Chương Chín
TRÍ TUỆ
[Suốt chương này, những câu "trong ngoặc kép" là
luận điệu của những học thuyết trong và ngoài Phật giáo phản bác hoặc
chất vấn Trung quán; tiếp theo là trả lời của luận chủ theo lập trường
Trung quán. Xem phần dịch văn xuôi để rõ chi tiết.]
1. Bao
điều Phật dạy kể trên
Cốt làm trí tuệ phát sinh nơi lòng
Muốn ra khỏi biển trầm luân
Cần sinh tuệ giác Tính không sáng ngời.
2. Lẽ
phải đời gọi là tục đế
Thắng nghĩa là chân lý siêu phàm
Không do phân biệt nơi tâm
Còn phân biệt, vẫn trong vòng trầm luân.
3. Thế
gian những kẻ ngu phàm
Có quan điểm khác với hàng thiền gia
Những gì tục đế nói ra
Bị hành giả phái Du già bác ngay.
4a.Thiền gia cũng khác nhau tuệ lực
Càng lên cao thấy bực dưới sai
Như màn ảo thuật hiển bày
Thế tình như huyễn với người tu tâm.
4b. Nếu
ai hỏi vị ấy rằng
"Đã như huyễn hóa thì cần tu chi?"
Muốn thành Phật quả chân như
Nên dùng huyễn pháp đi tu ấy mà.
5. Việc
gì cũng xem là có thật
Người thế gian phân biệt linh tinh
Thiền gia xem tợ huyễn hình
Đây là đầu mối luận tranh hai nhà.
6. Cảnh
gì hiện trước mắt ta
Làm nên tục đế, gọi là giả danh
Chỉ do điên đảo mà thành
Như dơ bảo sạch, không nên tin vào.
7a.
Muốn dẫn đạo cho người thế tục
Phật dạy rằng các pháp vô thường
Thật thì các pháp vốn không
Có đâu để diệt trong từng sát na?
7b. Vậy
nên hiểu vô thường tục đế
Không phải là thắng nghĩa sâu xa.
"Nói tồn tại chỉ sát na
Phải chăng cũng trái tục gia lối nhìn?"
8a.
Không lầm, cái thấy nhà thiền
Cho rằng các pháp chỉ bền sát na
Chấp thường thế tục vốn ưa
Lối nhìn thiền giả tạm là thật chân.
8b.
Cũng như cái thấy thân bất tịnh
Với người đời nhất định trái tai
Nhưng mà nó vẫn không sai
Vậy nên chưa chắc ngược đời phi chân.
9a.
"Nếu vạn pháp đã là không thực
Thì cúng dường công đức nào sinh?"
Phật như huyễn, đức huyễn sanh
Cũng như Phật thật, đức thành thật chân.
9b.
"Nếu là như huyễn chúng sinh
Vậy sau khi chết tái sanh thế nào?"
10a. Huyễn duyên còn tụ bao lâu
Huyễn hình vẫn cứ thi nhau diễn tuồng.
10b.
Như ảo thuật, hữu tình không khác
Đều khởi lên do các duyên sinh
Đâu vì yếu tố thời gian
Lâu dài tương đối mà thành thật chân?
11. Khi
người huyễn sát sinh, bố thí
Vì vô tâm, chẳng tội phước chi
Chúng sinh với huyễn tâm kia
Cũng sanh như huyễn tội và huyễn công.
12. Chú
thuật không thể sinh tâm huyễn
Tâm không từ huyễn thuật sinh ra
Nhân duyên đủ thứ hợp hòa
Phát sinh các dạng vật và chúng sinh.
13.
Không bao giờ có một nhân
Sinh ra tất cả mọi thành quả kia.
"Nếu cho vạn pháp chân như
Chỉ trên tục đế bày ra luân hồi,
14.
"Phật còn có thể luân hồi
Thì Bồ tát hạnh còn ai tu hành?"
Huyễn duyên nếu vẫn vận hành
Huyễn hình không diệt, hữu tình theo đây.
15.
Phật đã chấm dứt duyên sinh tử
Nên dù trên tục đế, không sinh.
"Nếu cho vọng thức không thành
Lấy gì duyên với cảnh tình huyễn hư?"
16.
Theo ông, ngoại cảnh huyễn hư
Thì đâu còn có cảnh gì để duyên?
"Cảnh kia do thức mà nên
Thức này ngó lại cảnh mình biến ra."
17. Nếu
huyễn cảnh chính là tâm thức
Thì cái chi thấy được cái chi?
