Phần I - Bài 3
Phật giáo từ thời Trần Nhân Tông đến cận đại
Thích Tâm Hải
Từ
Trần Nhân Tông (ở ngôi 1279-1293) cho đến nay, Phật giáo nước ta về cơ
bản vẫn chịu những ảnh hưởng bởi những thiết định của nền Phật giáo do
dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, trực tiếp là nhà vua-thiền sư Trần Nhân
Tông, đệ nhất Tổ thiết lập. Chúng ta sẽ tìm hiểu thời kỳ này qua hai
giai đoạn: giai đoạn từ vua Trần Nhân Tông đến chúa Nguyễn Phúc Chu và
từ chúa Nguyễn Phúc Chu đến cận đại.
I. Phật giáo từ thời Vua Trần Nhân Tông đến Chúa Nguyễn Phúc Chu
Vua Trần Nhân Tông
là một trong những nhà lãnh đạo Phật tử có một vị trí hết sức quan trọng
không những đối với Phật giáo nước ta mà đối với cả dân tộc. Ngài là
nhà tư tưởng và là một nhà chính trị kiệt xuất. Trong thời gian lãnh đạo
đất nước, Ngài đã làm nên những trang sử vẻ vang cho dân tộc, đưa Phật
giáo Việt Nam phát triển đến chỗ cực thịnh. Phật giáo ở thời nhà Trần
được các tài liệu đề cập dưới nhiều góc độ, qua các gương mặt cự phách
như các vua Trần Thái Tông, người viết nhiều tác phẩm Phật học nổi tiếng
như Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa nghi, Kim cương tam muội kinh chú giải, Bình đẳng lễ sám văn;
Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230-1291), đệ tử của ngài Tiêu Diêu và
là thầy của vua Trần Nhân Tông, tư tưởng và hành trạng của Ngài được ghi
lại trong tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Phật giáo đời
Trần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, hiện có nhiều tài liệu để tham
khảo và những đánh giá đã khá toàn diện, nên ở đây chúng tôi chỉ nói sơ
một số điểm cần nhấn mạnh lại. Và, trước hết, chúng ta tìm hiểu đôi nét
về con người của ngài Trần Nhân Tông, những thiết định của nền Phật giáo
do Ngài thiết lập và nguyên nhân ra đời của dòng Thiền thứ tư, một dòng
thiền được xem là sản phẩm hoàn toàn của Việt Nam mà nó còn ảnh hưởng
đến tận hôm nay.
1. Ðôi nét về con người vua Trần Nhân Tông và sự ra đời của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
a. Ðôi nét về ngài Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông
tên là Trần Khâm (1258-1308), con của vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng),
lên ngôi năm 1278, đến năm 1293 thì tự nhường ngôi cho con là Trần Anh
Tông để làm thái thượng hoàng. Trong thời gian làm thái tử và ở ngôi,
Trần Nhân Tông đã hai lần lãnh đạo toàn dân đánh tan quân xâm lược
Nguyên- Mông năm 1285 và 1288. Trần Nhân Tông là một vị vua Phật tử
thuần thành, được học đạo trực tiếp với Tuệ Trung Thượng sĩ trong lúc
còn làm thái tử cũng như sau khi đã lên ngôi. Năm 1299, Ngài xuất gia,
vào tu ở núi Yên Tử và lấy pháp hiệu là Trúc Lâm cư sĩ, tự xưng là Hương
Vân đại đầu đà, người đời gọi Ngài bằng mỹ hiệu là Trúc Lâm Ðiều ngự
(1), Ðiều ngự Giác hoàng...
Là một nhà lãnh đạo
cao nhất của đất nước nhưng Trần Nhân Tông đã tự nhường ngôi lại cho
con để rút lui làm thái thượng hoàng. Tuy vậy, ngay cả khi đã xuất gia,
vai trò chính trị của Ngài vẫn không kém phần quan trọng. Ngài đã vân du
giảng Phật pháp tại nhiều trung tâm Phật giáo của nước ta thời bấy giờ,
như các chùa Phổ Minh, Sùng Nghiêm, Báo Ân, Vĩnh Nghiêm...và đi vào
quần chúng để truyền bá những nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo.
Sách Tam tổ thực lục chép rằng, năm 1304 Ngài "đi khắp các chốn
thôn quê, trừ bỏ các dâm từ và dạy dân thực hành thập thiện". Trước đó,
Ngài đã từng chống gậy vân du nhiều nơi, vào tận Bố Chính (Bố Trạch,
Quảng Trạch, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay), lập am Tri Kiến ở đây. Năm
1301, Ngài sang Chiêm Thành, gặp gỡ vua nước này và tạo được mối bang
giao hòa bình giữa hai nước bằng cách gả công chúa Huyền Trân cho vua
Chế Mân. Cuộc sang thăm đó đã đem về cho dân tộc thêm vùng đất rộng lớn
là hai châu Ô và Rí (2) mà không tốn một sinh lực nào.
Về việc xây dựng
giáo hội, Ngài đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn và đào tạo
người lãnh đạo kế tục là ngài Pháp Loa. Nền Phật giáo mà Ngài thiết định
là nền Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc và xây dựng một xã hội lành
mạnh theo nền tảng của mười thiện nghiệp. Những quan niệm về Phật giáo
của Ngài hiện biết được chủ yếu là qua các bài Cư trần lạc đạo phú và Ðắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Sách Tam tổ thực lục cho biết Ngài là tác giả của nhiều tác phẩm như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Trúc lâm hậu lục, Thạch thất mị ngữ, Ðại hương hải ân thi tập và Tăng già toái sự, nhưng đã thất lạc khá nhiều, hiện còn một số bài thơ được chép trong Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Ngài mất năm 1308 tại Yên Tử, thọ 51 tuổi.
b. Bối cảnh ra đời của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
Ở đời Trần, cả dân
tộc phải đối diện một mặt với các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đầy
cam go để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, và mặt khác là nhiệm vụ phục hồi
kinh tế, khai khẩn đất đai ở những vùng đất mới, ổn định đời sống của
nhân dân. Trước xu thế đó, mọi nguồn tinh lực của dân tộc đều được huy
động. Và đó là bối cảnh để dòng thiền Trúc lâm Yên tử ra đời.
