Phần II - Bài 3
Giới thiệu học thuyết phân kỳ về hệ thống phán giáo
Khải Thiên
Nội
dung của bài này sẽ giới thiệu khái quát về học thuyết Phân kỳ và hệ
thống Phán giáo. Ðây là cách thức tiếp cận hệ thống giáo lý Phật giáo
rất quan trọng, giúp học viên nắm rõ tiêu chí cơ sở của các bộ kinh
thuộc Nam tạng và Bắc tạng. Bài này sẽ là bước mở đầu để học viên đi vào
nội dung cơ bản của một số tông phái của đạo Phật tiếp theo.
A- Dẫn nhập
Học thuyết Phân kỳ
và hệ thống Phán giáo (của Phật học Trung Hoa) có thể nói là một phương
pháp tiếp cận lịch sử-tư tưởng có hệ thống và rất bao quát. Các giai
đoạn trong lịch sử Phân kỳ và Phán giáo, ở đó phần lớn các tư tưởng đã
được hệ thống hóa hoàn chỉnh. Một cách tương đối, nó giúp chúng ta nắm
bắt và xác định các học thuyết cơ bản của các giai đoạn đáng chú ý trong
tiến trình lịch sử-tư tưởng triết học Phật giáo. Vì lẽ đó, ngày nay khi
nghiên cứu Phật học, phần lớn đều dựa vào phương pháp tiếp cận này.
B- Nội dung
I.- Học thuyết phân kỳ - Lịch sử tư tưởng
Một trong những học
thuyết Phân kỳ nổi tiếng được các nhà Phật học chuyên môn, đặc biệt là
về tánh Không luận như T.R.V. Murti, Ed. Conze, J. May... đánh giá rất
cao, đó là học thuyết của Stcherbatsky, một nhà luận lý học Phật giáo
(1).
Trong những trang đầu của tác phẩm "Logic học Phật giáo", cũng như trong quyển "The Conception of Buddhist Nirvana"
(Khái niệm về Niết bàn Phật giáo), ông đã có những nhận định chính xác
và toàn diện về bối cảnh lịch sử-tư tưởng của Phật giáo tại Ấn Ðộ. Và
theo Stcherbatsky, lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn Ðộ có thể được
chia thành 3 thời kỳ chính cộâng với một số tư tưởng trung tâm của mỗi
thời kỳ. Các giai đoạn của lịch sử được bắt đầu và kết thúc trong vòng
1.500 năm, kể từ 500 năm trước Tây lịch. Và mỗi 500 năm là một thời kỳ,
gồm có: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ.
1- Thời kỳ thứ nhất (500 năm tr.TL)
Sơ kỳ
- Thời kỳ này, triết học Phật giáo được gọi chung là "đa nguyên luận" -
phủ định về Ngã thể. Ở đây, khi nói đến từ Ða nguyên luận là nhằm chỉ
đến cách thức phân tích các "pháp" hiện hữu trên cơ sở của 5 uẩn, 12 xứ
và 18 giới. Và cũng trên cơ sở của các uẩn, xứ, giới này, Phật giáo hoàn
toàn phủ nhận về Ngã thể bất biến - (Unreality of the Ego).
2- Thời kỳ thứ hai (500 năm sau TL)
Trung kỳ
- Thời kỳ này, triết học Phật giáo được gọi chung là "Nhất nguyên luận"
- phủ định về pháp - pháp vô ngã (Unreality of the Elements of
existence). Triết gia xuất sắc trong thời kỳ này là Luận sư Long Thọ,
người xiển dương về tánh Không luận - tất cả pháp vốn không có tự tính.
3- Thời kỳ thứ ba (500 năm kế tiếp)
Hậu kỳ
- Thời kỳ của "Quan niệm luận", do hai Luận sư Vô Trước (Asanga) và Thế
Thân (Vasubandhu) xiển dương triết học Duy thức - tất cả pháp đều được
xem như là sự biểu hiện của tâm thức, chúng không có tự ngã, và do đó,
sự hiện hữu của chúng là không thực (Unreality of the External world).
Trong bảng (số 3) phân kỳ này, mục đích của Giáo sư Takakusu là đưa Không luận của Harivarman (3) lên trên Long Thọ.