Phật Như lai đấng chở che
Dạy rằng tâm chẳng bao giờ thấy tâm.
18. Như
gươm không tự cắt mình
Tâm không thể tự thấy mình được đâu.
"Ví như ánh sáng đèn dầu
Tự mình chiếu sáng, tâm nào khác chi?"
19a.
Ánh sáng chẳng phải đâu tự chiếu
Và tối không thể hiểu tự che
(Vì khi đèn chiếu vật kia
Nó không từng bị bóng gì che lên.)
19b.
"Trả lời: Ví dụ gương xanh
Khi gương chiếu một vật xanh hiện hình
Nhưng còn ánh ngọc màu xanh
Thì không nương những bóng hình nọ kia.
20a.
"Cũng tương tự, có hai loại thức
Có và không nương các vật ngoài."
Bác rằng: ví dụ ấy sai
Xanh lưu ly ví tâm soi chiếu mình.
20b. Vì
lưu ly tự tính xanh
Không do duyên khác để thành màu kia.
21a. Chính vì có thức liễu tri
Nên hay biết được đèn thì chiếu soi;
21b.
Nhưng cái thức tự soi chính nó
Thì do đâu sáng tỏ điều này?
Vì theo trong thắng nghĩa đây
Tự, tha thức chẳng mảy may thực nào.
22.
Không tâm nào để ngắm tâm
Nên dù tự chiếu hay không, bất thành
Khác nào nói gái vô sinh
Có con đẹp xấu, đâu thành nghĩa chi?
23.
"Nếu không có tự chứng phần
Làm sao nhớ được những tâm qua rồi?"
Do tương quan với cảnh ngoài
Mà tâm nhớ lại lần hồi xưa sau.
23b.
Như con gấu nhức đau mình mẩy
Khi giật mình tỉnh dậy đầu xuân
Suy ra biết chuột cắn nhầm
Trong khi an giấc suốt trong đông dài.
24.
"Như người biết được tha tâm
Cho nên cũng biết tự tâm của mình."
Có người mắt được bùa linh
Cái gì cũng thấy, mắt mình thì không.
25.
"Nếu tự, tha thức không lập được
Thì kiến văn tri giác đều không?"
Những gì thấy biết nghe trông
Không nên chấp thực, nguyên nhân khổ sầu.
26.
"Huyễn duyên không ở ngoài tâm
Cũng không là một với dòng tâm kia."
Làm sao có một pháp chi
Không ngoài tâm, cũng lại vừa phi tâm?
27.
Theo Duy thức cảnh ngoài phi thực
Trung quán cho tâm thức huyễn hư.
"Luân hồi nương thật tâm tư
Nếu không tất cả đồng là hư vô."
28. Nếu
sinh tử phải nương thật pháp
Thì làm sao có tác dụng chi?
Tâm thành đơn độc không hai
Vì không có những pháp ngoài trợ duyên.
29. Nếu
tâm lìa cảnh tự tồn
Chúng sinh tất cả cũng đồng Như lai.
Vậy thì Duy thức tông kia
Cuối cùng đâu có ích chi lập thành.
30. "Dù
biết vạn pháp là như huyễn
Dứt làm sao tham luyến si sân
Như phù thủy tạo mỹ nhân
Rồi sinh say đắm cô nàng, thì sao?"
31.
Huyễn sư đối những gì thấy biết
Chưa bao giờ tận diệt tham sân
Đã quen nhận giả làm chân
Nên khi thấy huyễn mỹ nhân phát thèm.
32. Nhờ
quen tu tập Tánh không
Không xem các pháp thật chân chút nào
Bản thân Không tánh có đâu
Cuối cùng đoạn nốt cả bầu chấp không.
33.
Không thấy có pháp nào chắc thực
Thực hữu không còn được đặt ra
Thì Không chẳng bận tâm ta
Như con thạch nữ đâu mà chết đi?
34. Khi
không, có hết khởi lên
Trong tâm vắng lặng một miền bao la
Không còn duyên pháp gần, xa
Chứng nên cảnh giới rất là tịch nhiên.
35. Như
ngọc ma ni và cây ước
Dù vô tâm thỏa được ước mong
Sắc thân Phật hiện nhân gian
Do bồ tát nguyện, cùng tâm hữu tình.
36. Như
Kim sí điểu tháp linh
Vẫn còn năng lực chữa lành vết thương
Nhờ linh chú bà la môn
Gia trì lên đấy thuở còn xa xưa.
37.