Ngài Trần Nhân Tông
là người lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, và theo phả hệ thì dòng
thiền này xuất phát từ dòng thiền Vô Ngôn Thông. Bởi đệ nhất Tổ của Trúc
Lâm Yên Tử là học trò của Tuệ Trung Thượng sĩ. Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ
thì học đạo với ngài Tiêu Diêu, ngài Tiêu Diêu là đệ tử của ngài ng
Thuận thuộc thế hệ thứ XV của dòng thiền vô Ngôn Thông.
c. Ðặc điểm của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
Tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan niệm "tức tâm tức Phật". Trong bài phú Cư trần lạc đạo, ngài Trần Nhân Tông đã viết:
Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt
Chỉnh mới hay chính Bụt là ta.
Và trước đó, quan
niệm này đã được ngài Viên Chứng thức tỉnh vua Trần Thái Tông khi nhà
vua bỏ ngai vàng trốn vào núi để tìm đạo: "Trong núi vốn không có Phật.
Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là Phật" (3).
Tuệ Trung Thượng sĩ thì nói: " Khi mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì
ra Phật là ta" hay "Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng"
(4)...Chính quan niệm đó đã đánh thức sức sống mãnh liệt bên trong con
người thời bấy giờ và làm nên lẽ sống cao quý của thời đại, một thời đại
Phật giáo với nhiều sự kiện kỳ tích trong lịch sử, để lại nhiều kinh
nghiệm hết sức xương máu trong công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất
nước.
Nền tảng chung là
thế, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc điểm của phương pháp tu
hành ở dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp môn Thiền định mà bao gồm
cả yếu tố Tịnh độ. Theo ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà thì những pháp môn Tịnh độ
cũng chính là Thiền. Ðây có thể nói là đặc điểm của Thiền tông Việt
Nam. Trong Cư trần lạc đạo phú, Ngài viết:
Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác (...)
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương,
Di Ðà là tính soi sáng, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc...
Phật giáo ở đời
Trần nói chung và Phật giáo mà ngài Trần Nhân Tông thiết định nói riêng
là một nền Phật giáo nhập thế, đưa Phật pháp vào tận hang cùng ngõ hẻm
của xã hội và làm một chuẩn mực đạo đức, định hướng cho đời sống của
nhân dân. Và, như đã đề cập, nền tảng của nó được xây dựng trên cơ sở
của mười thiện nghiệp mà chính bản thân nhà vua sau khi xuất gia đã vân
du khắp nơi để quảng bá. Mẫu người Phật tử lý tưởng của nền Phật giáo
này là ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, với tư tưởng "hòa quang đồng trần", như
chính lời của ngài Trần NhânTông đã ca ngợi: "Thượng sĩ sống giữa lòng
thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc tiếp
xúc, Thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải
những trường hợp phiền nghịch (...) Thượng sĩ không bị ràng buộc với
hình thức; khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện...". Chúng ta lại gặp tư
tưởng này trong bài phú chữ Nôm nói về việc ở giữa đời sống bình thường
mà hành đạo (Cư trần lạc đạo phú) của chính vị Tổ khai sáng dòng thiền
này.
2. Về các ngài Pháp Loa, Huyền Quang và Kim Sơn
Pháp Loa
(1284-1330) tên đời là Ðồng Kiên Cương, xuất gia năm 21 tuổi, là người
được ngài Trần Nhân Tông chọn để lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm Yên Tử từ
khi Ngài còn rất trẻ, chỉ mới 24 tuổi (năm1308). Sau khi được giao phó
trọng trách đứng đầu giáo hội, Ngài đã có những cải cách về mặt tổ chức
đáng kể, với nhiều hoạt động Phật sự sôi nổi. Trong thời gian Ngài lãnh
đạo, số lượng Tăng sĩ và Phật tử tại gia, chùa tháp được Tăng lên rất
nhiều, phong trào tu học được đẩy mạnh và phổ biến trong các thành phần
xã hội, đặc biệt là ấn hành được Ðại tạng kinh. Ngoài ra, ngài Pháp Loa
còn là một tác gia lớn, người đã viết, biên soạn và biên tập khoảng 10
tác phẩm. Ðáng tiếc là nhiều tác phẩm của Ngài đã thất lạc.
Ngài Huyền Quang
(1254-1334) là một trong những người kế tục ngắn ngủi của ngài Pháp Loa,
thường được gọi là đệ tam Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, tên đời là
Lý Ðạo Tái, người tỉnh Bắc Ninh, từng thi đỗ và làm quan. Năm 51 tuổi
xuất gia, từng học Thiền với ngài Trần Nhân Tông, và phụ giúp Ngài soạn
một số sách, sau khi ngài Trần Nhân Tông mất thì theo ngài Pháp Loa.
Nếu ngài Pháp Loa
thường được nhắc đến với những tài năng về mặt lãnh đạo và xây dựng giáo
hội, thì ngài Huyền Quang được biết đến là một tác gia văn học lớn của
Phật giáo và nền văn học của dân tộc đời Trần.