Trên đây là một số
nét cơ bản của sự phân kỳ trong tiến trình phát triển của lịch sử-tư
tưởng Phật giáo Ấn Ðộ. Như thế, trong suốt 1.500 năm này là thời kỳ phát
triển hưng thịnh của Phật giáo Ấn Ðộ. Và từ đó, kéo dài cho đến thế kỷ
thứ XI TL thì Phật giáo Ấn Ðộ rơi vào suy vong. Có điều, chúng ta nên
nhớ rằng, trước khi Phật giáo Ấn Ðộ đi vào thời kỳ suy vong, thì mọi sự
phát triển của nó đã được truyền sang các nước (theo hai hướng Nam
truyền và Bắc truyền) khác. Và tất nhiên, trong sự truyền thừa đó, có cả
những phát triển khác biệt mà nó được nảy sinh từ Ấn Ðộ. Trong trường
hợp này, có thể nói tại Trung Hoa là nơi có những bước phát triển mới
làm cho nền Phật học trở nên hoàn thiện, đặc biệt là quá trình hệ thống
hóa các tư tưởng dị đồng được du nhập từ Phật giáo Ấn Ðộ. Ðiều này được
trình bày cụ thể trong hệ thống phán giáo của Phật học Trung Hoa.
II.- Hệ thống phán giáo Phật học Trung hoa
Phán giáo cũng có
nội dung và tính chất như phân kỳ, nhưng phần lớn nó được tập trung vào
hệ thống giáo lý, kinh điển. Nếu, nói một cách chính xác thì lịch sử
phán giáo bắt nguồn từ Ấn Ðộ vào thời đại của ngài Giới Hiền và Trí
Quang, hai vị Luận sư này đều phân chia giáo lý Phật giáo theo ba thời
giáo khác nhau, như được tìm thấy trong Pháp tướng tông (của ngài Giới
Hiền) và Tam luận tông (của ngài Trí Quang) (4). Tuy nhiên, khi Phật
giáo truyền sang Trung Hoa, thì phần lớn đều được hình thành qua hình
thức tông phái, và trên cơ sở của mỗi tông phái mà hệ thống phán giáo
được tổ chức khác nhau, theo hình thức khởi nguyên từ Ấn Ðộ.
Hệ thống phán giáo
Phật học Trung Hoa, như đã đề cập, bắt đầu từ thời đại Nam Bắc triều (5)
(cũng gọi là thời đại Lục triều), các nhà Phật học đã tổ chức hệ thống
phán giáo khởi đầu, thông qua việc nghiên cứu kinh Niết Bàn mà ngài Ðạo
Sinh đề xuất học thuyết "đốn ngộ thành Phật", và ngài Tuệ Quán đề xuất
học thuyết "đốn tiệm bất địch", và học thuyết của Tuệ Quán được xem là
một trong những sự khởi xướng hệ thống Phán giáo đầu tiên của nền Phật
học Trung Hoa mà đời sau gọi là "Nam tam - Bắc thất" (ba hệ thống phán
giáo ở phương Nam và bảy hệ ở phương Bắc).
A/- Ba hệ thống phán giáo ở Giang Nam
a)- Hệ thống một (do Pháp sư Hổ Khưu Sơn Cập lập thành) - có ba pháp luân:
1- Ðốn giáo: Kinh Hoa Nghiêm
2- Tiệm giáo:
Hữu tướng giáo: (11 năm thuyết giáo của Phật sau thời Hoa Nghiêm)
Vô tướng giáo: (12 năm sau cho đến thời Pháp Hoa)
Thường trụ giáo: (thời Niết bàn)
3- Bất định giáo: Các kinh điển ngoài đốn, tiệm như luật, kinh Thắng Man, Giải Thâm Mật...