Cũng thế, do hạnh tu Bồ tát
Vô lượng thời tạo pháp thân thiêng
Nên dù Phật đã tịch viên
Vẫn còn lợi lạc vô biên hữu tình.
38.
"Cúng dường tháp Phật vô tình
Thì sao có được chút thành quả chi?"
Phật dù nhập diệt hay chưa
Cúng dường công đức chẳng hề khác nhau.
39.
Trên tục đế hay theo thắng nghĩa
Quả cúng dường một thể như như
Phật phi thực, quả huyễn hư
Cúng dường Phật thật, quả thì thật chân.
40.
"Cần chi phải thấy Tính không
Chỉ cần kiến đế thoát vòng trầm luân."
Trong kinh Bát nhã dạy rằng
Bồ đề muốn chứng phải cần tuệ Không.
41. Nếu
đại thừa không do Phật thuyết
Tiểu thừa kinh sao biết chính tông?
"Hai ta xác nhận một lòng."
Khi ông chưa nhận, chắc không đúng nào?
42.
"Lại còn hệ phái truyền trao."
Đại thừa cũng vậy, khác nào các ông?
Hai nhà xác nhận thành chân
Vệ đà ngoại điển cũng cần tin sao?
43.
"Đại thừa kinh bị nhiều tranh cãi."
Kinh tiểu thừa chẳng phải an thân
Bị bài bác bởi ngoài, trong
Sao không nhân đấy, bác luôn tiểu thừa?
44. Nếu
kinh nào nhập Ba tàng
Các ông thừa nhận lời vàng Thế tôn
Đại thừa tuyên thuyết chính tông
Cũng gồm giới định tuệ đồng như nhau.
45. Nếu
vì không hiểu sâu Bát nhã
Phủ nhận luôn tất cả đại thừa
Hãy vì kinh giống tiểu thừa
Cũng nên xem tất đồng là Phật ngôn.
46.
"Nếu là kinh Phật chính tông
Đại a la hán sao không tỏ tường?"
Kinh này nghĩa lý cao thâm
Đâu vì nan giải, gạt phăng đại thừa?
47. Nói
"giáo lý dành cho la hán"
Nhưng khó thành nếu chẳng chứng Không
Khi còn duyên pháp trong tâm
Khó mà an trú niết bàn tịnh thanh.
48.
"Mặc dù chẳng hiểu Tính không
Quán vô thường đủ thoát vòng trần ai."
Công năng nghiệp cũ còn hoài
Nên la hán vẫn chưa ngoài khổ đau.
49. "A
la hán không còn ái thủ
Quyết định không còn thọ thân sau."
Vô minh dù bất nhiễm ô
Vẫn còn tái diễn lắm trò khổ đau.
50. Do
duyên cảm thọ, ái sanh
Vị kia chỉ đoạn hiện hành ái thôi
Tâm còn chấp thật vài nơi
Thọ nằm trong đó, luân hồi khó ra.
51. Nếu
tâm thức lìa xa Không quán
Phiền não dù tạm lắng, lại sanh
(Như khi xuất định vô tâm)
Vậy mong dứt khổ, tuệ Không phải tầm.
52. Khi
thiền quán về chân không
Hết tham vui sợ khổ trong luân hồi
Từ bi trải khắp muôn nơi
Ở trong sinh tử độ người đang mê.
53. Chớ
nên vì không thông nghĩa lý
Mà vội vàng bác bẻ Tính không
Hãy nên như lý tu Không
Dứt trừ nghi hoặc, thoát vòng trầm luân.
54.
Tính không phá được tối tăm
Do phiền não với mê lầm gây nên
Muốn mau thành bậc đại hiền
Sao không dứt khoát tu liền Tính không?
55.
"Quán tính Không làm tôi sợ hãi."
Chấp thật chân mới phải đáng kinh
Vì do chấp có, khổ sinh
Thấy Không, lắng dịu vô minh não phiền.
56. Nếu
còn có chút nào thật ngã
Tất nhiên còn sợ hãi nọ kia.
Nhưng vì thật chẳng có ta
Thì ai ở đấy để mà sợ run?
57.
Răng tóc móng đều không phải ngã
Ngã cũng không là máu huyết, xương
Không là nước mũi, bọt, đàm
Không là thịt, nước mật vàng mật xanh.
58. Ngã
không là phổi hay gan
Mồ hôi hay mỡ lại càng không ta
Không là nội tạng trong da
Không là phân tiểu thối tha khó nhìn.
59.
