thích Ðạo Thanh
Ngoài ngài Khương
Tăng Hội, thế kỷ thứ III còn có tên tuổi Tăng sĩ Việt Nam cự phách khác
hiện biết được là nhà dịch thuật Việt Nam Ðạo Thanh (26) (sinh khoảng
năm 220, mất năm 300), người đã bút thọ cho bản dịch Pháp Hoa tam muội kinh
(27) của Chi Cương Lương Tiếp (28) dịch từ tiếng Phạn sang chữ Hán, lưu
hành tại nước ta khoảng sau năm 258. Qua ngài Ðạo Thanh và mối liên hệ
trong bản dịch kinh Pháp Hoa, chúng ta biết thêm về Chi Cương
Lương Tiếp, một nhà sư người gốc Ấn Ðộ đếân ở và làm việc tại Việt Nam
vào khoảng những năm 256.
Ngài Ðạo Thanh là
người đã cộng tác với Chi Cương Lương Tiếp trong công việc phiên dịch
kinh điển, mà một trong những kết quả hiện biết được là bút thọ bản dịch
kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn sang chữ Hán. Việc phân trách nhiệm bút thọ bản dịch kinh Pháp Hoa
chứng tỏ rằng Ngài phải là người có một trình độ Phật học vững vàng, có
sự hiểu biết chắc chắn không những về Phạn ngữ mà còn thông thạo tiếng
Việt và Hán văn. Ðây lại là một bằng chứng về thành quả của nền giáo dục
Phật giáo chất lượng và uy tín tại nước ta ở giai đoạn bấy giờ; và việc
các nhà Phật học đến nước ta, cộng tác với các nhà sư Việt Nam, cho
biết nước ta là một trung tâm Phật giáo lớn trong khu vực, đủ sức hấp
dẫn để thu hút các nhà Phật học từ các nơi khác hội tụ về, và các nền
giáo dục Phật giáo nước ta đã đào tạo nên những con người thực chất, mà
những đại biểu ưu tú là các ngài Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Ðạo Thanh...
Cũng qua việc ngài Ðạo Thanh hợp tác với nhà sư nước ngoài là Chi Cương Lương Tiếp dịch kinh Pháp Hoa tam muội,
một bộ kinh có sự liên hệ chặt chẽ với phương pháp thiền định an ban do
Khương Tăng Hội xiển dương trước đó; nói đúng hơn, đây chính là cơ sởã
lý luận vững vàng cho phương pháp trên, cũng như là một trong những nền
tảng để giải đáp các thắc mắc nảy sinh trong quá trình đấu tranh để phát
triển của tư tưởng Phật giáo tại nước ta sau này.
4. Vu Pháp Lan và Vu Ðạo Thúy, hai danh tăng của Phật giáo Trung Quốc đến Việt Nam vào thế kỷ IV
Phật giáo thế kỷ
thứ IV thường bị hiểu một cách sai lệch, không ít người cho rằng giai
đoạn này Phật giáo nước ta không có gì nổi bật, không có các gương mặt
Phật tử và Tăng sĩ tiếng tăm vang dội chẳng những ở trong nước mà còn cả
ở nước ngoài như trước. Ðó là một ngộ nhận hết sức sai lầm. Vào thế kỷ
thứ IV, Phật giáo Việt Nam vẫn là một trung tâm Phật giáo lớn ở phương
Ðông, vẫn thu hút các danh nhân, cao tăng ngoài nước tụ hội về, mà
trường hợp các ngài Vu Pháp Lan (khoảng 270-320) và Vu Ðạo Thúy (khoảng
285-315), hai nhân vật cự phách trong học giới Phật giáo Trung Quốc, vị
Tăng Ấn Ðộ Kỳ Vực với nhiều khả năng linh dị, đã đến hoặc ghé qua nước
ta là những thí dụ điển hình. Ðấy là chưa kể đến những gương mặt như Chí
Hàm, tác giả của Triệt tâm ký (sống ở nước ta khoảng từ năm 300 đến 360), hay Hiền Pháp sư , người viết Minh tường ký nổi tiếng, v.v...
Theo Cao tăng truyện
của Huệ Hạo, Vu Pháp Lan người Cao Dương, xuất gia năm 15 tuổi, có tư
chất thông minh khác thường, tu học rất tinh tấn, đạo phong lẫy lừng núi
sông, lại có tính thích thưởng ngoạn phong thủy. Tương truyền, Ngài có
nhiều khả năng khác thường, ở chung với cọp mà không bị cọp hại, lại có
thể thuần hóa nó. Ðương thời, mặc dù được mọi giới trọng vọng, nhưng tự
thấy chưa thỏa mãn với những gì đã tiếp thu, Ngài quyết định lên đường
đi Ấn Ðộ nhằm có thể tham cứu kinh điển Phật giáo một cách đầy đủ hơn.