Ngài Kim Sơn (1300-1370) cũng là một trong những đệ tử của ngài Pháp Loa, là nhà sử học Phật giáo lớn, tác giả của Thiền uyển tập anh, Thánh đăng ngữ lục...,
những bộ sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện sớm nhất trong lịch sử dân tộc
và Phật giáo nước ta, người đã có những đóng góp quan trọng để Phật
giáo phát triển mạnh mẽ. Tình trạng Phật giáo cuối thế kỷ XIV vẫn được
phát triển rầm rộ đến nỗi nhà nho Lê Quát đã vô tình mô tả trong lời
than vãn viết ở văn bia chùa Thiên Phúc (Hà Bắc), rằng: "Việc họa phúc
của nhà Phật rung động lòng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên thì
từ vương công, dưới thì đến thứ dân, phàm lo việc Phật thì tuy hết của
cải cũng không tiếc gì. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp thì hớn hở như
cầm tờ chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho nên từ kinh thành ở
trong cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang cùng ngõ hẻm, người ta không
được lệnh mà cứ theo, không thề thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi
đó có chùa Phật, phế rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu
đài, gần nửa dân cư lao vào đó." (5), qua đây chúng ta có thể hình dung
phần nào tình hình Phật giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên, cuối đời Trần, bị
sự tác động của các nho thần như Lê Quát và Phạm Sư Mạnh với chủ trương
vọng ngoại, những người lãnh đạo bất tài đã không làm chủ được tình
hình, khiến cho xã hội ngày càng đi vào chỗ suy vi, và hậu quả là đưa
đến cuộc chính biến năm 1400 và họa mất nước vào năm 1407.
3. Ðôi nét về tình hình Phật giáo sau thời ngài Kim Sơn
a. Cuộc nổi dậy của sư Phạm Sư Ôn cuối đời Trần
Vào cuối nhà Trần,
do sự bất tài của những người lãnh đạo, bị cuốn theo xu hướng vọng ngoại
bởi sự tác động của một số nho sĩ, đã không giữ được sự độc lập dân tộc
trong đường lối chính trị và văn hóa, và rơi vào chỗ khủng hoảng trầm
trọng. Trước cảnh đổ nát và phản động ấy, nhiều phong trào phản kháng nổ
ra, trong đó đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn (?-1390).
Bất bình trước tình
trạng trên, sư Phạm Sư Ôn, đạo hiệu là Thiên Nhiên, đã lãnh đạo nhân
dân, tầng lớp nông dân nghèo bị đè nén, khởi nghĩa chống lại chính sách
cai trị của triều đình đương thời. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Quốc Oai
Thượng (Hà Tây), nghĩa quân lập thành 3 đạo Thần Kỳ, Dũng Ðấu và Vô Hạn
đánh thẳng vào Thăng Long khiến cho vua quan phải bỏ kinh thành mà chạy.
Nghĩa quân làm chủ Thăng Long được một thời gian ngắn, nhưng sau đó thì
bị phản công, và bị đàn áp (6).
Tuy thất bại, nhưng
cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó nói
lên tinh thần và phản ứng của giới Phật giáo đối với nhà nước, dẫu đấy
là một nhà nước Phật giáo. Giới Phật giáo luôn đứng về phía nhân dân và
dân tộc, chứ không hề đồng tình để vụ lợi khi một nhà nước trở nên mục
nát và phản động.
Những nỗ lực như
cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn chưa đủ mạnh để làm nên một thay đổi
cho dân tộc, và nhà Trần càng ngày càng mất uy tín, không còn khả năng
khôi phục tình hình để cuối cùng đưa đến cuộc chính biến năm 1400, Hồ
Quý Ly lên nắm quyền, lập ra nhà Hồ. Nhưng nhà Hồ tồn tại chỉ được 7 năm
(1400-1407). Chính quyền của Hồ Quý Ly không được lòng dân, không dám
dựa vào dân, lại sai lầm trong chiến lược về quân sự, nên đã thất bại
trước âm mưu xâm lược của nhà Minh, để đất nước ta rơi vào một giai đoạn
đau thương nhất trong lịch sử.
Ngay sau khi chiếm
nước ta, chính quyền xâm lược đã thực thi các chính sách đô hộ vô cùng
khốc liệt và thâm độc nhằm tiêu hủy toàn bộ di sản văn hóa mà dân tộc ta
đã xây dựng nên, vơ vét tất cả để đem về nước, bắt bớ nhân tài Việt
Nam, áp đặt văn hóa Hán lên nước ta (7)... Trước nỗi đau đó, hơn bao giờ
hết, ý thức dân tộc của nhân dân ta bùng dậy mạnh mẽ, phong trào kháng
chiến cứu nước nổ ra nhiều nơi, ngoài cuộc kháng chiến trong giai đoạn
đầu như của sư An Quốc và nhà Hậu Trần (1407-1413), sau đó là cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, còn có nhiều cuộc nổi dậy khác mà đáng
chú ý hơn cả là cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Minh của nhà sư Phạm
Ngọc.
b. Sư Phạm Ngọc với cuộc kháng chiến chống Minh cứu nước
Lâu nay, trong quốc
sử lẫn sử Phật giáo, đã có những nhận định hết sức sai lầm về cuộc khởi
nghĩa kháng chiến cứu nước do sư Phạm Ngọc lãnh đạo. Gần đây, vấn đề
này đã được đem ra dưới ánh sáng của sự thật lịch sử, và qua đó cho
chúng ta biết thêm về những hy sinh của người Phật tử trong cuộc kháng
chiến chống Minh cứu nước đầy cam go (1407-1428) (8).