Thịt da cũng chẳng phải mình
Ấm nồng khí lực thật tình không ta
Trong thân lỗ hổng hà sa
Thức tâm sáu loại đều là huyễn hư.
60. Nếu
thức về âm thanh thường tại
Thì lúc nào cũng phải có nghe
Nhưng khi không đối tượng nghe
Làm sao gọi được đấy là thức thanh?
61. Nếu
không thức tâm mà cũng biết
Khúc cây hay phân biệt giác tri?
Nên không đối tượng sở tri
Quyết là không có năng tri được nào.
62. Nếu
bảo khi không thanh, biết sắc
Sao lại không nghe được âm thanh?
"Vì thanh lúc ấy chẳng gần."
Thế thì nhĩ thức cũng bằng hư vô.
63. Cái
tâm biết được âm thanh
Chuyển ra biết sắc, sao thành thường chân?
"Như người làm cả cha, con."
Vậy là đối đãi, chỉ còn giả danh.
64. Như
Số luận chủ trương Ba đức[4][9]
Cái làm nên thực chất trường tồn
Làm sao cha lại là con
Đã thường biết sắc, chuyển thành biết thanh?
65. Nếu
cho ví dụ đóng tuồng
Thì tâm thức ấy vô thường, không chân
"Thức tuy khác dạng, thể đồng "
Đây điều Số luận chưa tầng nói ra.
66.
"Nếu đa dạng trở thành phi thực
Các dạng kia thực chất là chi?
Phải là cái ý thức kia."
Chúng sinh như thế đồng thì một tâm?
67. Ngã
có tâm cùng thần bất động
Cũng thành ra một giống trường tồn.
Những tâm nghe, thấy...đều lầm
Làm sao cái giả cọng đồng thực chân?
68. Cái
vô tri chỉ như bình nước
Thì có đâu thành được ngã thường?
Thức tâm chờ vật mới thành
Thì vô tri đã tan tành còn đâu?
69. Nếu
cái ngã thường hằng bất biến
Dính gì tâm chuyển biến li ti?
Ngã là bất biến vô tri
Hư không với ngã có gì khác nhau?
70.
"Nếu không có thật ngã nào
Luật nhân quả ấy làm sao vận hành?
Con người tạo nghiệp qua nhanh
Còn ai chịu quả do mình đã gây?"
71. Con
người tạo nghiệp đời nay
Với người thọ quả tương lai, bất đồng
Tôi cùng công nhận như ông
Thì còn chi nữa mà hòng cãi tranh?
71b.
"Nhưng với nhân quả trong hiện thế
Cùng một căn thân ấy, thì sao?"
72a. Trong nhân, chẳng thấy quả nào
Cha con cùng lúc không sao sinh thành.
72b.
"Thế lời Phật dạy trong kinh
Ai làm nấy chịu, ông đành bỏ qua?
Muốn ngăn chận kẻ ác tà
Đừng quên nhân quả Phật đà dạy răn.
73. Kỳ
thực xét trên phần chân đế
Tâm vị lai quá khứ đều không
Thì đâu có ngã hằng tồn
Tâm trong hiện tại diệt vong còn gì?
74. Hãy
nhìn cây chuối thân kia
Lột ra từng bẹ, còn gì nữa đâu?
Nếu đem quán tuệ tầm cầu
Không sao thấy được ngã nào thật chân.
75.
"Nếu hữu tình thật không hiện hữu
Khởi bi tâm để cứu kẻ nào?"
Do mê si khéo bày trò
Giả vờ độ chúng, chứng mau bồ đề.
76.
"Không người, ai chứng quả đây?"
Do tâm si ám đặt bày thế thôi.
Muốn trừ thống khổ mang vui
Bày ra huyễn quả huyễn người tu chân.
77. Chỉ
nên bỏ mê lầm về ngã
Làm tăng thêm tất cả khổ nhân
Cách trừ ngã chấp tuyệt luân
Là vô ngã quán, triệt dần khổ đau.
78a.
Trước hãy xét cho sâu thân thể
Xem cái gì đáng kể là thân?
Dưới từ hai gót bàn chân
Đùi và vế chẳng phải thân chút gì.
78b.
Bụng, lưng cùng ngực với vai
79. Xương sườn, tay, nách, cổ, đầu, ruột gan
Bao nhiêu phủ tạng bên trong
Phần nào tên ấy, thân đồng hư vô.
80. Nếu
thân ở khắp mỗi phần
Thì toàn thân ở mỗi phần hay sao?
Còn thân thể thật ở đâu
Cái thân riêng chẳng phần nào tương can?