Trên đường đi, Ngài đã dừng chân ở Giao Châu, mắc bệnh rồi mất tại nước
ta. Vu Pháp Lan có nhiều học trò, nhưng nổi bật hơn cả là Vu Pháp Khai
và Vu Ðạo Thúy, hai nhà y dược tiếng tăm đồng thời là những nhà Phật học
lớn. Hai vị này là người đã chủ trương hai trong bảy trường phái Bát
nhã học của Trung Quốc (29).
Cũng Cao tăng truyện
cho biết, Vu Ðạo Thúy là người Ðôn Hoàng, cha mẹ mất lúc tuổi còn nhỏ, ở
với người chú, là người có lòng hiếu nghĩa hết mực. Năm 16 tuổi xuất
gia làm đệ tử của ngài Vu Pháp Lan. Vu Ðạo Thúy là người có học nghiệp
cao minh, kiến thức rộng rãi, không chỉ uyên thâm Phật học mà còn giỏi
cả nghề y, nhân cách thì thanh cao giản dị, tính cũng thích thưởng ngoạn
phong cảnh núi non sông nước. Người đời rất ngưỡng mộ tài năng và nhân
cách của Ngài. Ngài theo thầy là Vu Pháp Lan đi Ấn Ðộ, nhưng chưa đi hết
chuyến hành trình thì mất tại bình nguyên Bắc bộ của nước ta.
Sự kiện hai nhân
vật Tăng sĩ tầm cỡ như thế chọn con đường phương Nam để đi Ấn Ðộ và đã
hiện diện ở Việt Nam vào thế kỷ thứ IV (khoảng sau năm 307) dĩ nhiên
không thể diễn ra trong không khí im lặng, mà nhất định phải có những
hoạt động trao đổi về học thuật Phật giáo giữa họ với các cao tăng, các
học giả huyền học bản xứ. Và do đó, những vấn đề quan trọng trong tư
tưởng và triết học Phật giáo như Bát nhã, Không, Phật, Tâm, v.v... có
thể đã được đem ra thảo luận một cách sôi nổi. Nhưng đáng tiếc là hiện
chúng ta chưa biết được gì nhiều. Hơn thế nữa, cũng có khả năng hai nhân
vật này đã ghé lại đây để tìm hiểu thêm văn hóa và học ngôn ngữ để
chuẩn bị cho việc đến Thiên Trúc, bởi như đã nói, tại nước ta ở giai
đoạn này có không ít người Ấn Ðộ đến sinh sống và giao thương. Về mặt tư
tưởng, có một đặc điểm đáng chú ý là, học phong của hai vị Tăng trên
mặc dù thuộc trường phái Bát nhã học, nhưng bản chất nó, đặc biệt là đối
với ngài Vu Pháp Lan, là tư tưởng Phật giáo mang tính quyền năng, biểu
hiện cụ thể qua việc hàng phục thú dữ, điều được quỷ thần, mà tiểu
truyện về Ngài trong Cao tăng truyện đã chép. Ðây là điểm phù hợp
với xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam, xu hướng Phật giáo quyền
năng vốn có trước đó mà Mâu Tử và Khương Tăng Hội đã từng quan niệm. Và,
chính điều này là điểm lôi cuốn người Phật tử Việt Nam khi các Ngài
sang nước ta, chứ không phải là học phong Bát nhã học của họ.
Trước khi hai thầy
trò tiếng tăm lẫy lừng Vu Pháp Lan và Vu Ðạo Thúy đến và mất tại nước
ta, có một nhà sư Ấn Ðộ là Kỳ Vực đã ghé ở. Trong thời gian lưu lại đất
Việt, cũng như hai nhân vật trên, hành tích của ngài Kỳ Vực không thấy
sử sách Trung Quốc ghi rõ, nhưng qua hành trạng của Ngài, một người với
những khả năng phi thường, có thể qua sông mà không cần đò, xoa đầu cọp
dữ, có thể biến hóa tùy ý, biết được tiền kiếp của người khác...như một
minh chứng cho mẫu người giác ngộ mà Mâu Tử đã quan niệm trong Lý hoặc luận từ
thế kỷ thứ II và Khương Tăng Hội tiếp theo sau (thế kỷ thứ III) đã chỉ
ra phương cách để đạt đến mục tiêu đó là bằng pháp tu thiền định (an
bang) gồm bốn giai đoạn được viết trong bài tựa cho bản dịch An bang thủ ý của
Pháp sư An Thế Cao. Xu hướng Phật giáo quyền năng đến thế kỷ IV lại
càng được khẳng định, bổ trợ qua sự hiện diện của những vị Tăng Ấn Ðộ và
Trung Quốc có khả năng linh dị, khác thường như các ngài Kỳ Vực, Vu
Pháp Lan, Vu Ðạo Thúy... mà chúng ta hiện biết được.