Sư Phạm Ngọc ở tại
chùa Ðồ Sơn, huyện An Lão, tỉnh Kiến An (thuộc TP. Hải Phòng ngày nay),
nhóm nghĩa quân, thành lập chính quyền kháng chiến, tự xưng là La Bình
vương, được sự ủng hộ của đông đảo đồng bào vùng trung du và đồng bằng
Bắc bộ. Về thời gian nổ ra cuộc khởi nghĩa không được ghi chép rõ, nhưng
có thể cùng thời điểm với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Cuộc khởi nghĩa này
đã đánh nhiều trận, gây tổn thất không nhỏ đối với chính quyền của quân
xâm lăng. Tuy thất bại, sư Phạm Ngọc bị bắt, giặc Minh áp tải sang
Trung Quốc rồi bị giết tại đó, nhưng cuộc khởi nghĩa này có một ý nghĩa
quan trọng, nó phần nào cho phép chúng ta hình dung những phản ứng của
Phật giáo ở nửa đầu thế kỷ XV, những đóng góp của người Phật tử vào công
cuộc chống Minh cứu nước của dân tộc.
c. Sơ lược về tình hình Phật giáo
Cuộc kháng chiến
chống Minh cứu nước do Lê Lợi lãnh đạo thành công, Lê Lợi lên ngôi hoàng
đế, mở ra triều đại nhà Hậu Lê. Sự thay đổi triều đại ở thời kỳ này dĩ
nhiên là có những ảnh hưởng đến xã hội, nhưng Phật giáo về cơ bản vẫn
không có thay đổi gì nổi bật. Phật giáo vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo
trong đời sống của dân tộc.
Những quan niệm
trước đây cho rằng, từ thời Lê trở đi, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn
trong đời sống chính trị và văn hóa và Phật giáo đi vào chỗ suy yếu. Ðấy
là một nhận định thiếu chính xác. Vào cuối thế kỷ XIV, nhà nho Lê Quát
đã thành thật thừa nhận sự thất bại của tư tưởng Nho giáo, bởi Phật giáo
đã ăn sâu vào trong tâm thức của dân tộc Việt Nam, ông đã than rằng:
"Ta từ thuở bé đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh,
muốn lấy đó mà dạy dân, thế nhưng rốt cuộc không một làng nào tin theo
cả..." (9).
Ðến thời Lê sơ, với
sự lãnh đạo của vị vua Phật tử Lê Lợi (Thái Tổ, ở ngôi 1428-1433) và
các danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân..., Phật giáo vẫn
tiếp tục được phát triển. Vua Lê Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497) là một
người đã nhận thức sâu sắc vai trò của đạo Phật đối với dân tộc. Trong Hồng Ðức quốc âm thi tập
của ông đã có những bài thơ vịnh về chùa Trấn Quốc, chùa Pháp Vân...với
một niềm tin sâu sắc, chẳng hạn ông ca ngợi Phật Pháp Vân bằng một bài
thơ dài, trong đó có câu: "Tỉnh phò thế nước dường như tại" (lặng lẽ phò
trì cho đất nước như luôn thường trực một bên), hay:
Nguyện xem ấm tý thần thông ấy
Phổ độ nào đâu chẳng phỉ nguyền...;
và trong bài thơ ca ngợi về chùa Trấn Quốc, nhà vua đã viết: "Trung lập càn khôn vững đế đô" (10).
Vào thời vua Lê
Thánh Tông, các lễ hội tâm linh truyền thống như lễ hội rước Phật Pháp
Vân tổ chức rầm rộ, được ngài Pháp Tính (1470-1550), một cao tăng thời
đó, kể lại rất sinh động trong tác phẩm chữ Nôm Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh lục (11).
Về Phật giáo thời
Lê, hoàn toàn khác với những đánh giá trước đây, học giả Lê Mạnh Thát đã
nhận định tổng quát: "Thời Lê là thời đại Phật giáo Việt Nam phát triển
rầm rộ, do đối kháng lại với nền Phật giáo mà nhà Minh đưa qua..."
(12). Phật giáo ở giai đoạn này đã kế thừa các nền tảng hình thành
trước, tiếp tục phát triển, nổi bật với các gương mặt Phật tử, danh Tăng
như nhà toán học Phật tử Lương Thế Vinh (1441-?), đỗ trạng nguyên năm
1463; nhà chính trị -quân sự thiên tài Nguyễn Trãi (1380-1442), người đã
lấy tư tưởng Phật giáo để xây dựng quan niệm nhân nghĩa trong tư tưởng
quân sự của mình; ngài Viên Thái (1400-1460), người đầu tiên dịch kinh
Phật ra chữ Nôm hiện biết được (13); ngài Pháp Tính (1470-1550), người
viết Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa, Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh lục;
và không ít vị Tăng sĩ Trung Quốc sang nước ta tu hành, như trường hợp
các ngài Chuyết Chuyết (1590-1644), thế hệ thứ 34 dòng thiền Lâm Tế
Trung Quốc, ngài Minh Hành, học trò của ngài Chuyết Chuyết...
Về mặt lễ hội văn
hóa tâm linh và xây dựng chùa chiền, ở thời Lê vẫn diễn ra tuy không
nhiều như trước nhưng vẫn khá mạnh mẽ. Ðạo Phật đã thâm nhập và hòa
quyện với văn hóa dân tộc, đã trở nên một bất khả phân ly. Chùa chiền
vẫn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa của các tầng lớp nhân dân.