b)- Hệ thống hai (do Pháp sư Tăng Ai lập thành) - có ba pháp luân:
1- Ðốn giáo: (như hệ thống một)
2- Tiệm giáo:
Hữu tướng giáo: (như hệ thống một)
Vô tướng giáo: (12 năm sau Phương Ðẳng và Bát Nhã)
Ðồng qui giáo: (thời Pháp Hoa)
Thường trụ giáo: (thời Niết bàn)
3- Bất định giáo: (như hệ thống một)
c)- Hệ thống ba (do Tăng Nhu, Huệ Thứ, Huệ Quán lập thành) - có ba pháp luân:
1- Ðốn giáo: (như hệ thống một)
2- Tiệm giáo:
Hữu tướng giáo: (như hệ thống một)
Vô tướng giáo: (Bát Nhã)
Ức dương giáo: (Phương Ðẳng)
Ðồng qui giáo: (như hệ thống một)
Thường trụ giáo: (như hệ thống một)
3- Bất định giáo: (như hệ thống một)
B/- Bảy hệ thống phán giáo ở Giang Bắc
a)- Hệ thống một (Hoặc Sư lập) - có năm pháp luân:
1- Nhân thiên giáo: (Ðề-vị-bà-lợi)
2- Vô tướng giáo: (Tịnh độ)
3- Ðốn giáo: (Hoa Nghiêm)
4- Tiệm giáo: (Phương Ðẳng)
5- Bất định giáo: (như trước)
b)- Hệ thống hai (Bồ Ðề Lưu Chi lập) - có hai pháp luân:
1- Tiên giáo bán tự: (12 năm trước - Tiểu thừa giáo)
2- Hậu giáo mãn tự: (12 năm sau - Ðại thừa giáo)
Bán tự và mãn tự -
dụ cho trẻ con khi mới học thì trước hết dạy nửa chữ (tiên giáo bán tự),
rồi sau đó mới dạy tiếp nguyên chữ (hậu giáo mãn tự).
c)- Hệ thống ba (Quang Thống lập)
Hệ thống này do ngài Giác Hiền, Huệ Quang đề xuất, có 4 tông:
1- Nhân duyên tông: (thuộc Tiểu thừa - Hữu bộ, chủ thuyết Tứ nhân lục duyên)
2- Giả danh tông: (thuộc Thành Thật tông, chủ thuyết Thành Thật
luận: giảng về Tam giả - Nhân thành giả, Tương tục giả, Tương đãi giả)
3- Cuống tướng tông: (học thuyết Tam luận - Nhất thiết pháp không - Tính không luận)
4- Thường tông: (giáo lý Hoa Nghiêm và Niết bàn)
d)- Hệ thống bốn (Hoặc Sư lập) - có năm tông:
1- Nhân duyên tông: (A Tỳ Ðàm)
2- Giả danh tông: (Thành Thật)
3- Cuống tướng tông: (Tam luận)
4- Thường trụ tông: (Niết bàn)
5- Pháp giới tông: (Hoa Nghiêm)
e)- Hệ thống năm (Pháp Sư ở Kỳ Xà) - có sáu tông:
1- Nhân duyên tông: (A Tỳ Ðàm)
2- Giả danh tông: (Thành Thật)
3- Cuống tướng tông: (Tam luận)
4- Thường trụ tông: (Hoa Nghiêm - Niết bàn)
5- Chân tông: (Pháp Hoa)
6- Viên tông: (Ðại Tập)
f)- Hệ thống sáu (Hoặc Sư lập) - có hai tông:
1- Hữu tướng Ðại thừa
2- Vô tướng Ðại thừa
g)- Hệ thống bảy (Hoặc Sư lập) - có một tông:
Nhất âm giáo: (Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo đó mà hiểu biết về giáo pháp khác nhau).
Trên đây là phần trình bày đại cương về "Nam tam - Bắc thất" - sự khái lược hóa về các hệ thống phán giáo Phật học Trung Hoa.
C/- Hệ thống phán giáo của các tông phái Ðại thừa
Khi các tông phái
Ðại thừa Phật giáo hình thành tại Trung Hoa, thì mỗi tông phái lại tổ
chức hệ thống phán giáo đặc thù theo tư tưởng của từng tông phái. Theo
truyền thống lịch sử Phật giáo Trung Hoa, các tông phái chính có hệ
thống phán giáo được thành lập như sau:
1- Pháp tướng tông
Tông phái này y cứ
trên cơ sở của kinh Giải Thâm Mật rồi đem giáo pháp của Phật chia làm ba
pháp luân (ba lần chuyển pháp luân của Phật).