Vậy, Phật giáo ở
nước ta vào thế kỷ thứ IV vẫn phát triển, nếu không nói là phát triển
rực rỡ trong các phạm trù Phật giáo do các ngài Mâu Tử và Khương Tăng
Hội thiết lập nên ở hơn một trăm năm trước, đó là nền tư tưởng Phật giáo
quyền năng. Về mặt xã hội, Phật giáo Việt Nam vẫn là một trong những
trung tâm lớn được sự chú ý đặc biệt, là nơi chọn dừng chân, hoặc đến ở
tu học của nhiều danh tăng nước ngoài, kể cả Ấn Ðộ và Trung Quốc; vẫn
tồn tại một nền giáo dục toàn diện, thành công trong công tác đào tạo
nhân tài cho Phật giáo và đất nước, như trường hợp ngài Ðạo Thiền, mà
kiến thức lẫn đạo phong vang dội ở Trung Quốc, được mọi giới trí thức và
bình dân đều trọng vọng và kính ngưỡng.
5. Sự kiện
"sáu lá thư" trao đổi giữa hai vị Tăng Việt Nam là Ðạo Cao và Pháp Minh
với Lý Miễu, và cuộc đấu tranh tư tưởng chuẩn bị cho một giai đoạn phát
triển mới của Phật giáo Việt Nam
a. Về các nhân vật Ðạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Sáu lá thư trao đổi
giữa hai vị Tăng Việt Nam là Ðạo Cao và Pháp Minh với Lý Miễu là một
trong những phát hiện quan trọng của học giả Lê Mạnh Thát từ thư tịch
chữ Hán của Trung Quốc (30), cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu lịch sử
dân tộc nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng một tư liệu
hết sức giá trị, đặc biệt là cho biết về cuộc vận động tư tưởng của dân
tộc và của Phật giáo ở giai đoạn trước khi Nhà nước độc lập Vạn Xuân ra
đời năm 544.
Ðạo Cao và Pháp
Minh là hai vị Tăng người Việt Nam (Giao Châu pháp sư), niên đại được
xác định như sau: ngài Ðạo Cao sinh khoảng năm 365 và mất năm 445, ngài
Pháp Minh sinh khoảng năm 370 và tịch khoảng năm 460. Ngài Ðạo Cao được
biết thêm là tác giả của tác phẩm Tá âm, Ðạo Cao pháp sư tập,
nhưng đáng tiếc là nay đã mất. Ngoài những thông tin ít ỏi trên, và
những thông tin từ các lá thư cho biết, chúng ta hiện chưa biết gì rõ
hơn về thân thế và sự nghiệp của hai vị Tăng uyên thâm này.
Về Lý Miễu thì cũng
không khá hơn. Tư liệu Trung Quốc ghi là sứ quân của Giao Châu. Tuy
nhiên, trong số những người mà chính quyền phương Bắc cử đi làm thái thú
ở nước ta không thấy ai tên là Lý Miễu. Có giả thiết cho rằng, Lý Miễu
có thể là tên khác của Lý Trường Nhân (khoảng 420-470) , hoặc cũng có
thể là một người lãnh đạo của nước ta, đứng đằng sau chính quyền "hữu
danh vô thực" dưới danh nghĩa là các thái thú để điều hành đất nước với
sự độc lập về chính trị cũng như văn hóa thường thấy trong giai đoạn
này. Căn cứ vào cách xưng hô của hai vị thầy của Lý Miễu (31), thì ông
phải là một trong những vị hoàng đế của nhà nước độc lập Việt Nam thời
bấy giờ. Nhưng dẫu thế nào đi nữa, khi tiểu sử của các nhân vật như Pháp
sư Ðạo Cao, Pháp Minh, Phật tử Lý Miễu chưa thể xác định rõ, thì sự
kiện "sáu lá thư" vẫn là một hiện thực lịch sử, có niên đại khoảng
435-455, và tại nước ta đã diễn ra một cuộc vận động, đấu tranh tư tưởng
gay gắt, mà nội dung của sáu lá thư đã phản ánh được vấn đề chính của
cuộc đấu tranh tư tưởng ấy.
b. Nguyên nhân sự ra đời của sáu lá thư hay tình hình của Phật giáo Việt Nam thế kỷ V
Vấn đề nổi bật
trong cuộc trao đổi giữa Lý Miễu với các vị thầy của ông qua sáu lá thư
là gì? Và lý do tại sao nó diễn ra trong giai đoạn này? Ở đây không thể
nói kỹ, mà chỉ nêu lên vài nguyên nhân sơ lược tạm để hình dung bối cảnh
của nó, đồng thời qua đó thấy được tình hình của Phật giáo trong thế kỷ
thứ V, thời điểm mà những tư tưởng Phật giáo quyền năng do các ngài Mâu
Tử và Khương Tăng Hội thiết lập từ thế kỷ thứ II và III đang rơi vào
khủng hoảng.
Sau hơn năm trăm
năm du nhập, Phật giáo được tiếp nhận và đã có nền tảng vững vàng. Người
Phật tử không chỉ tin theo giáo lý do những nhà truyền giáo tiên phong
thiết lập nên, mà chủ động đặt vấn đề đối với giáo lý đó. Sự hoài nghi
và liên hệ so sánh giữa các hệ thống tư tưởng, nói rõ hơn là giữa Phật
giáo với Nho và Lão giáo, thậm chí ngay trong nội thân các khuynh hướng
tư tưởng của Phật giáo, đã tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi vào thế
kỷ thứ V ở Trung Quốc cũng như ở nước ta.