Tuy phát triển lúc thiên về lĩnh vực này hay phương diện khác, nhưng
Phật giáo không bao giờ rơi vào tình trạng gọi là suy yếu, bởi nó đã hòa
quyện trong tâm hồn của dân tộc, cùng bước với bước tiến của đất nước
qua các thời đại, bất chấp những cuộc chính biến và thay đổi triều đại.
Chúng ta tiếp tục tìm hiểu tổng quan về tình hình Phật giáo ở giai đoạn
thứ năm, giai đoạn từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu đến cận đại.
II. Phật giáo từ thời Chúa Nguyễn Phúc Chu đến thời cận đại
Năm 1527, Mạc Ðăng
Dung cướp ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc, tiếp sau đó là những mâu thuẫn
nội bộ, đưa đến cuộc chia cắt đất nước thành hai miền là Ðàng Trong và
Ðàng Ngoài. Xứ Ðàng Ngoài nằm trong tay của vua Lê-chúa Trịnh. Xứ Ðàng
Trong do các chúa Nguyễn cai trị, bắt đầu là Nguyễn Hoàng, và nổi bật là
vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu.
1. Chúa Nguyễn Phúc Chu, một Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử
Chúa Nguyễn Phúc
Chu (1675-1725) là một trong những nhà lãnh đạo Phật tử thời Nguyễn
trước Gia Long, có một vai trò hết sức quan trọng không những đối với
công cuộc Nam tiến của dân tộc, mà còn đối với sự phát triển của Phật
giáo Việt Nam. Trong 34 năm ở ngôi chúa (1691-1725), ông đã có những
đóng góp quan trọng đối với lịch sử mở đất của dân tộc. Năm 1698, ông đã
sai Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thành lập trấn Gia Ðịnh, chính
thức mở rộng biên cương với địa hình cơ bản như hiện nay.
Chúa Nguyễn Phúc
Chu là một Phật tử nhiệt thành với tư tưởng mang đạo vào đời, ông có
pháp danh là Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Ðạo nhân do ngài Thạch
Liêm, một danh tăng thuộc phái thiền Tào Ðộng Trung Quốc đặt, và được
xem là truyền thừa chánh tông đời thứ 30 của dòng thiền này. Bốn năm sau
khi lên ngôi chúa, ông thọ Bồ tát giới, thường tự ví mình là Duy Ma
Cật. Tư tưởng Phật giáo của chúa Nguyễn Phúc Chu có thể nói là một thể
hiện khác của tư tưởng Trần Nhân Tông như đã đề cập phần trước, nghĩa là
chủ trương lấy tinh thần Phật pháp định hướng cho đời sống dân tộc. Ông
đã có những quan hệ mật thiết với ngài Thạch Liêm. Ngài Thạch Liêm đã
có lần trình bày với chúa quan điểm trị nước theo tinh thần Phật giáo,
được giải thích qua ý nghĩa "trai giới" đối với một vị quân vương: "Trai
giới là làm cho quốc gia từ trên xuống dưới được thanh lý chỉnh tề,
không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng giải
quyết được chính đáng. Làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của
một ông vua". Chúa Nguyễn Phúc Chu có thể ví là một Trần Nhân Tông thứ
hai trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, một nhà lãnh đạo hộ pháp tích cực,
và vận dụng tinh thần của Phật giáo vào chính sách lãnh đạo của mình.
Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng và trùng tu nhiều ngôi danh lam tại
Thuận Hóa như trùng tu chùa Thúy Vân, chùa Linh Mụ... Sai người sang
Trung Quốc thỉnh bộ Ðại tạng kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản, v.v...
Trong thời đại của
ông, với sự có mặt của nhiều cao tăng và sự ngoại hộ tích cực của nhà
nước, Phật giáo nước ta phát triển trên cơ sở của một nền học lý mới mà
chúng ta sẽ đề cập sơ bộ trong phần tiếp, qua các danh tăng của thời đại
này.
2. Một số đại biểu của nền học lý Phật giáo ở thời đại Nguyễn Phúc Chu
Nền học lý thời đại
chúa Nguyễn Phúc Chu được thiết định bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên
Thiều, Liễu Quán ở xứ Ðàng Trong, và các ngài Minh Châu Hương Hải, Chân
Nguyên, Toàn Nhật... ở Ðàng Ngoài. Vậy cơ bản của truyền thống và nền
học lý này là gì? Chúng ta sơ bộ khái quát từ tư tưởng của các dòng
thiền ra đời trong giai đoạn này.
a. Dòng thiền Tào Ðộng
Tào Ðộng là một
dòng thiền xuất phát từ Trung Quốc, do các ngài Tào Sơn Bản Tịch
(840-901) và Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) sáng lập, được truyền đến
nước ta từ thế kỷ XVII, có xu hướng sử dụng dịch lý, ảnh hưởng trên cả
hai miền Nam và Bắc. Ở miền Bắc (Ðàng Ngoài), cuối thế kỷ XVII và trong
thế kỷ XVIII, dòng thiền Tào Ðộng đã có những ảnh hưởng to lớn, và nó
còn ảnh hưởng đến tận ngày nay, nhiều chùa ở Hà Nội như Trấn Quốc, Hàm
Long và Hòe Nhai...đến nay vẫn xem là truyền thừa của dòng thiền này
(14).