a)- Pháp luân I: Phật nói về Hữu (Hữu giáo)
b)- Pháp luân II: Phật nói về Vô (Không giáo)
c)- Pháp luân III: Phật nói về Trung đạo (Trung giáo)
- Hữu giáo là giáo lý thời Nguyên thủy và Bộ phái
- Không giáo là giáo lý tiền Ðại thừa và Ðại thừa
- Trung giáo là giáo lý Ðại thừa và hậu Ðại thừa
* Pháp luân I: Giáo lý cơ bản là 4 thánh đế và 12 nhân duyên
* Pháp luân II: Giáo lý cơ bản là "Nhất thiết pháp không"
* Pháp luân III: Giáo lý cơ bản là "Trung đạo đế"
Hai pháp luân đầu,
Phật nói về pháp phương tiện và bất liễu nghĩa (khế lý, khế cơ). Pháp
luân thứ ba, Phật nói về pháp liễu nghĩa - chân thật tối thượng - Chủ đề
cơ bản là Trung đạo: - 3 tự tính và 3 vô tính (tam tính và tam vô
tính).
Về kinh điển, người đời sau đối chiếu như vầy:
* Pháp luân I: Gồm 4 bộ A Hàm ~ 4 bộ Nikàya
* Pháp luân II: Gồm kinh Bát Nhã (không tông)
* Pháp luân III: Gồm kinh Giải Thâm Mật, Hoa Nghiêm...
2- Tam luận tông
Tông phái này phân chia giáo pháp của Phật làm hai tạng và ba pháp luân:
- Hai tạng (Tùng pháp giảng): Thinh Văn tạng , Bồ Tát tạng
- Ba pháp luân (Tùng nhân giảng): Pháp luân gốc, Pháp luân ngọn, Pháp luân ngọn về gốc
- Thinh Văn tạng: gồm các kinh A Hàm và Nikàya
- Bồ Tát tạng: gồm các kinh Ðại thừa
* Pháp luân gốc: Phật nói kinh Hoa Nghiêm
* Pháp luân ngọn: Phật nói kinh A Hàm đến Phương Ðẳng
* Pháp luân ngọn về gốc: Phật nói kinh Pháp Hoa
Hệ thống Phán giáo này do Cát Tạng đề xuất.
3- Thiên thai tông
Tông phái này chia giáo pháp của Phật thành ngũ thời, bát giáo.
Ngũ thời:
Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng (Duy Ma, Lăng Già...), Bát Nhã, Pháp Hoa -
Niết Bàn. Năm thời tương ứng với năm vị (của kinh Niết Bàn): Sữa tươi
(ngưu nhũ), Váng sữa (lạc), Váng bơ (sinh tô), Bơ kết (thục tô), Bơ lỏng
(đề hồ). Ðề hồ là tối thượng trong 5 vị, và kinh Pháp Hoa, Niết Bàn
được ví như đề hồ - tối thượng trong các kinh.
Bát giáo:
- 4 hóa nghi (Hóa nghi tứ giáo) [4 phương pháp giáo hóa]
1- Ðốn
2- Tiệm
3- Bí mật
4- Bất định
- 4 hóa pháp (Hóa pháp tứ giáo) [4 nội dung giáo lý cơ bản]
1- Tạng giáo
2- Thông giáo
3- Biệt giáo
4- Viên giáo
Tứ giáo:
- Tạng giáo: hệ thống kinh điển A Hàm và Nikàya
- Thông giáo: hệ thống kinh điển xuyên thông cả Tam thừa
- Biệt giáo: giáo lý đặc biệt dành cho đối tượng đặc biệt, như hàng Bôì tát, (Lục độ, Nhị đế v.v...)
- Viên giáo: giáo lý viên dung - nhất thừa, chỉ cho kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Pháp Hoa
Tứ nghi:
- Ðốn giáo: giáo lý đốn ngộ, dành cho hàng trí giả - Ðại thừa
- Tiệm giáo: giáo lý được giảng tùy theo trình độ, căn cơ (các kinh A Hàm, Phương Ðẳng)
- Bí mật: giáo lý đặc thù dành cho đối tượng đặc thù (không phải ai cũng được nghe và hiểu được)
- Bất định: cùng một giáo lý, cùng một pháp hội nhưng chỗ này là đốn giáo, chỗ kia là tiệm giáo - tùy theo trình độ mà nói.