Ở Trung Quốc, nổi bật đáng chú ý của cao trào đó là sự ra đời của tác phẩm Quân thiện luận
(32) của một vị sư nổi tiếng đa tài là Huệ Lâm, người từng có một vai
trò chính trị quan trọng trong triều đại của Tống Văn đế cầm quyền, từng
được mệnh danh là "Hắc y tể tướng" (Tể tướng thầy tu). Trong đó, sư Huệ
Lâm công kích Phật giáo, nói đúng hơn là phê phán hiện trạng Phật giáo
Trung Quốc đương thời, một cách kịch liệt. Sư Huệ Lâm, qua tác phẩm này,
bộc lộ ý đồ xã hội hóa Phật giáo để nó trở thành một lực lượng tích cực
dấn thân xây dựng đất nước qua việc thiết lập một quan niệm Phật giáo
dung hòa tư tưởng Nho gia, đặc biệt là về mặt đạo đức xã hội, với thuyết
"thù đồ đồng quy" (33). Quan điểm này bị chống đối nhiều hơn là ủng hộ.
Nó đã tạo nên làn sóng phản ứng giận dữ trong hàng ngũ Phật giáo, kết
quả là sư Huệ Lâm bị trục xuất sang Việt Nam vào khoảng sau năm 456 và
sống những năm cuối đời tại nước ta.
Sau khi sang Việt
Nam, với tài năng như thế, chắc chắn sư Huệ Lâm sẽ được người lãnh đạo
nước ta hoặc lãnh đạo các phong trào khởi nghĩa giành độc lập dân tộc
thời bấy giờ quan tâm đặc biệt, đồng thời cũng tạo nên ảnh hưởng trong
giới Phật giáo. Một vấn đề hết sức đáng quan tâm là vào thế kỷ thứ V,
tại nước đang ở cao trào vận động giành quyền tự chủ độc lập cho dân
tộc, chống lại thế lực phương Bắc. Về mặt chính trị, chúng ta đã có
những thành quả lớn, chẳng hạn cuộc khởi nghĩa của Lý Trường Nhân thành
công, mở ra một giai đoạn độc lập tự chủ dân tộc tạm thời. Về mặt trận
văn hóa và tư tưởng, cũng trong tình hình đó, đòi hỏi chúng ta có một
nền văn hóa, tư tưởng không những đủ sức mạnh để phản kháng với văn hóa
phương Bắc mà còn đối thoại trong thế bình đẳng. Ðó có thể nói là bối
cảnh ra đời của sự kiện "sáu lá thư", hay cuộc đấu tranh về tư tưởng của
Phật giáo để tương thích với xu thế mới của lịch sử và thời đại.
Với tầm quan trọng như thế, vậy nội dung chính mà "sáu lá thư" đặt ra là gì?
c. Nội dung của
cuộc trao đổi giữa Lý Miễu và hai vị thầy của ông là Pháp sư Ðạo Cao và
Pháp Minh, hay sự khủng hoảng của nền Phật giáo quyền năng
Nội dung cơ bản của
cuộc trao đổi giữa Phật tử Lý Miễu với hai người thầy của ông là các
ngài Ðạo Cao và Pháp Minh xoay quanh vấn đề tại sao nói Phật linh
nghiệm, quyền năng biến hóa tùy ý, nhưng không thể thấy được Phật, Ðức
Phật không thị hiện ra giữa đời cho người Phật tử chứng kiến? (34) Cuộc
thảo luận qua thư từ này đã giải quyết được vấn đề gì? Và quan niệm về
Ðức Phật nói riêng và Phật giáo nói chung có gì khác so với quan niệm
trước đó và của Trung Quốc?
Trọng tâm của "sáu
lá thư" là bàn luận quan niệm về Ðức Phật, một vấn đề cơ bản của tư
tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, nó không xây dựng hay đề ra một định nghĩa
mới so với quan niệm mà các ngài Mâu Tử và Khương Tăng Hội xiển dương.
Những nghi vấn tại sao không thấy được Phật hay Phật không thị hiện cho
người đời thấy mà Phật tử Lý Miễu đã đặt ra được Pháp sư Ðạo Cao đáp lại
bằng thuyết cảm ứng (35) vốn phổ biến trong dân gian và đã được Phật
giáo hóa thành tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc khá lâu trước đó. Sự kiện
này đã phản ánh tình trạng khủng hoảng niềm tin tôn giáo trước một xu
thế đang trỗi dậy của ý thức dân tộc, xu thế tự ý thức khả năng và sức
mạnh vô cùng to lớn của bản thân, xu thế tư duy mang tính duy lý hơn
đang diễn ra trong xã hội, trong yêu cầu cấp thiết là xây dựng nền độc
lập tự chủ lâu dài cho dân tộc.
