Chương một
NỘI DUNG
CA DAO TỤC NGỮ PHẬT
GIÁO
Chữ O, P, Q
1.Oan hồn hồn
hiện.
2.Oan oan tương
báo.
3.Oản chùa cúng
Bụt, đất ruộng đắp bờ.
4.Oán tao mày
oán cho đời,
Đất vua tao ở
cơm trời tao ăn.
5.Ông sư có ngãi
và vãi có nghì.
6.Ô hố, chậu rã
cúc ngã sen tàn,
Tiếc công anh
lận đận với nàng bấy lâu.
7.Ông cha kiếp
trước khéo tu,
Nên sanh con
cháu võng dù nghênh ngang.
8.Ông Thánh còn
có khi lầm,
Huống chi con
gái tám nhăm tuổi đầu.
9.Ông Thầy đào
giếng trên non,
Đến khi có nước
chẳng còn tăm hơi.
10. Ông trăng mà
bảo ông trời,
Những người hạ
giới là người như tiên.
Ông trời mà bảo
ông trăng,
Những người hạ
giới mặt nhăn như tườu.
11. Ôi thôi tôi
muốn bứt rời duyên nợ,
Em kiếm vợ anh
lại kiếm chồng.
Làm chi đày đọa
khách hồng quần lo.
12. Ông Hương,
ông Lý bên Luơng,
Ông trùm bên
giáo, ai thương tôi nào?
Công điền cấp
được một sào,
Nửa đường đắp
cái, nửa đào ao chung.
Bốn mùa trống
dục thùng thùng,
Quan bắt nộp
thuế, lạ lùng tôi chưa?
13. Ông Tô Tử
lên chơi trên đỉnh núi,
Thấy hai vợ
chồng con chim chích.
Chín tháng mười
ngày đủ cánh mọc lông.
Vợ để con cho
chồng con bay đi kiếm chác,
Lạ thung thổ mồi
thời không được,
Bước chân ra về
chạy nhện giăng tơ,
Mãn vui chơi bắt
nhện nào ngờ.
Khí âm tối hoa
sen cụp lại,
Chồng thì mong,
con thì bỏ đói,
Hết dỗ đứng dỗ
ngồi ra ngõ đứng trông.[1]
Kìa kìa gái bốn
năm con,
Ở chửa thực lòng
chồng,
Hãy còn đang say
đắm về bên huê nguyệt.
Tôi thề rằng
trời xanh nước biếc,
Phật Thánh chứng
minh,
Núi non thề với
nước non,
Nào ai phụ rẫy
chồng con đã[2]trời!
14. Ông Tiền ông
tiên,
Ông có đồng
tiền,
Ông dắt mái tai,
Ông cài lưng
khố,
Ông ra hàng phố,
Ông mua miếng
trầu,
Ông nhai tóp
tép,
Ông mua con tép,
Về ông ăn cơm,
Ông mua mớ rơm,
Để về ông thổi,
Ông mua cái
chổi,
Về ông quét nhà,
Ông mua con gà,
Về cho ăn thóc,
Ông mua con cóc,
Về thả gầm
giường,
Ông mua nén
hương,
Về ông cúng
Bụt,…
15. Ở ác gặp ác.
16. Ở hiền gặp
lành.
17. Ở chùa đốt
chùa,
18. Ở ác cũng
thác ra ma.
19. Ở chùa cũng
có ông thiện ông ác,
20. Ở có nhân
mười phân không khó.
21. Ở không yên
đọc canh[3]
22. Ở đâu có
khói thì ở đó có lửa.[4]
23. Ở hậu gặp
hậu, ở bạc găp bạc.
24. Ở hiền gặp
lành, chui đầu giành mà trợn mắt lên.
25. Ở hiền thì
lại gặp lành,
Ở ác thì lại tan
tành như tro.
26. Ở hiền gặp
lành,
Những người nhơn
đức trời giành phúc cho.
27. Ở tinh gặp
ma,
Ở quỉ gặp quái,
gian tà gặp nhau.
28. Ở hiền thì
lại gặp lành.
Nếu ai ở ác tội
dành vào thân.
29. Ở sao cho
vừa lòng người,
Ở rộng người
cười ở hẹp người chê.
30. Ở đây gần
bạn gần thầy,
Công phu sớm tối
có ngày Tây phương.
31. Ở nuôi cha
mẹ trọn niềm,
Bao giờ trăng
khuyết lưỡi liềm sẽ hay.
32. Ở cho phải
phải phân phân,
Cây đa cậy thần,
thần cậy cây kia.
33. Ở đây những
núi cùng khe,
Nghe chuông đổ
nhịp, nghe ve gọi sầu.