Ở đây, có một vấn
đề. Tương truyền, ngũ thời bát giáo là do ngài Trí Khải (6), đệ tử của
Huệ Tư, sáng lập. Nhưng học giả Sekiguchi Shindai trong bài viết "Khởi nguyên ngũ thời bát giáo" (Goji hakkyo kyohanron no kigen) (xem Taisho daigaku kiyo, tr.1-15 (1975)) cho rằng chính Trạm Nhiên (711-782) là người hệ thống hóa phán giáo này (?).
4- Hoa nghiêm tông
Tông phái này do sư Ðỗ Thuận, Trí Nghiễm và Pháp Tạng thành lập. Giáo pháp được chia thành 5 giáo, 10 tông.
* Năm giáo:
1- Tiểu thừa giáo:
giáo lý cho hàng Thanh văn, như A Hàm, A Tỳ Ðàm luận, Thành Thật luận;
2- Ðại thừa sơ giáo: giáo lý cho hàng Ðại thừa, như Trung Quán luận, Du
Già Sư Ðịa luận...; 3- Ðại thừa chung giáo: giáo lý cho hàng Ðại thừa
cao cấp, như kinh Lăng Già, Thắng Man...; 4- Ðại thừa đốn giáo: giáo lý
cho hàng Ðại thừa ưu tú, như Thiền tông...; 5- Nhất thừa viên giáo: giáo
lý viên dung, tối thượng, như kinh Hoa Nghiêm...,
Nhất thừa viên giáo có hai loại:
a)- Nhất thừa đồng giáo: tương ứng với Tam thừa (kinh Pháp Hoa)
b)- Nhất thừa biệt giáo: khác với Tam thừa (kinh Hoa Nghiêm)
* Mười tông: (10 học thuyết cơ bản của Phật giáo Bộ phái và Ðại thừa)
Sáu học thuyết của Phật giáo Bộ phái:
1- Tông Ngã pháp
đều có: thuộc giáo lý của Ðộc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chính
lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Kê dân bộ trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái.
2- Tông Ngã không pháp có: thuộc giáo lý của Nhất thiết hữu bộ, Tuyết sơn bộ, Ẩn quang bộ, Kinh lượng bộ.
3- Tông Pháp không
khứ lai: thuộc quan niệm "Hiện tại hữu thể, quá vị vô thể" của Hóa địa
bộ, Pháp tạng bộ, Ðại chúng bộ, Ða văn bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ
bộ, Bắc sơn trụ bộ.
4- Tông Hiện thông giả thật: thuộc quan niệm "Chân giả tịnh hữu" của Thuyết giả bộ.
5- Tông tục vọng chân thật: Quan niệm của thuyết Xuất thế bộ.
6- Tông chư pháp giả danh: Quan niệm "Tam thế chư pháp giả danh vô thể" của Nhất thuyết bộ.
Bốn học thuyết của Ðại thừa:
7- Tông "Nhất thiết pháp không": thuộc Ðại thừa thỉ giáo.
8- Tông "Chư pháp thực tướng": thuộc Ðại thừa chung giáo.
9- Tông "Tướng và Tưởng đều không": thuộc Ðại thừa đốn giáo.
10- Tông "Như thị - viên mãn": thuộc Nhất thừa viên giáo (7).
Trên đây là các
tông phái có hệ thống phán giáo cụ thể. Còn Thiền tông, Tịnh độ tông và
Mật tông (Chân ngôn tông) thì hệ thống phán giáo không cụ thể và cũng
khá đa diện. Tuy nhiên, với ba tông này, chủ yếu là đi vào tu tập thực
tiễn. Do đó, nếu lập phán giáo thì phải lập theo một thể cách đặc thù
của nó.