Mặc dù có những ảnh
hưởng qua lại giữa Phật giáo nước ta và Trung Quốc, nhưng với quan niệm
trên, qua "sáu lá thư", đã cho thấy Phật giáo mà tổ tiên chúng ta tiếp
thu và xây dựng có những đặc thù so với Phật giáo phát triển ở Trung
Quốc. Thế kỷ thứ V, hệ thống kinh điển được đưa đến Trung Quốc khá đầy
đủ, quan niệm về Ðức Phật cũng đã khác, yếu tố lịch sử được chú trọng
nhiều hơn. Ðức Phật là bậc Giác ngộ nhưng Ngài cũng có nơi xuất thân,
danh tánh, sinh quán, dòng tộc cụ thể. Và như vậy, mặc dù có những ảnh
hưởng qua lại, đặc biệt là ở thế kỷ thứ V, lúc sư Huệ Lâm bị trục xuất
sang nước ta, nhưng tính độc lập trong việc tiếp thu và xây dựng các
quan niệm về Phật giáo của nước ta vẫn được giữ vững. Tính chất độc lập
này có nền tảng sâu xa là sự độc lập của nền văn hóa Việt Nam, của sức
sống bền bỉ và mãnh liệt của nền văn hóa đó.
Bên cạnh vấn đề
trung tâm như đã sơ bộ nói trên, "sáu lá thư" còn cung cấp nhiều thông
tin quan trọng khác đối với lịch sử, văn học, ngôn ngữ...của dân tộc mà
không thể nói ra ở đây, vì khá dài dòng. Chỉ qua một vài điều nói trên
cũng cho thấy giá trị tư liệu mà nó đem lại nhằm soi sáng cho việc tìm
hiểu về tình hình Phật giáo giai đoạn này, ở một thời điểm rất sôi nổi
của cuộc vận động tư tưởng Phật giáo để thích nghi với những xu thế mới
của thời đại.
Ðến thời điểm này,
nền Phật giáo được thiết lập bởi Mâu Tử và sau đó được củng cố, bổ sung
bởi ngài Khương Tăng Hội tỏ ra không còn là niềm tin tuyệt đối ở nước
ta, những thắc mắc mà Lý Miễu nêu ra là đại diện cho người Phật tử Việt
Nam thời bấy giờ. Nền tư tưởng Phật giáo quyền năng bị lay chuyển thực
sự. Phật giáo nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng về tư tưởng, cái cũ thì
ngày càng không đủ sức thuyết phục, các quan niệm mới thì chưa thấy hình
thành. Cuộc đấu tranh tư tưởng đó đến hồi gay gắt với sự kiện sư Ðàm
Hoằng (36) tự thiêu tại chùa Tiên Sơn năm 455, để lại nhiều điều linh
dị, có thể nói là một câu trả lời hùng hồn cuối cùng của nền tư tưởng
Phật giáo quyền năng trước những hoài nghi có xu hướng ngày càng phổ
biến tại nước ta.
Hồi kết thúc của
cuộc đấu tranh này ra sao, sẽ được đề cập qua việc tìm hiểu các nhân vật
Phật giáo nổi bật sau đó, "những ngọn đèn cuối cùng của một thời đại
Phật giáo" (37), thời đại đủợc xây dựng trên nền tảng tư tưởng Phật giáo
quyền năng, đó là các ngài Huệ Thắng và Ðạo Thiền.
6. Về các
ngài Huệ Thắng và Ðạo Thiền, hai bậc cao tăng Việt Nam cuối cùng của
thời đại Phật giáo thứ nhất, thời đại Phật giáo quyền năng
a. Về ngài Huệ Thắng
Năm sinh của ngài Huệ Thắng không thấy tài liệu nào ghi rõ. Cao tăng truyện
cho biết sư thọ 70 tuổi và mất vào khoảng những năm 502-519. Vậy chắc
chắn năm sinh của Ngài khoảng 432-449. Ngài sống tại chùa núi Tiên Châu
của nước ta, chuyên hành trì kinh Pháp Hoa. Người giản dị, thích tịch
lặng. Ngài học Thiền (38) với một vị Tăng nước ngoài tên là Ðạt Ma Ðề Bà
(Dharmadeva). Mỗi khi nhập định, hết ngày mới thôi; đạo phong được
người đời kính trọng. Tiếng tăm vang xa, quan đô hộ Lưu Hội (39) nghe
danh đến mời về và đưa sang Trung Quốc, an trí tại chùa U Thê. Sư cương
quyết không hợp tác bằng cách thường tỏ ra như người ngu, không hưởng
những đãi ngộ của kẻ cầm quyền phương Bắc mà sống trinh bạch, thanh bần
bằng đồ khất thực trong nhân dân. Năm 487 (Vĩnh Bình ngũ niên), sư bị
đưa đến tinh xá Diên Hiền ở Chung sơn và mất năm 70 tuổi. Bị đưa sang và
sống trên đất Trung Quốc, xa quê hương gần ba mươi năm nhưng lòng sư
vẫn "trinh bạch ngay thẳng".