Tại xứ Ðàng Trong,
có lẽ người đầu tiên mang dòng thiền này đến là Quốc sư Hưng Liên tại
chùa Tam Thai, Quảng Nam. Tuy nhiên, người đã làm cho nó trở nên thịnh
là ngài Thạch Liêm (1633-1704). Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến
nước ta (Thuận Hóa, Huế) vào năm1695, tổ chức đại giới đàn truyền giới
cho nhiều người xuất gia và tại gia. Chúa Nguyễn Phúc Chu và nhiều hoàng
thân quốc thích của chúa thọ giới Bồ tát tại đây. Về mặt tư tưởng
Thiền, ngài Thạch Liêm không mang đến những tư tưởng gì mới, Ngài xiển
dương phương pháp Thiền-Tịnh song tu, vốn là truyền thống của Phật giáo
nước ta. Tuy nhiên, tư tưởng đưa đạo vào đời thì được ủng hộ mạnh mẽ,
điều đó được thể hiện qua con người của chúa Nguyễn Phúc Chu, đệ tử của
Ngài. Ngoài ra, Ngài còn viết một số tác phẩm Phật học, đặc biệt là cuốn
Kim cương trực sớ, một tác phẩm gối đầu giường của nhiều thế hệ
Phật tử miền Nam. Về truyền thừa thì dường như dòng thiền này không có
duyên lắm với xứ Ðàng Trong, không thấy nhắc đến các thế hệ tiếp sau
thời chúa Nguyễn Phúc Chu.
b. Dòng thiền Lâm Tế
Nếu như dòng thiền
Tào Ðộng thịnh ở miền Bắc thì dòng Lâm Tế tỏ ra phát triển ở miền Nam.
Từ thế kỷ XVII, đã có sự hiện diện của nhiều Tăng sĩ thuộc dòng thiền
Lâm Tế, như các ngài Viên Minh và Viên Khoan ở Quảng Trị, Minh Hoằng Tử
Dung khai sơn chùa Từ Ðàm, ngài Giác Phong sáng lập chùa Báo Quốc tại
Huế, ngài Pháp Bảo lập chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam, ngài Nguyên Thiều
sáng lập các chùa Thập Tháp Di Ðà tại Bình Ðịnh, chùa Quốc Ân và Hà
Trung tại Thuận Hóa (Huế)...Ðặc biệt trong đó có các ngài Nguyên Thiều
đã thành lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và Quốc Êân,
ngài Pháp Bảo thành lập nên dòng truyền thừa hệ Chúc Thánh (15). Ngoài
các dòng truyền thừa trên, tại miền Nam có một hệ truyền thừa ảnh hưởng
rất sâu rộng cho đến hôm nay, đó là dòng Liễu Quán, do ngài Liễu Quán
thành lập.
Ngài Liễu Quán
(1670-1742) quê ở Phú Yên, từng học đạo với các ngài Giác Phong và Tử
Dung tại Thuận Hóa. Ngài là Tổ khai sơn chùa Thiền Tôn tại núi Thiên
Thai (Thuận Hóa), nơi Ngài dựng am cỏ (thảo am) để chuyên tu. Chúa
Nguyễn Phúc Khoát là người rất kính ngưỡng Ngài, từng mời Ngài vào phủ
nhưng Ngài thường từ chối. Ðạo phong của Ngài được đông đảo Phật tử mến
mộ, người đến cầu pháp rất đông, gần bốn nghìn người cả xuất gia lẫn cư
sĩ. Ngài mất năm 1742, thọ 72 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Khoát truy tặng
Ngài thụy hiệu "Ðạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng". Tính theo
truyền thừa của dòng thiền Lâm Tế, Ngài là thế hệ thứ 35. Ngài là bậc
cao tăng mà tư tưởng đã ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo xứ Ðàng
Trong, được đánh giá là người đã Việt hóa dòng thiền Lâm Tế, làm cho nó
phổ biến, hiện nay dòng kệ truyền pháp của Ngài (16) vẫn còn được tiếp
nối, nhất là miền Nam nước ta, kể từ Huế trở vào.
c. Các ngài Chân Nguyên, Minh Châu-Hương Hải và tình hình Phật giáo ở Ðàng Ngoài
Thế kỷ XVII tại
miền Bắc nước ta, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển mạnh mẽ, người
đứng đầu là ngài Chân Nguyên (1647-1726). Ý đồ phát triển nền Phật giáo
thời Trần Nhân Tông là một trong những nỗ lực nhằm tìm một giải pháp cho
những bế tắc của thời đại, khi mà các thế lực phong kiến cấu xé nhau để
giành giựt quyền bính mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của dân tộc và
xã hội đang trên đà băng hoại. Ngài đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo
với nhận thức khá mới mẻ. Tuy nhiên, những cố gắng đó vẫn không xoay
chuyển được tình thế, nhưng dẫu sao cũng đã tạo nên một sự phấn khích
cho thế hệ đương thời và sau đó, mà một trong những người kế thừa xuất
sắc là Ngô Thì Nhậm (1746-1802), tức Hải Lượng Thiền sư, tự xưng là Tổ
thứ tư (17) của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, người đã viết tác phẩm nổi
tiếng Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh.
Về ngài Minh Châu-Hương Hải (1628-1715), theo Toàn tập Minh Châu-Hương Hải
(18), Ngài xuất thân từ một gia đình truyền thống danh gia thế phiệt,
gốc Nghi Lộc, Nghệ An, nhưng sinh ra và lớn lên tại miền Nam. Trước khi
xuất gia, Ngài từng thi đỗ và làm quan, học đạo với các ngài Lục Hồ Viên
Cảnh và Viên Khoan Ðại Thâm, sau đó từ quan xuất gia và trú trì viện
Thiền Tịnh ở núi Qui Kính. Do một số bất đồng với chúa Nguyễn Phúc Tần
(1649-1687), Ngài bỏ ra Bắc năm 1682. Cuộc đời hành đạo của ngài Minh
Châu-Hương Hải đã có những ảnh hưởng lớn đối với tình hình Phật giáo
đương thời bằng cách tác động vào chính sách triều đình, tiếp nối truyền
thống gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc vốn có trong truyền thống của
Phật giáo nước ta. Ngoài ra, Ngài là một tác gia lớn, người đã đào tạo
nhiều học trò xuất sắc, là một ngôi sao sáng trên bầu trời Phật giáo thế
kỷ XVII- đầu XVIII.