Riêng về phần phán
giáo như vừa trình bày trên đây, chúng ta thấy lộ rõ một điều ở các hệ
thống phán giáo, đó là sự tương quan thống thiết giữa nhận thức của con
người và chân lý thực tại. Bởi lẽ, nhận thức của con người thì bất khả
thuyết - có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu nhận thức khác nhau. Ở đây,
sẽ không bao giờ có bất kỳ một khuôn mẫu tư duy nào có thể dùng cho mọi
người; cũng như, tất cả mọi người đều mang giày, nhưng không thể có một
đôi giày nào khả dĩ được dùng cho tất cả mọi người. Vả lại, chân lý
thực tại cũng chỉ có Một, Ðông phương hay Tây phương, đều chỉ có Một và
chỉ Một mà thôi. Vì lẽ đó, vấn đề được đặt ra ở đây là: chân lý luôn
luôn, lúc nào, và ở đâu, cũng bình đẳng trước mọi người; và, làm thế nào
để mọi người có thể trực nhận được chân lý? Ðây là lý do tại sao Phật
tử Trung Hoa đề xuất và tổ chức các hệ thống phán giáo. Nó xuất hiện như
là sự nối kết các nhịp cầu phương tiện để giúp người sang sông. Từ đó,
ba thừa phân đốn, tiệm, quyền, thật tất cả đều viên dung. Ðây là phương
tiện thiện xảo để mỗi người với căn tánh và trình độ khác nhau đều có
thể tu tập Phật giáo. Có thể tóm tắt ý nghĩa trên qua phát biểu của Long
Thọ như sau: "Nếu không nương tục đế, thì không thể đạt đến chân lý.
Nếu không đạt đến chân lý, thì không thể hiểu được Phật pháp" (8)./.
Ghi chú: Học viên đọc thêm cuốn"Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo" của tác giả Thích Tâm Thiện (phần Lược sử các bộ phái Phật giáo); cuốn "Lịch sử tư tưởng và triết học tánh Không" của tác giả Thích Tâm Thiện (phần Học thuyết Phân kỳ và hệ thống Phán giáo); "Tâm lý học Phật giáo" của tác giả Thích Tâm Thiện (phần Ðại cương triết học Duy thức)./.
* Chú thích:
(1)
T.H.Stcherbatsky sinh ngày 19-9-1855 ở Keltse, Ba Lan (bấy giờ thuộc
Nga), trong một gia đình công chức khá giả. Tại Ðại học Saint
Petersburg, năm 1885, ông học các ngôn ngữ Ấn-Âu dưới sự hướng dẫn của
GS Minayeff và S.Oldenberg. Năm 1888, ông đến Viene (Áo) để học
Sanskrit. Từ 1893-1900, ông tập trung nghiên cứu Phật học. Ông có nhiều
tác phẩm: "The Theory of knowledge and logic in the doctrine of later Buddhism" xuất bản năm 1903 bằng tiếng Nga; "Buddhist Logic"
2 tập, tác phẩm này được Thủ tướng Nehru (Ấn Ðộ) đánh giá cao như một
tác phẩm về logic học xuất sắc nhất được xuất bản trong vòng hai thế kỷ.
Ông là Giáo sư viện sĩ Hàn lâm viện Nga, thông thạo 6 thứ tiếng châu Âu
và tiếng Sanskrit, tiếng Tây Tạng. Những công trình của ông là sự cống
hiến vĩ đại cho nền Phật học Ấn Ðộ và châu Âu.
(2) Xem bản dịch "Các tông phái của đạo Phật" của Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr.192-193.
(3) Harlvarman, tác giả bộ "Thành Thật luận" (Satyasiddhi-sastra, 16 quyển). Ông là người thuộc Kinh Lượng bộ, sinh ở vùng Trung Êẽn, trong một gia đình Bà la môn. Trong "Thành Thật luận"
(gồm 202 phẩm), ở phẩm "Diệt Pháp Tâm", Harlvarman nói rõ về quan điểm
"Nhân-pháp đều là không". Quan điểm này có lẽ là được kế thừa từ học
thuyết "Quá, vị về thể hiện tại hữu thể" của Kinh Lượng bộ
(Sautràntika).
(4) Trí Quang
(Jnànaprabha), đệ tử của Thanh Biện theo dòng triết "Thật tướng luận"
của Long Thọ tại chùa Nalanda. Ngài là bậc tinh thông Tam tạng của Ðại
thừa và Tiểu thừa, nên tổng hợp lại giáo lý và lần đầu tiên lập ra hệ
thống Phán giáo gồm 3 hạng: a- "Tâm cảnh câu hữu giáo", b- "Tâm hữu cảnh
không giáo", c- Tâm cảnh câu không giới". Theo đó, Tiểu thừa Phật giáo
thuộc "Tâm cảnh câu hữu giáo"; giáo nghĩa của Vô Trước và Thế Thân thuộc
"Tâm hữu cảnh không giới"; và giáo nghĩa của Long Thọ thuộc về "Tâm
cảnh câu không giáo".