Trước khi đến Trung
Quốc, sư Huệ Thắng đã từng học Thiền với một vị thầy nước ngoài là Ðạt
Ma Ðề Bà, và khi đến Trung Quốc, Ngài có thể không cổ xúy cho phong trào
Thiền học tại đây; tuy nhiên, chắc chắn rằng Ngài đã có những ảnh hưởng
quan trọng đối với lịch sử Phật giáo Trung Quốc, cho nên các nhà viết
sử Phật giáo nước này mới dành những dòng viết về Ngài với thái độ trân
trọng, cảm khái trước đạo phong và nhân cách "từ nhỏ tới già, lòng Thắng
trinh bạch thẳng ngay" (40) của một vị cao tăng Việt Nam.
b. Ngài Ðạo Thiền với công tác giảng dạy và hoằng pháp thành công rực rỡ tại Trung Quốc
Sau ngài Khương
Tăng Hội, thế kỷ thứ IV, có một vị Tăng Việt Nam lại "chống gậy Ðông du"
sang giảng dạy, hoằng pháp thành công rực rỡ tại Trung Quốc, đã để lại
cho giới trí thức tại đây niềm kính trọng sâu sắc, bất kể rằng con người
này xuất thân từ một xứ mà họ thường miệt thị vào loại "mọi rợ", đó là
ngài Ðạo Thiền.
Về ngài Ðạo Thiền, Tục cao tăng truyện
(41) cho biết, Ngài là người Giao Chỉ, xuất gia từ nhỏ, giới pháp trong
sạch, được trong tăng ngoài tục đều kính trọng không những vì sự tu
hành khắc kỷ, mà còn vì sở học uyên thâm, đặc biệt là về luật học. Ngài
là người có những khả năng kỳ lạ, như chuyện ghi rằng, tại chùa núi Tiên
Châu có nhiều cọp dữ hại người, nhưng kể từ khi Ngài đến ở thì nạn ấy
không còn. Sau đó, Ngài sang Trung Quốc giảng dạy Phật pháp ở Kim Lăng,
tham dự các đại hội thuyết giảng do Cánh Lăng Vương nhà Tề tổ chức vào
khoảng những năm 483-487. Ngài ở lại giảng dạy Thiền và Luật, đặc biệt
là về Luật Thập tụng tại đây, anh tài Trung Quốc khắp nơi đã rong
ruổi ngàn dặm về Kim Lăng để thọ giáo, "họ đều là tiêu lĩnh của bốn bể,
người tài trong đời và tay giỏi trong đạo" (42). Năm Vĩnh Minh thứ nhất
(483), Ngài đến ở chùa Vân Cư hạ tại Chung sơn và được mời làm công tác
điều khiển Tăng chúng. Uy tín của Ngài càng vang xa do sự uyên bác, đức
hạnh và phong thái đạm bạc nơi Ngài, nên hàng ngàn người ở kinh đô tìm
đến cầu pháp. Cuộc sống của Ngài thường giản dị và đơn sơ, thích sự tĩnh
lặng. Hễ ai cúng dường đồ ngon vật đẹp, Ngài liền phân phát cho người
nghèo và kẻ đau ốm. Cuối đời, Ngài đến ẩn cư trong núi rừng, không giao
thiệp với thế cuộc cao sang cho đến khi mất ở tuổi 70, năm Ðại Thông thứ
nhất, tức năm 527.
Là người Việt Nam
(Giao Chỉ), trên danh nghĩa đang bị nội thuộc và thường bị miệt thị là
"Nam di" (mọi rợ phương Nam), nhưng sử sách Trung Quốc vẫn dành những
lời hết sức trân trọng khi viết về Ngài, về tài năng và đức hạnh, những
đóng góp của Ngài đối với sự phát triển của Phật giáo tại đất nước này
cũng đủ thấy bản lĩnh sự ảnh hưởng của Ngài là lớn và rất sâu đậm đối
với sự phát triển của Phật giáo tại Trung Quốc.
Trên đây là hai
gương mặt nổi bật của Phật giáo Việt Nam sống vào cuối thế kỷ thứ V và
đầu thế kỷ thứ VI hiện biết được, các ngài Huệ Thắng và Ðạo Thiền, những
thành quả cuối cùng của nền giáo dục Phật giáo theo truyền thống mà các
Phật tử, Tăng sĩ tiền nhân đã kiến thiết. Họ sinh ra và sống trong tình
hình Phật giáo Việt Nam đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng, tình
trạng khủng hoảng niềm tin đối với nền Phật giáo do các ngài Mâu Tử và
Khương Tăng Hội gầy dựng; để cứu vãn nền Phật giáo ấy, họ đã có những nỗ
lực, thậm chí cả đến việc tự thiêu như ngài Ðàm Hoằng, dẫu vậy cũng
không thể vực nó dậy trước xu thế mới của thời đại, xu thế tự ý thức khả
năng tiềm tàng ngay trong bản thân và ý thức xây dựng nền độc lập tự
chủ cho dân tộc, mà cao điểm của nó là phong trào khởi nghĩa của Lý Bôn
thành công dẫn đến sự kiện xưng đế của ông năm 544, khai sinh đất nước
độc lập Vạn Xuân tồn tại hơn nửa thế kỷ (544-603).