Trong giai đoạn
này, Phật giáo đã cống hiến cho dân tộc nhiều thiên tài, trên các lĩnh
vực, chẳng hạn những gương mặt nổi bật như các ngài Chân Nguyên, Minh
Châu-Hương Hải, Chân An-Tuệ Tĩnh... Chính những nhân tố đó đã làm nên
một diện mạo phát triển của Phật giáo giai đoạn này.
d. Cuộc khủng hoảng của xã hội Việt Nam ở thời Nguyễn và những phản ứng của Phật giáo
Từ thế kỷ thứ
XVIII, xã hội nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng ý thức hệ trầm trọng.
Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã có nhiều nỗ lực nhằm tìm cách xây dựng
một hệ ý thức mới phù hợp với yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên, sau khi
nhà Tây Sơn sụp đổ, Gia Long lên ngôi (1802), ông đã chủ trương phục hồi
hệ ý thức Nho giáo cực kỳ phản động, đưa đất nước đến chỗ bế tắc, dân
tộc ta lại rơi vào đại họa ngoại xâm. Trước tình hình đó, triều đình
không đủ can đảm để đánh giặc thì nhân dân tự dấy lên khởi nghĩa, và
trong đó có những phản ứng của giới Phật giáo, điển hình là các cuộc
khởi nghĩa chống pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các vị sư Nguyễn
Văn Quý, Trần Văn Thành, Võ Trứ, Vương Quốc Chính, Cao Văn Long, v.v...
Ðây không phải là một đặc điểm mới mà vốn đã có trước đó khá lâu, qua
gương mặt của sư Phạm Sư Ôn, An Quốc, Phạm Ngọc mà chúng ta đã đề cập.
Cũng trong thế kỷ
XVIII-XIX, nhiều gương mặt cao tăng với nhiều nỗ lực nhằm tìm ra một lối
đi cho dân tộc, nổi bật ngoài Hải Lượng Ngô Thì Nhậm, còn có các ngài
Pháp Chuyên (1726-1798), tác giả của 20 bộ sách; Toàn Nhật (1755-1832),
tác giả của hơn 24 tác phẩm; ngài Tính Quảng (1740-1780), ngài An
Thiền-Phúc Ðiền (1790-1860), người đã dấy lên một phong trào nghiên cứu
lịch sử Phật giáo dân tộc và đã soạn một số tác phẩm giá trị như Ðại nam Thiền uyển truyền đăng chấp lục, Ðạo giáo nguyên lưu, Khóa hư lục giải nghĩa, v.v...; ngài Như Như (1836-1899), tác giả của tác phẩm nổi tiếng Hàm long sơn chí, v.v...
3. Ðôi nét về phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, phong trào phục hưng Phật giáo diễn ra tại nhiều nước như
Tích Lan, Ấn Ðộ, đặc biệt là cuộc vận động phục hưng Phật giáo Trung
Quốc do Thái Hư Ðại sư chủ trương từ năm 1912, đã ảnh hưởng đến cuộc vận
động chấn hưng Phật giáo tại nước ta. Theo Nguyễn Lang, tác giả của Việt Nam Phật giáo sử luận,
thì người châm ngòi cho cuộc vận động chấn hưng Phật giáo ở nước ta là
ngài Khánh Hòa, năm 1923, tại tỉnh Bến Tre. Qua những phương tiện thông
tin ngôn luận, cuộc vận động đã lan đi nhanh chóng. Bắt đầu từ Nam, ra
Huế rồi Hà Nội. Nhiều hội đoàn Phật giáo, hội nghiên cứu Phật học được
thành lập khắp nơi từ Bắc chí Nam, các trường truyền dạy Phật học được
mở, nhiều tờ báo được xuất bản, tạo nên một phong trào hết sức rộng rãi.
Ðặc biệt là ý thức về lịch sử Phật giáo dân tộc trỗi dậy, và hàng loạt
công trình chuyên khảo cứu về vấn đề này ra đời, đáng chú ý hơn cả là
các công trình của nhà sử học Trần Văn Giáp và ngài Mật Thể (19) về lịch
sử Phật giáo Việt Nam đã tạo nên ý thức về vai trò của Phật giáo đối
với dân tộc một cách sâu sắc. Cuộc vận động tiếp tục diễn ra và đã có
những thành tựu rất to lớn. Tuy nhiên, nó chỉ làm sống dậy tinh thần của
Phật giáo Việt Nam, mà chưa tạo được những sự bứt phá. Nội dung cơ bản,
về truyền thống và học lý, vẫn chưa có gì mới đủ để đưa Phật giáo bước
sang một thời kỳ mới. Phật giáo nước ta cho đến tận bây giờ vẫn chịu ảnh
hưởng của những học lý và truyền thống của thời đại Phật giáo kể từ
chúa Nguyễn Phúc Chu, và từ những thiết định tư tưởng của nền Phật giáo
từ thời vua Trần Nhân Tông.