34. Ơn cha nghĩa
mẹ nặng triều,
Ra công báo đáp
ít nhiều phận con.
35. Ở đây có
cảnh có chùa,
Sớm hôm nghe
pháp hơn thua làm gì.
36. Ơn cha bằng
biển cha ơi[5],
Nghĩa mẹ bằng
trời chín tháng cưu mang.
37. Ở dưới sông
sóng vận cát đùa,
Gá duyên không
đặng, vô chùa em tu.
38. Ơn ai một
chút đừng quên,
Phiền ai một
chút để bên cạnh lòng.
39. Ơn ai một
chút chớ quên,
Oán ai một chút
để bên dạ dày.
40. Ở cho phải
phải phân phân,
Cây đa cậy thần,
thần cậy cây đa.
Thương người
người lại thương ta,
Ghét người người
lại hóa ra ghét mình.
41. Ở sao cho
vừa lòng người,
Ở rộng người
cười ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng,
thấp chê lùn,
Béo chê béo trục
béo tròn,
Gầy chê xương
sống, xương sường phơi ra.
42. Ở đời nên
phải chiều đời,
Chồng thời như
cú, vợ thời như tiên,
Bởi chưng bố mẹ
em tham bạc tham tiền.
Cho nên cú ở với
tiên cùn đời,
Bao giờ mãn kiếp
con cú kia ơi?
Thì tiên với cú
mới rời được nhau.
43. Ở dưới địa
ngục có đức Địa Tạng Từ Vương,
Mở đường cho
hương linh bước,
Lên trên Thiên
đàng có đức Di đà,
Tiếp rước hương
linh,
Bên này hương
linh đi theo gót Phật để pháp văn kinh,
Phò trì phái nội
phú quý da đinh thọ trường.
44. Ở đây gần
cảnh gần chùa,
Lẽ đâu có lẽ
chuyện trò trăng hoa.
Trúc mai sum họp
một nhà,
Song tình đạo
nghĩa đã gần đồng cân.
Cũng liều phó
thác cái thân,
Khi vui cũng một
Tấn Tần mà thôi.
Ở đâu năm cửa
nàng ơi?
Sông nào sáu
khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục
bên trong?
Núi nào thắt cổ
bồng mà lại có Thánh sinh?
Đền nào thiêng
nhất xứ Thanh?
Ở đâu lại có cái
thành tiên xây?
Ở đâu là chín
tầng mây?
Ở đâu lắm nước,
ở đâu lắm vàng?
Chùa nào mà lại
ở hang?
Ở đâu lắm gỗ,
thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy
túi đồng?
Ở đâu mà lại có
con sông Ngân Hà?
Kìa ai đội đá vá
trời?
Kìa ai trị thủy
cho đời được yên?
Anh hỏi em trong
bấy nhiêu lời,
Xin em giảng rõ
từng nơi từng người.
Thành Hà Nội năm
cửa chàng ơi,
Sông Lục đầu sáu
khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông thương
bên đục bên trong,
Núi đất Thánh
Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng
nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng
có thành tiên xây.
Trên trời có
chín tầng mây,
Dưới sông lắm
nước, núi nay nhiều vàng.
Chùa Hương Tích
mà lại có hang,
Trên rừng lắm gỗ
thời chàng biết không
Ông Nguyễn Minh
Không xin được túi đồng,
Trên trời mà lại
có con sông Ngân Hà.
Nước Tàu dệt gấm
thêu hoa,
Ông Hữu sắc sinh
ra cửa ra nhà chàng ơi.
Bà Nữ Oa đội đá
vá trời,
Vua đại Vũ trị
thủy cho đời được yên.
Anh hỏi em trong
bấy nhiêu lời,
Em đã giảng rõ
từng nơi, từng người.
CHỮ P.
1.Phật Thánh.
2.Phật trời.
3.Phật tại tâm.
4.Phật tức tâm.
5.Phật Thánh phò
hộ.
6.Phật Thánh độ
trì.
7.Phật khẩu tâm
xà.
8.Phật tại tâm
trung.
9.Phá chùa phá
miễu.
10. Pháp Phật
nhiệm mầu.
11. Phúc chủ lộc
thầy.
11b. Phúc đẳng
hằng sa.
12. Phật thường
độ hữu duyên.
13. Phật tức
tâm, tâm tức Phật .
14. Phật với ma,
như cha với con.
15. Phí của
trời, mười đời chẳng có.
16. Phải tội cửa
sau, luồn vào cửa trước.
17. Phải tội mua
mạ, phải vạ mua than.
18. Phước bất
trùng lai, họa vô đơn chí.
19. Phúc chí tâm
linh họa lai thần ám.[6]
20. Phật hiền
không thờ, quỉ dữ phải cúng.