Nhà nước độc lập
Vạn Xuân ra đời với sự kiện xưng đế của Lý Bôn năm 544 là một sự kiện
trọng đại đánh dấu một bước ngoặt mới của lịch sử dân tộc, một thời đại
phát triển mới của Phật giáo Việt Nam. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu sơ
lược trong các phần sau./.
* Chú thích:
(1) Sau những công trình mở đường trước năm 1975, như khuyết danh, Phật giáo Nam lai khảo (1928); Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en dès orgigines au XIII e-siècle (1932); Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược (1943); Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận tập I; v.v...một số cố gắng nghiên cứu trong lĩnh vực này được công bố như Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận tập II (1978), tập III (1985); Viện Triết học, Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1988), bản này sau đó được dịch sang chữ Anh và chữ Pháp.
(2) Tập 1, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế thực hiện, Nxb. Thuận Hóa, 1999.
(3) Tác phẩm bằng
chữ Hán, trước đây thường được xem là khuyết danh, nhưng theo học giả Lê
Mạnh Thát thì có thể là do Thiền sư Kim Sơn soạn, niên soạn là năm Ðinh
Sửu Khai Hựu (1337). Tham khảo Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999.
(4) Xem Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb. TPHCM, 1999, trang 203-204.
(5) Xem tiểu sử Thiền sư Thông Biện, Thiền uyển tập anh.
(6) Xem Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Nxb.Thuận Hóa, 1999, trang 23-27.
(7) Sđd, trang 36.
(8) Sđd, trang 38-45.
(9) Sđd, trang 61-70.
(10) Xem Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu về Mâu Tử, tập 1, Tu thư Vạn Hạnh ấn hành, 1982.
(11) Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, trang 213-283.
(12) Chính quyền độc lập của Chu Phù - Sĩ Nhiếp tồn tại khoảng thời gian 180 -197.
(13) Sđd, trang 293.
(14) Ðiều 2 của Lý hoặc luận. Xem Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu về Mâu Tử, tập II, Tu thư Vạn Hạnh, 1982, trang 443.
(15) Do Huệ Hạo soạn vào đời Lương.
(16) Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng của Phật giáo.
(17) Kho tàng điển huấn của Nho giáo, gồm Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu.
(18) Dẫn lại theo bản dịch của Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, trang 300.
(19) Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, trang 317.
(20) Xem Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội toàn tập, tập I, Tu thư Vạn Hạnh, 1975.
(21) Theo Phí Trương Phòng, Lịch đại tam bảo ký, soạn năm 597 (Khai Hoàng thứ 17, đời Tùy). Dẫn lại theo Lê Mạnh Thát, Sđd,
trang 119. Về danh mục các tác phẩm do ngài Khương Tăng Hội dịch, chú
giải hoặc trước tác có sự sai khác về số lượng, nhưng cơ bản vẫn không
có gì sai khác mấy, chủ yếu là do khác quan điểm phân loại.
(22) Một bộ kinh
thuộc tư tưởng Phật giáo Ðại thừa, nói về hạnh Lục độ ba-la-mật, do ngài
Khương Tăng Hội dịch sang chữ Hán. Có ý kiến cho rằng nó được dịch từ
Phạn bản. Nhưng bằng những nghiên cứu và đối chiếu về ngữ học, học giả
Lê Mạnh Thát khẳng định là Khương Tăng Hội đã dịch bộ kinh này từ một
bản tiếng Việt, lưu hành ở nước ta từ thế kỷ I đến thế kỷ II và có thể
là sớm hơn. Xem Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, 1972.
(23) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, trang 321.
(24) Sđd, trang 364-365.
(25) Sđd, trang 364-365
(26) Còn gọi là Ðạo Hinh, hay Sa môn Trúc Ðạo Thanh.
(27) Bản chữ Việt nay đã mất.
(28) Theo học giả
Lê Mạnh Thát thì Chi Cương Lương Tiếp tiếng Phạn là Kalyànàsiva, khác
với Chi Cương Lương Lâu sống ở Quảng Châu khoảng 266 mà nhiều người đã
đồng hóa. Xem Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, mục Chi Cương Lương Tiếp, trang 279-283.
(29) Quan niệm về
Không được bàn luận sôi nổi, đưa đến sự hình thành các trường phái với
các cách luận giải khác nhau, như là: 1. Vốn không nên không (bản vô),
do Thích Ðạo An chủ trương; 2. Vốn không khác nên không (bản vô dị), do
Trúc Pháp Thâm chủ trương; 3. Không tức sắc (tức sắc), do Chi Ðạo Lâm đề
xướng; 4. Lật đổ mê hoặc diệt được thức thì thấy ba cõi là không (thức
hàm), do Vu Pháp Khai chủ trương; 5. Huyễn hóa là không (huyễn hóa), do
Thích Ðạo Nhất khởi xướng; 6. Tâm không thì gọi là không (tâm không), do
Trúc Pháp Ôn đứng đầu; 7. Nhân duyên tập hợp nên gọi là không (duyên
hội), do Vu Ðạo Thúy chủ trương.