Giới Hiền
(Siladhadra), đệ tử của Hộ Pháp, nước Samatata, Trung Êẽn. Ngài học Duy
thức với ngài Hộ Pháp tại Nalanda, khi Huyền Trang sang Êẽn vào niên
hiệu Chính Quán, năm thứ 16, đời Ðường (636 TL). Huyền Trang đã thọ giáo
với ngài Giới Hiền tại Phật viện Nalanda, lúc đó, ngài Giới Hiền đã 106
tuổi. Vì ngài Giới Hiền là luận sư xiển dương Duy thức học, nên để đối
ứng lại Phán giáo của ngài Trí Quang, Giới Hiền lập ra ba thời giáo
khác, gồm: "Hữu giáo", "Không giáo" và "Trung giáo". Hữu giáo là giáo
nghĩa của Tiểu thừa, Không giáo là giáo nghĩa của Long Thọ, và Trung
giáo là giáo nghĩa của Vô Trước và Thế Thân. Trung giáo là ngôi vị cao
nhất trong ba thời giáo.
(5) Nhà Ðông Tấn
suy vong, các vương hầu kế tiếp nổi dậy, ở phương Nam có các triều
Lương, Tề, Tống, Trần; ở phương Bắc, nhà Ngụy thống nhất Ngũ Hồ và lập
thành Ðông Ngụy và Tây Ngụy, kế Ðông Ngụy là Bắc Tề, kế Tây Ngụy là Bắc
Chu; về sau, nhà Tùy thống nhất Nam Bắc, Nam triều ủng hộ Phật giáo, Bắc
triều ủng hộ Ðạo giáo. Cho đến thời Võ đế-Bắc Chu và Thái Võ đế-Ngụy,
Phật giáo rơi vào suy vong (xem Tôn giáo tỷ giảo - Thích Thánh Nghiêm).
(6) Trí Khải là tác
giả của nhiều kinh sớ, và 3 tác phẩm: a- Ma ha chỉ quán - 209, Pháp Hoa
huyền nghĩa - 109, và c- Pháp Hoa văn cú - 209, là 3 bộ chính yếu của
Thiên thai tông.
- Nguồn gốc truyền
thừa: Long Thọ-Bắc Tề Huệ Văn - Nam Nhạc Huệ Tư _ Thiên Thai Trí Khải -
Chương An quán đảnh - Tấn Văn Trí Oai - Tả Khê Huyền Lăng - Kinh Khê
Trạm Nhiên - Hưng Ðạo Ðạo Thúy - Chí Hành Quảng Tu - Chỉ Ðịnh vật ngoại -
Diệu thuyết Nguyên Tú - Cao Luận Thanh.
(7) Sự truyền thừa
của Hoa Nghiêm tông như sau: Bồ tát Mã Minh - Long Thọ _ Ðỗ Thuận - Trí
Nghiễm - Pháp Tạng (Hiền Thủ) - Thanh Lương - Tông Mật...
Dưới tay Pháp Tạng có 6 đồ đệ ưu tú, gọi là Lục triết: Trí Quang, Tông Nhất, Huệ Uyển, Huệ Anh, Hoằng Quán và Văn Siêu.
(8) Tục đế
(Samvrtti-satya) là chân lý của người còn vô minh, nó còn được gọi là
chân lý công ước, nó khác biệt với Chân đế (Paramàrtha-satya) - tức chân
lý tuyệt đối - là cảnh giới hiện quán của chư Phật. Hai chân lý này,
khi ứng dụng khéo léo, được gọi là "Nhị đế viên dung" - như qua bên kia
bờ thì phải dùng thuyền, con thuyền là Tục đế (mang ý nghĩa phương
tiện), và bờ bên kia là Chân đế (mang ý nghĩa cứu cánh).
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày sơ lược học thuyết Phân kỳ tư tưởng Phật giáo theo quan điểm của T.H. Stcherbatsky.
2- Tóm tắt những điểm cơ bản trong tổ chức hệ thống Phán giáo của Phật học Trung Hoa. |