21. Phật nhà
chẳng cầu, cầu Thích Ca ngoài đường.
22. Phật bất cấu
cầu, họa vô cấu miễn.
23. Phúc đức tại
mẫu.
24. Phúc nhà vợ,
chẳng bằng nợ nhà chồng.
25. Phận đẹp
duyên may.
26. Phận mỏng
cánh chuồn.
27. Phận gái
theo chồng.
28. Phải chi lên
đặng Ngọc Hoàng,
Lén coi sổ bộ
duyên nàng về ai.
29. Phải duyên
hương lửa cùng nhau,
Xe dê họ rắc lá
dâu mới vào.
30. Phải duyên
Hồ Việt cũng gần,
Trái duyên Tần
Tần dẫu gần cũng xa.
31. Phước gì
bằng phước mẹ còn,
Họa gì sánh họa
tuổi non mất người.
32. Phải căn
duyên nhà lá cột chà là,
Không phải căn
duyên nhà ngói đôi ba toà
Cũng không tham.
33. Phải căn
duyên anh không kén không lừa.
Đám mây kia đông
đặc, gió đùa cũng tan.
34. Phải chi cải
tử hườn sinh,
Mổ gan trao lại
kẻo mình nhớ em.
35. Phụ mẫu đánh
em xương tan thịt nát, bỏ xác xuống đường mương,
Anh đấng làm
trai thông minh trí huệ sao để gái hiền lương bị đòn?
36. Phải duyên
chẳng cứ hẹn hò,
Một ngày nên
ngãi chuyến đò nên quen.
37. Phật dạy chữ
hiếu làm đầu,
Mà ai giữ được
đạo mầu mới trao.
38. Phải chi cao
đất thấp trời,
Hỏi thăm duyên
nợ đổi dời thế nao.
39. Phải duyên
phải kiếp thì theo,
Thân em có quản
khó nghèo làm chi.
40. Phận người
nát gỗ còn tro,
Phận ta nát giỏ
nhánh nà cũng không.
41. Phép chay
làm bảy ngày đêm,
Một người cầu
tự, một thầy tụng kinh.
42. Phản phúc
khác nữa đầu trâu,
Ăn cơm nhà Phật,
đốt râu Thầy chùa.
43. Phải duyên
thì dính như keo,
Trái duyên, trái
kiếp như kèo đục vênh.
44. Phen này cắt
tóc đi tu,
Tụng kinh độc
lập ở chùa Duy Tân[7]
45. Phụng hoàng
đua se sẻ cũng đua,
Anh cho trước
miễu sau chùa.
Dụng người buôn
bán, quê mùa thiếu chi.
46. Phải duyên
túc đế,[8]
Như cây cỏ để
ngoài Huế anh cũng tìm.
Không phải lương
duyên,
Như cây cúc mọc
dựa thềm anh cũng không.
47. Phàm Lê Huê
sa mê Thái tử,
Oán thù dữ còn
đổi ra hiền.
Huống chi phận
thuyền quyên,
Chẳng qua căn số
định, giận phiền uổng công.
48. Phất phơ
ngọn trúc trăng tà,
Tiếng chuông
Trấn Võ, canh gà Thọ xương.
Tuyệt mù khói
tỏa mù sương,
Nhịp chày Yên
Thái, mặt gương Tây Hồ.
49. Phát gai góc
thì thông đường cả,
Vén mây mù quả
thấy trời cao.
Phải căn duyên
ngoài đó xứ Huế cũng tìm,
Không phải căn
duyên cây cỏ mọc trước thềm cũng nhổ quăng đi.
50. Phải chi anh
chưa vợ,
Hãy còn duyên
nợ.
Em cũng cậy yên
như thuyền cậy lái,
Ai ngờ phận trái
như lái nghịch chèo.
Thôi anh phải
giữ lấy lèo,
Đừng ham thả
lỏng hiểm nghèo có khi.
51. Phận nhân
duyên em nửa mình chồng,
Bởi tại dây tơ
hồng xe nên chỉ thắm.
Vì thầy bu em
không liệu cơm gắp mắm,
Quăng em vào cố
đấm ăn xôi.
Xem anh chị đắp
điếm cho hở môi răng lạnh,
Dù khi ngang con
mắt,
Chị cũng đập rơ
trải chiếu.
52. Phụ đồng phụ
chổi, thổi lỗi mà lên,
Ba bề bốn bên,
sôi lên cho chóng.
Nhược bằng cửa
đóng phá ra mà vào,
Cách chuôm cách
ao, cách ba ngọn rào,
Cũng vào cho
lọt, cái roi von vót,
Cái vọt cho đau,
hàng trầu hàng cau,
Hàng hương hàng
hoa, là đồ cúng Phật,
Hàng chuối hàng
mật, hàng kẹo mạch nha.