81. Nếu
toàn thể ở mỗi phần
Bao nhiêu bộ phận, phải ngần ấy thân.
Thành ra vô số thể thân
Điều này phi lý, chẳng cần đắn đo.
82. Cái
thân không ở ngoài, trong
Của từng mỗi một thân phần nọ kia
Mỗi phần thân thể thật gì
Làm sao có một thân ly các phần?
83. Vậy
nên biết cái thân không thật
Vì mê mờ các vật trong thân
Tạo nên tâm chấp thể thân
Như lầm đống gạch xếp thành dáng ai.
84. Đá
kia vẫn bị trông lầm
Khi bao điều kiện gây lầm chưa tan
Khi còn tụ hội nhân duyên
Vẫn còn tay, mặt giả danh thân người.
85. Như
thân thể đã không thật có
Tay chân kia nào có thật chi
Khi càng phân tích chẻ chia
Chỉ là ngón, đốt, li ti nhiều phần.
86. Chẻ
chia đến mức tột cùng
Chỉ là những hạt không phần, không phương
Còn đâu tông tích cái thân
Dù trông như thật, hư không khác gì.
87. Ai
phân tích kỹ thân này
Lại còn tham luyến hình hài huyễn hư?
Thân dường như thể mộng mơ
Làm sao phân biệt trẻ già gái trai?
88. Kế
đến xét khổ này nếu thật
Không bao giờ khổ tận cam lai
Lạc không thực có mảy may
Vì khi đang khổ, chẳng ai thích gì.
89. Nếu
cho vì khổ đau cường liệt
Nên chẳng còn cảm giác lạc kia
Nhưng chưa trải nghiệm cái gì
Sao thành lạc thọ được, vì vô can?
90.
"Trong đại lạc, khổ phần vi tế
Khổ nhỏ này cũng kể loại vui."
Cần chi phân tích lôi thôi
Có đâu cảm thọ đồng thời cả hai?
91. Nói
"không khổ thọ hiện bày
Nơi tâm của một con người đang vui."
Đây là chấp trước lầm sai
Cái chưa hiển hiện, sao bày đặt tên?
92. Vậy
phải nên tu liền quán tuệ
Thấy Tính không đối trị sai lầm
Không gì hiện hữu thật chân
Đây là mảnh đất dưỡng sanh nhà thiền.
93. Nếu
có giữa căn trần khoảng cách
Thì làm sao có xúc sinh ra?
Nếu căn, trần cũng một nhà
Cả hai là một, ai mà gặp ai?
94. Hạt
căn và hạt thuộc trần
Bằng nhau nên chẳng thể nằm trong nhau
Không vào nhau chẳng gặp nhau
Đã không gặp gỡ, còn đâu xúc gì?
95. Nếu
cho chúng gặp nhau một phía
Tức thành ra hạt có nhiều phương
Thì còn đâu hạt vi trần
Vốn là nhỏ nhất, không phân được nào.
96. Với
thức vô sắc kia cũng vậy
Có xúc trần, vô lý lắm thay
Nếu căn trần thức sum vầy
Phát sinh nhận biết, thể nầy không chân.
97. Như
trên, xúc ấy làm nhân
Đã là không thực, thọ chân thật gì?
Nhọc công cầu lạc mà chi
Khổ nào tổn hại ai kia được nào?
98. Tìm
tông tích không người cảm thọ
Lại không luôn cảm thọ khổ, vui
Khi đà thấy được đến nơi
Quả kia là ái diệt ngay tức thì.
99.
Những gì ta thấy hoặc sờ
Đều không có thực, mộng mơ huyễn hình
Tâm sinh cảm thọ liền sinh
Nên tâm, thọ chẳng tách riêng được nào.
100. Có
thể nhớ thọ gì về trước
Hoặc cầu mong cảm giác về sau
Bản thân kinh nghiệm có đâu
Một đầu đã quá, một đầu chưa sinh.
101.
Người cảm thọ đã không có thật
Nên thọ này cũng chẳng thật đâu
Cớ sao huyễn hóa mặc dầu
Làm cho điêu đứng cả bầu thân tâm?
102. Y
thức không ở nơi căn
Cũng không nơi vật hay miền trung gian.
Đã không ngoài cũng không trong
Hoặc nơi nào khác, đều không thể thành.
103.
Không phải thân, cùng thân không khác
Không hiệp thân chẳng tách rời thân
Hoàn toàn không chút thật chân
Chúng sinh tánh vốn niết bàn từ xưa.
104.