* Kết Luận
Bất kỳ dân tộc nào
cũng có nền văn hóa của mình, không ai có quyền phủ bác hay coi thường,
hoặc chụp lên nó một nền văn hóa mới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc
vốn có một nền văn hóa với những thành tựu rực rỡ trước khi Phật giáo du
nhập. Và, là một hệ thống tư tưởng không giáo điều, khiêm tốn khép
mình, nên khi vào nước ta, Phật giáo sẵn sàng tiếp thu truyền thống bản
địa, không buộc người Việt phải từ bỏ những gì vốn có trong nền văn hóa
bản xứ, do đó nó đi sâu vào tâm hồn của con người một cách tự nhiên. Về
phía dân tộc, dĩ nhiên là nhận thức rằng cần tiếp thu Phật giáo để làm
phong phú thêm đời sống văn hóa của chính mình. Hơn thế nữa, dân tộc ta
luôn phải đối mặt với âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ thù phương Bắc, tư
tưởng Phật giáo sau khi đã bản địa hóa, kết hợp với những yếu tố dân
tộc, là một bức tường thành kiên cố chặn đứng mọi sự tấn công, góp phần
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Năm giai đoạn phát
triển của Phật giáo đã trình bày trên phản ánh được điều đó. Năm giai
đoạn này được xây dựng cơ bản trên hai nền tảng tư tưởng, một là nền tư
tưởng Phật giáo quyền năng và hai là tư tưởng tức tâm tức Phật. Hai nền
tảng tư tưởng Phật giáo này hòa quyện với nhau, thấm sâu vào đời sống
tâm linh của con người Việt Nam. Và nó gắn liền với sự phát triển của
lịch sử dân tộc, lấy sứ mệnh của dân tộc làm sứ mệnh của mình. Ðó là
tính nhất quán của lịch sử Phật giáo Việt Nam, được biểu hiện qua những
bước chuyển mình, đáp ứng yêu cầu của từng chặng đường lịch sử cụ thể,
vì lợi ích chung của dân tộc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã rất có lý khi
nhận định rằng: "Bình minh của dân tộc ta đã gắn với Phật giáo..." (20).
Sự phát triển của
lịch sử là sự phát triển có ý thức. Năm giai đoạn, năm chặng đường đồng
cam cộng khổ với dân tộc là một minh chứng cho bản chất của Phật giáo
Việt Nam./.
* Chú thích:
(1) Có nghĩa là Phật Trúc Lâm (Ðiều ngự là một trong 10 danh hiệu tôn xưng Ðức Phật).
(2) Sau này đổi tên thành hai châu Thuận và Hóa, từ thị xã Ðông Hà, tỉnh Quảng Trị đến Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam ngày nay.
(3) Xem Thiền tông chỉ nam tự.
(4) Xem Niệm Phật luận, Khóa hư lục.
(5) Dẫn lại theo Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám , tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1996, trang 484. Những chỗ in đậm là chúng tôi (TTH) nhấn mạnh.
(6) Xem Trương Hữu Quýnh-Phan Ðại Doãn, Danh nhân lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo Dục, 1987, trang 96.
(7) Năm 1407, vua
nhà Minh sai Trương Phụ, Trần Húc phá hủy toàn bộ những di sản văn hóa
của dân tộc ta: "một mảnh giấy, một nửa chữ, cùng những bia khắc của
nước ấy dựng lên, hễ thấy thì lập tức hủy hoại hết". Do thế, ngày nay
những tư liệu của Phật giáo nói riêng và dân tộc nói chung trước năm
1407 rất hiếm, chúng đã bị quân Minh phá hoặc thu gom về nước.
(8) Xem Lê Mạnh Thát, Cuộc khởi nghĩa chống Minh cứu nước của Tăng sĩ Phạm Ngọc, Tập văn Thành Ðạo, số 43 và Phật đản, số 44 năm 1999.
(9) Ðại Việt sử ký toàn thư.
(10) Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, nxb. KHXH, 1986.
(11) Xem Lê Mạnh Thát, Viên Thái thiền sư toàn tập, Tu thư Vạn Hạnh, 1977.
(12) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, sđd, trang 156.
(13) Ðại báo phụ mẫu ân trọng kinh.
(14) Về Thiền phả truyền thừa tại miền Bắc nước ta, xem tông tào Ðộng truyền sang miền Bắc Việt Nam, HT. Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb. TPHCM, 1999, trang 395-396.
(15) Bài kệ truyền pháp của Ngài là:
Minh thật pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Ðắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung.
(16) Dòng kệ truyền pháp theo phả hệ của ngài Liễu Quán:
Thiệt tế đại đạoTánh hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận Ðức bổn từ phong
Giới định phước huệ Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả Một khế thành công
Truyền trì diệu lý Diễn xướng chánh tông
Hành giải tương ứng Ðạt ngộ chơn không.
(17) Sau ngài Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
(18) Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 2000.
(19) Xem chú thích (1) trong bài 1.
(20) Trần Văn Giàu, Ðạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam, in trong Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học xuất bản, HN, 1986, trang 15.
* Tài liệu tham khảo chủ yếu cho học viên
1. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. Thuận Hóa, 1999.
2. Việt Nam Phật giáo sử luận, 3 tập, tác giả Nguyễn Lang, Nxb. Văn Học, 1994.
3. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999.
4. Thiền sư Việt Nam, tác giả Thích Thanh Từ, Nxb. TPHCM, 1999.
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày nét đặc sắc của nền Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử do ngài Trần Nhân Tông thiết lập.
2- Truyền thống và học lý của Phật giáo Việt Nam hiện tại đang chịu ảnh hưởng của nền học lý nào?
3- Bạn có suy nghĩ gì về đặc tính của Phật giáo Việt Nam qua năm giai đoạn phát triển? |