Nào cô bán quế,
vừa đi vừa té,
Một lũ học trò,
người cầm quạt mo,
Là ông vợ chổi,
thổi lỗi mà lên.
53. Phen này
quyết chí đi tu,
Tam qui ngũ giới
tu chùa hồ sen.
Thấy cô má phấn
răng đen,
A Di Đà Phật anh
quên mất chùa.
Có ai mua mõ thì
mua.
Chữ Q
1.Quả báo nhãn
tiền.
2.Quả kiếp tu
hành.
3.Quỉ phá nhà
chay.
4.Quỉ tha ma
bắt.
5.Quỉ khóc thần
kinh.
6.Quỉ khóc thần
sầu.
7.Quả dục bảo
thâm.
8.Qua được cửa
Trà, phúc đức bằng đình thượng[9]
9.Qua chợ còn
tiền.
Vô duyên càng
khỏi nhẫn má.
10. Quí thay đức
Mục Kiền Liên,
Treo gương hiếu
thảo muôn nghìn thiên thu.
11. Quê tôi vốn
chỗ không nhà,
Cha tôi là Phật,
mẹ là Pháp không.
12. Quan nói
hiếp,
Chồng nói nghiệp
nói thừa.
13. Qua như quả
tử trên bàn,
Để chưng Phật
thủ vững vàng xem chơi.
14. Quả chuông
treo mấy cửa chùa,
Nước Nam Việt
mấy ông Vua trị vì.
15. Quả chuông
treo mấy quả chùa,
Làm thân con gái
bán mua mấy lần?
16. Quả báo cắn
cháo gẫy răng,
Ăn cơm gẫy đũa,
xỉa răng gẫy chầy,
17. Quân tử thời
oán tam niên,
Tiểu nhân thời
oán nhãn tiền mà thôi.
18. Quê ta có
dải sông Hàn,
Có chùa non
nước, có hang Sơn trà.
19. Quỳnh lâm
Khánh đá chuông đồng,
Muốn chơi em giả
của chồng em chơi.
20. Qua cầu, cầu
yếu phải nương,
Từ rày bạn cũ
thôi thương mình rôồ.
Tai nghe bạn cũ
có đôi,
Trong lòng bối
rối như vôi mới hầm.
Cầm tay bạn cũ
khóc thầm,
Từ nay hương
phải khóc trầm, trầm ơi!
21. Qua chùa núi
Hó, thắp bó nhang vàng,
Xin cho bạn cũ
lại hoàn như xưa.
Trông trời chẳng
thấy trời mưa,
Rồng đi mấy nước
rồng chưa kịp về.
Lựu tìm đào, đào
chẳng tìm lê,
Lên non tìm quế,
quế về rừng xanh,
Trách cho ai
trông ngọn thác cành.
22. Quê tôi tên
gọi Việt Nam,
Đã vì giông bão
điêu tàn xác xơ.
Dân em tháng đợi
năm chờ,
Thanh bình trở
lại ước mơ tựu thành.
Quê em đồng
ruộng gió lành,
Có chuông tối có
trăng thanh dịu dàng.
Anh ơi về với
xóm làng,
Thương yêu thành
một cung đàn dựng xây.
Quê tôi có gió
bốn mùa,
Có trăng giữa
tháng có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió
sớm trăng rằm,
Chỉ thanh đạm
thế âm thầm thế thôi.
Mai này tôi bỏ
quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió
chao ôi bỏ chùa.
Đem thân đi với
giang hồ,
Sân ga phẳng
lặng, bến đò lênh đênh.
[1]
Có nơi chép: ra ngõ còn trông
[4]
Có bản chép: ở đâu có khói thì lửa ở đó
[6]
Khi phúc đến tâm trí nghĩ đâu trúng đó, lúc họa đến thì trăm điều nghĩ
không trúng một điều
[7]
Bài này tìm ra là của Nguyễn Quyền. 1905 trong thơ văn CM. Việt Nam:
Phen này cắt tóc đi tu
Tụng kinh độc lập ở chùa Duy Tan
Đêm ngày khấn vái chuyên cần
Cầu cho ích nước lợi dân mới là
Quyết tu cho mở trí dân nhà
….
Lòng thành thấp một tuần nhang
Nam mô Phật tổ Hồng bàng chứng minh.
[9]
Tương truyền rằng, ngày xưa cửa sông Trà Lý có một con cá lớn nổi lên.
Những đêm tối trời cá nổi lên, trông đỏ rực
cả một đám cửa sông, cá đi đến đâu mặt nước sôi động ầm ầm. Dân chài
lưới ở đây rất sợ, gọi là cá Thần