Nếu lìa cảnh vẫn còn có thức
Thì thức nương theo vật gì sanh?
Cả hai thức, cảnh đồng sanh
Thì sao thức ấy phải cần gặp duyên?
105a.
Nếu thức xuất hiện sau đối tượng
Duyên cảnh gì để có thức sinh?
Vì khi thức ấy khởi lên
Tượng kia đã diệt, thức thành trơ vơ.
105b.
Vậy nên không thể cho rằng
Sự sinh các pháp thật chân chút nào.
106a. "Nếu không có tục đế đâu
Làm sao kiến lập hai đầu tục, chân?
106b.
"Nếu tục đế lập vì kẻ khác
Đang mê lầm các pháp thật chân
Thì làm sao để chúng sanh
Từ đau khổ đến niết bàn an vui?
("Dù cho có một số người
Có kinh nghiệm được niềm vui niết bàn
Thì không khỏi kẻ nghi nan
Vẫn còn tương đối trong vòng diệt sinh."
Thật là
có cái Vô sinh
Vì không liễu đạt, cho thành ngoa ngôn
Nhưng không vì kẻ mê lầm
Niết bàn chân thật trở thành hư vô.)
107.
Phân biệt ấy do người chưa thoát
Khi ngộ rằng các pháp phi chân
Thì đây đích thực niết bàn
Không còn kiến lập tục, chân làm gì.
108a.
"Tâm phân biệt cùng là đối tượng
Đều tương quan vay mượn lẫn nhau
Cảnh kia nếu chẳng thật đâu
Cái tâm quán sát truy cầu thật chăng?"
108b.
Đây là tục đế thế gian
Đúng theo chân đế tâm không thật gì.
109. Khi Không tính đã tìm ra
Không cần tâm nữa xét tra tâm này.
110.
Đối tượng tâm hiển bày chẳng thật
Thì tâm kia mất chỗ náu nương
Cảnh không, tâm cũng không sanh
Chính là tự tính niết bàn an vui.
111.
Thuyết cho rằng cảnh, tâm đều thật
Lập luận này xét thật khó tin
Cảnh kia do thức mà nên
Thức này thành lập do duyên cái gì?
112.
Thức mà do cảnh lập ra
Cảnh thì ai lập? Thế là vần quanh
Cảnh, tâm đối đãi mà nên
Cả hai cần biết chẳng chân thật gì.
113.
Không con đâu gọi là cha
Không cha, con ấy vậy là ai sinh?
Cha con đối đãi mà nên
Cũng như tâm, cảnh chẳng thành thật chân.
114.
"Như mầm từ hạt giống sanh
Do mầm, biết có hạt nằm dưới kia.
Do tâm từ cảnh sinh ra
Mà ta biết được cảnh kia thật tồn. "
115. Do
tâm khác với hạt mầm
Cho nên biết hạt từ mầm nọ kia
Nhưng khi nhận thức cảnh gì
Thì do đâu biết có tâm thức này?
116.
"Mọi sự không do gì sanh cả."
Nhưng thế gian thấy có nhân sinh
Như là rễ, cọng, hoa sen
Có ra do những nhân duyên hợp thành.
117.
"Do gì sinh sai biệt nhân?"
Ấy do nhân trước không từng giống nhau.
"Từ nhân sao có quả sinh?"
Đấy do năng lực vận hành từ xưa.
118.
"Trời Tự tại sinh ra tất cả."
Xin hỏi ông trời đó là chi?
"Ngài là đất, nước, hư không."
Tức là tứ đại, chứ thần thánh đâu?
119.
Đất nước vốn vô thường, nhiều thứ
Bị dẫm lên, dơ uế, không thiêng,
Không sao gọi được thần linh
Đặt tên là Tự tại thiên thêm rầu.
120. Hư
không cũng chẳng là Tự tại
Ngã cũng không tự tại chút nào.
"Khó tư nghì đấng tối cao."
Thế thì nói đến ông đâu ích gì.
121a.
"Những gì trời ấy sản sanh?
Cái ta, đại chủng, bản thân của ngài."
Đã xem trường cửu trước đây
Sao giờ nói những thứ này được sanh?
121b.
Trời cũng không thể sanh tâm thức
Duyên cảnh mà các thức liền sanh
122a. Và do tích thiện ác hành
Từ vô thủy kiếp nay thành thức tâm.
122b.
Nếu nhân đã là không khởi thủy
Quả sao mà khởi thủy được sinh?
123a. Sao không sáng tạo liên miên
Đã là Tự tại, không duyên pháp nào?