(30) Thuộc Minh hoằng tập do ngài Tăng Hựu (445-519) kết tập, Ðại Chính tân tu Ðại tạng kinh 2102.
(31) Trong lá thư
thứ tư, ngoài danh xưng "sứ quân", Pháp sư Ðạo Cao đã gọi ám chỉ Lý Miễu
là "cư đại bảo chi địa" (ở vào địa vị của một bậc thiên tử); và trong
lá thư thứ hai, khi nhắc đến học thức của ông, Pháp sư dùng bốn chữ
"thánh tư uyên viễn", nghĩa là suy nghĩ của một bậc thánh, một bậc đế
vương...
(32) Còn gọi là Bạch hắc luận, hay Quân thánh luận, được viết vào khoảng năm 433. Với quan điểm trong Quân thiện luận,
những đóng góp cho Phật giáo của sư Huệ Lâm là đáng ghi nhận. Một mặt,
sư là người dám nói lên thực trạng của Phật giáo Trung Quốc đương thời,
quá nặng về hình thức và tín ngưỡng mà không quan tâm đến vấn đề xây
dựng đời sống xã hội thiết thực hiện tại; mặt khác, với thuyết "thù đồ
đồng quy", sư là một trong những người tiên phong trong xu hướng địa
phương hóa Phật giáo, đồng thời xây dựng một lý thuyết xã hội dấn thân
cho nó, khiến cho Phật giáo gắn bó với sự thịnh suy của một xứ sở nhất
định.
(33) Khác đường nhưng cùng đích đến.
(34) Nạn Phật bất kiến hình sự (Thắc mắc về việc tại sao không thấy hình Phật thị hiện giữa đời).
(35) Thuyết cảm ứng
được Pháp sư Ðạo Cao quan niệm trong bức thư trả lời như sau: " ...Quên
mình và đem hết lòng thành thì có cảm, có cảm tất có thấy, không có cảm
thì không thấy,người có thấy đem (điều thấy được) nói với người không
thấy thì rốt cuộc người không thấy cũng không tin (sự) có thấy, (nên)
thánh nhân đâu phải là không thường ở với chúng sinh, đâu phải là không
thường thấy." Rõ ràng, cơ sở lý luận của quan điểm này được xây dựng
trên quan niệm về Phật trong kinh Pháp Hoa có ở nước ta khoảng hai trăm
năm trước, qua bản dịch Pháp Hoa tam muội của các ngài Chi Cương Lương Tiếp và Ðạo Thanh.
(36) Một vị Tăng
Trung Quốc, không biết chính xác năm sinh. Xuất gia từ nhỏ, sư đặc biệt
giỏi về Luật học. Sư đến nước ta, tu tại chùa Tiên Sơn vào khoảng năm
425, chuyên trì tụng các kinh Vô lượng thọ, Thập lục quán... với
ước nguyện vãng sinh về thế giới Cực lạc. Sư hai lần tự thiêu, lần thứ
nhất bất thành do học trò phát hiện và dập tắt lửa giữa chừng, lần thứ
hai vào năm 455. Sau khi sư tịch, nhiều người kể lại rằng thấy sư thân
vàng sắc vàng, cưỡi một con nai vàng đi về phía Tây rất gấp, không nói
gì. Ngài Ðàm Hoằng được biết là một người có công trong việc truyền bá
tư tưởng Tịnh độ ở nước ta sớm nhất.
(37) Chữ dùng của học giả Lê Mạnh Thát trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam.
(38) Sách Cao tăng truyện viết: "Học các quán hạnh".
(39) Lưu Hội
(547-502), thuộc gia đình quyền quý ở Trung Quốc thời bấy giờ, làm quan
dưới trướng của Dự Chương vương Tiêu Dạo Ngung đến chức Lục sự, nhưng về
sau do có những xích mích và sợ liên lụy nên xin đi làm tướng quận Nam
Khương khoảng năm 485. Ông là người thông minh nhạy bén, có văn nghĩa và
giỏi ứng đối hơn người.
(40) Huệ Hạo trong Cao tăng truyện, về tiểu sử Huệ Thắng.
(41) Một tác phẩm
lịch sử quan trọng của Phật giáo Trung Quốc, do nhà viết sử Phật giáo
Trung Quốc là Ðạo Tuyên soạn vào đời Ðường.
(42) Tục cao tăng truyện.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1-
Hãy trình bày những sự kiện liên quan đến thời điểm du nhập của Phật
giáo vào Việt Nam, và qua đó cho biết tổ tiên chúng ta đã tiếp nhận Phật
giáo như thế nào?
2- Trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta là gì, phát triển ra sao?
3-
Hãy trình bày về một gương mặt người Phật tử Việt Nam nổi bật trong
thời đại Phật giáo này, từ đó nói sơ lược về tình hình của Phật giáo
giai đoạn mà nhân vật đó sống.
4- Sự kiện "sáu lá thư" mang ý nghĩa như thế nào trong lịch sử Phật giáo Việt Nam? |