123b.
"Quả liên tục không phát sinh
Nhân tuy trường cửu, sinh cần có duyên."
Đã là đấng Tự tại thiên
Tất nhiên không thể cần duyên tác thành.
124.
Nếu nhiều duyên họp sinh ra quả
Thì duyên kia chính đã là nhân
Các duyên nhóm họp thì sanh
Không duyên tụ hội, bất thành vật chi.
125.
Nếu quả sinh không do thiên dục
Tức là do năng lực khác sanh
Nếu do trời muốn mới thành
Tức trời còn thuộc ý hành đổi thay.
126.
Thắng luận nói hạt nhân trường cửu
Đã bác không thực hữu vi trần.
Luận sư Số luận chấp rằng
Chúng sinh do một thường hằng chủ ông.
127.
"Lạc, ưu và ám bình quân[5][10]
Là ba tánh đức chủ nhân trị vì
Quân bình ba tánh lung lay
Tạo nên vũ trụ muôn loài chúng sinh."
128. Ba
tính bất đồng trong một thể
Chủ trương này phi lý lắm thay
Dù cho có những tính này
Mỗi nguyên tố phải trưng bày thành ba.
129.
Nếu không ba tính làm nhân
Quả là thanh sắc chẳng từng thực chi
Lại như vật chất vải y
Vô tâm nên cũng không gì lạc, ưu.
130 a.
"Y phục có tính như ba đức
Vì sinh ra lạc thọ vân vân."
Như trên phân biệt rõ rành
Không gì thật hữu: thể thân, áo quần...
130b.
Lại theo Số luận chủ trương
Do nhân ba đức phát sanh áo quần
Nhưng nhân gian cũng thấy rằng
Khổ vui sanh vải, thật không đúng nào.
131.
Nếu vải mà sanh ra lạc khổ
Không vải thì lạc khổ không sanh?
Cho nên nói lạc thường hằng
Tuyệt nhiên không phải thật chân chút nào.
132.
Lạc (ba tính) nếu là hằng có
Sao không vui khi khổ phát sinh?
"Vì khi ấy lạc tế tinh."
Khi thô khi tế, sao thành thường nhân?
133.
Vậy ba tính ấy vô thường
Khi vầy khi khác luôn luôn đổi dời.
Sao không thừa nhận do đây:
Hữu vi tất cả pháp này biến thiên.
134.
Lạc đã có khi thô khi tế
Hiển nhiên là lạc ấy vô thường
Trong nhân đã chẳng có chi
Tuyệt nhiên đâu có quả gì được sanh.
135. Dù
ông có chấp nhận rằng
"Quả tuy chẳng hiện, ẩn tàng trong nhân."
Quả mà sẵn trú trong nhân
Ăn vào thực phẩm cũng đồng ăn dơ.
136 a.
Lại sao ông chẳng mua bông vải
Thay vì mua vải dệt thành y?
"Thế gian vì vẫn còn mê
Nên không thấy những vật kia thể đồng."
136b.
Nhưng tông chủ Số luận tông
Cũng mang y phục từ bông vải thành.
137a. Quả mà hiện hữu trong nhân
Thì sao người tục chẳng đồng tôn sư?
137b.
"Kẻ phàm tục khi chưa đắc quả
Kiến thức chưa có giá trị gì."
Những gì do họ thấy ra
Vậy thì cũng chẳng phải là chính chân.
138.
"Mọi tri thức đều sai lầm
Thì Không tính ấy chẳng lầm hay sao.
Đương nhiên nó chẳng thật nào
Không chân thật, ích gì đâu tu hành?"
139.
Khi chưa thấy sai lầm chấp thật
Thì tính không, phi thực khó bàn
Nhưng khi vừa thấy giả, không
Cái tâm biết huyễn chẳng cần nữa chi.
140.
Như người nằm mộng chết con
Nhớ ra vốn chẳng có con cái gì
Giả tâm biết phi hữu này
Khử trừ được ý tưởng về hữu kia.
141.
Khi phân tích để làm sáng tỏ
Không vật gì không có nguyên nhân
Không hề có độc một nhân
Hay là tập hợp các nhân khởi đầu.
142.
Mọi pháp không do từ đâu đến
Không trú và diệt chẳng đi đâu
Do tâm mê chấp nặng sâu
Thấy ra có thật, mặc dầu huyễn hư.
143.
Hãy tra xét dần ra manh mối
Sự vật do duyên hội mà thành
Cùng bao cảnh vật huyễn sanh
Chúng từ đâu đến, thực tình đi đâu?
144.
Nhân duyên tu hội hiện hình
Nhân duyên tan rã thấy hình chi đâu
Đời hư huyễn tợ chiêm bao
Cảnh duyên sinh ấy khác nào bóng gương?
145.
Nếu cho các pháp là thật có
Còn cần chi tìm rõ nguyên nhân
Nhược bằng các pháp vốn không
Nhọc công tìm kiếm nguyên nhân làm gì.
146. Dù
do ức vạn nguyên nhân
Hữu không thể biến từ không được nào.
Vô đà không thể thành chi
Mất vô chẳng thể lấy gì hữu sanh.
147.
Nếu vào lúc vô, không có hữu
Thì lúc nào hữu mới có nên?
Khi mà cái hữu chưa sanh
Đương nhiên chưa thoát khỏi vành hư vô.
148.
Khi chưa tách khỏi hư vô
Hữu không thể có thời cơ hiện hình.
Cũng không thể trở thành vô
Hóa ra vừa hữu vừa vô một mình?
149.
Thế nên tánh diệt bất thành
Tánh sinh cũng chẳng có thành được đâu.
Chúng sanh ngay tự buổi đầu
Chẳng ai có diệt, ai nào sinh ra.
150.
Chúng sinh có hiện dù sao
Chỉ như cây chuối, chiêm bao mơ màng
Nên sinh tử với niết bàn
Cũng đồng một thể, bước đường không hai.
151.
Trong lý tánh xưa nay không vật
Thì có chi để được, mất đâu
Có ai cung kính cúi đầu
Có ai khinh miệt ai đâu mà bàn?
152. Từ
đâu vui khổ sinh ra
Có chi để khổ, chi mà vui chăng?
Tìm đâu cho thấy được rằng
Ai người tham ái, ái tham cái gì?
153.
Xét sâu trên thế giới này
Có ai sắp chết, ai đang sinh thành?
Đã sanh và sẽ thọ sanh?
Thật đâu thân hữu, gia đình bà con?
154.
Hỡi những ai tra tầm sự thật
Nhận cho rằng muôn vật huyễn hư
Chỉ vì ham muốn riêng tư
Mãi hoài tranh chấp, ghét thù thương thân.
155. Vì
mưu hạnh phúc bản thân
Phát sinh lo lắng đấu tranh nhọc nhằn
Có khi cốt nhục tương tàn
Gieo nhân ác, chịu trăm ngàn khổ đau.
156. Dù
gặp được sang giàu lạc thú
Chết rơi vào đọa xứ gian nan
157. Trong ba cõi thực bất an
Bị nhiều trói buộc, lẽ chân khó tầm.
158.
Trải bao xiết vô vàn thống thổ
Lực thiện hành thì quá nhỏ nhoi
Thời gian thấm thoắt như thoi
Thoáng qua già chết, mất toi kiếp người.
159.
Chỉ vì lo giữ mạng này
Chịu bao đói khát đọa đày tấm thân
Một đời lo chuyện ngủ, ăn
Bị người tác hại, ác nhân bạn bầu.
160.
Một đời vô nghĩa chóng qua
Không từng thấy vạn pháp là Tính không.
Đời nay có cách gì chăng
Diệt trừ tán loạn trong tâm ý này?
161.
Thế lực của quỷ ma rất mạnh
Khiến sa vào bất hạnh lớn lao
Đường tà nẻo ác dấn sâu
Đâu là chính đạo, không sao tỏ tường.
162.
Khó thay được lại thân người
Khó thay gặp Phật ra đời độ sanh
Khó thay đoạn dứt vô minh
Thương thay thống khổ liên miên hữu tình.
163.
Mây trôi bèo giạt lênh đênh
Ngu si chẳng ý thức mình khổ đau.
164. Kẻ thì nước, lửa lao đầu
Hành thân hoại thể, tự kiêu hạnh tà.
165.
Sống như chẳng bao giờ già chết
Theo sắc thanh mê mệt đảo điên
Tử thần đoạt mạng trước tiên
Sau còn ác đạo triền miên đọa đày.
166.
Bao giờ phước như mây tích tụ
Giáng cơn mưa pháp vũ cam lồ
Lửa hừng phiền não tan mau
Chúng sinh an lạc, đạo mầu chứng nên?
167.
Bao giờ tâm được rỗng rang
Hằng duyên Không tính, không duyên
pháp nào?
Chúng sinh chấp hữu sầu đau
Tính không diệu pháp giải bao khổ nàn.