PHẦN MỘT
- Đức Phật
PHẦN HAI
– Pháp
-
Giáo lý tổng quát
-
Tịnh Độ, niệm Phật
-
Thiền
-
Giới luật
-
Từ bi
-
Bồ Đề, Bồ Tát
-
Cây đa
-
Nghiệp
-
Phiền não, khổ hạnh
-
Khổ
-
Khổ hạnh
-
Kiếp số, kiếp
-
Đời, Đời người
-
Vận, Số phận, Mệnh
-
Vô minh, Ngu si, Địa ngục
-
Bố thí
-
Vô thường
-
Tham lam, ích kỷ
-
Lành, Thiện, Ngay thẳng
-
Ác, Tội lỗi, Gian dối
-
Nhân quả, Quả báo
-
Tâm
-
Hiếu, Báo hiếu
-
Duyên, Nhân duyên
-
Căn duyên
-
Ái dục
-
Duyên nợ
-
Duyên phận, Duyên kiếp
-
Duyên
-
Ngôn ngữ ảnh hưởng Phật Giáo
PHẦN BA
– Tăng
-
Tu hành
-
Chùa
-
Chay, Ăn chay
-
Làm chay, Ma chay
-
Ân nghĩa
-
Phước đức
-
Oan nợ
-
Thập phương
-
Thể, nguyện ước
-
Hoa sen
-
Hội hè
-
Chuông mõ, Phướn, Tượng, Hương đèn
-
Công quả
-
Hộ pháp
-
Lễ bái, Thờ phụng
-
Tương chao
-
Xôi chùa oản Phật
-
Quỷ ma, Thần thánh
PHỤ LỤC – Thai đố
Bảng kê khai Tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
Trải suốt hơn 2000 năm
từ khi du nhập, Phật giáo đã bắt rễ sâu rộng trên mảnh đất Việt Nam, cùng
với dân tộc trải qua những thăng trầm lịch sử. Ảnh hưởng của Phật Giáo đối
với dân tộc thật sâu đậm. Từ trong tư duy, tình cảm, thể hiện ra trong
ngôn ngữ và trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.Ở đây chúng tôi muốn nói
riêng đến ca dao, tục ngữ, một mảng văn học rất phong phú vô cùng quan
trọng, định hình cho văn hóa Việt Nam.
Chúng tôi vào chùa từ thuở nhỏ nhưng dư âm câu hò
câu hát của mẹ, của lời dẫn dụ của cha vẫn còn như văng vẳng. Được học
kinh kệ ở chùa lại được Bổn sư chỉ cho cách ghi chép những câu ca dao tục
ngữ liên quan đến Phật Giáo nên cũng tích lũy được khá nhiều. Sau này lại
có duyên may gần gũi với văn học Việt Nam qua học tập, nghiên cứu, giảng
dạy chúng tôi càng cảm nhận được sự gắn bó mật thiết giữa Phật giáo và mọi
hình thái sinh hoạt của người Việt Nam, đặc biệt là trong ca dao tục ngữ
mà chúng tôi vẫn hằng mến yêu, trân trọng. “CA DAO TỤC NGỮ PHẬT GIÁO VIỆT
NAM” là một nỗ lực sưu tập của chúng tôi từ hơn 30 năm qua.
Gần 2000 năm câu ca dao tục ngữ trong tập sách
này được sưu tầm, chọc lọc qua các tài liệu văn học, qua các bậc Trưởng
lão, các vị Thiện tri thức, đồng sự và quần chúng Phật tử và nhất là chị
tôi, người đã giúp tôi nhiều trong khi sưu tập.Chị tôi cũng đã lấy đề tài
về “Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao tục ngữ” khi làm luận văn ra trường ở
Đại học Sư phạm vào thập niên 60. Chúng tôi thầm biết ơn tất cả. Chủ
trương của chúng tôi là cố gắng sưu tập tối đa những câu ca dao tục ngữ
liên hệ đến Phật giáo, dù sự liên hệ này là rõ rang hay chưa đậm nét, kể
cả những câu phê bác về một số nhân cách Phật giáo riêng lẻ.
Lại nữa, cái sức sống của tư tưởng khiến tư tưởng
chuyển biến theo hoàn cảnh xã hội; tư tưởng Phật giáo Ấn Độ trở thành tư
tưởng Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự kết hợp với tư tưởng Phật, Nho,
Lão của Trung Hoa và với tư duy của người Việt; cho nên cónhững câu ca dao
tục ngữ đặc biệt mang hình thức Phật giáo, nhưng phù hợp với giáo lý của
Đức Phật vẫn được người Phật tử xem là ca dao tục ngữ Phật giáo. Vì lý do
đó, độc giả có thể tìm thấy trong tập sách này những câu ca dao tục ngữ
nói đến Phật, đến Pháp, đến chư Tăng; nhiều câu có nhắc đến một số thuật
ngữ Phật giáo như nhân duyên, quả báo, công đức, thiện ác, hiếu thảo, hào
quang, chân lý … và nhiều câu xem ra chỉ phản ảnh cái quan niệm thiện ác
thông thường thậm chí nhiều câu diễn dãi chưa đúng mức về Phật giáo cũng
được xem là có liên hệ với Phật giáo. Đối với một số độc giả việc sưu tầm
của chúng tôi có thể có phần tham lam, thậm chí có chỗ quá tham lam, nhưng
chúng tôi tin rằng đối với đa số độc giả, nhất là các Phật tử hẳn cũng
chấp nhận quan điểm của chúng tôi về việc sưu tập.
Để độc giả tiện việc tìm kiếm, các câu ca dao tục
ngữ trong sách này một mặt được xếp theo thứ tự của bảng chữ cái, mặt
khác, một cách tương đối, được xếp theo chủ đề. Ba chủ đề lớn là Phật,
Pháp và Tăng. Những câu có nhắc đến Đức Phật, đến Chư Tăng không nhiều
bằng những câu có liên hệ đến giáo lý của Đức Phật, tức Phật pháp. Lại
nữa, từ Pháp ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng rãi, vừa có ý nghĩa là
giáo lý, vừa có ý nghĩa là sự vật, sự kiện, đề tài … liên hệ đến Phật giáo
như tu hành, chuông mõ, chùa chiền, tranh tượng …
Sưu tập ca dao tục ngữ Phật giáo mới chỉ là
những bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu văn học Phật giáo dân gian.
Những bước đầu tiên này tưởng đơn giản nhưng thật ra cũng đòi hỏi lắm công
sức. Tập sách nhỏ này chỉ là một trong những bước. Nó cần được bổ sung
hoặc thay thế bởi những công trình sưu tập đầy đủ hơn, có hệ thống hơn của
những nhà sưu tầm, nghiên cứu khác. Và công việc nghiên cứu ca dao tục ngữ
Phật giáo Việt Nam còn phải được nhiều khối óc uyên bác đóng góp vào để
làm nổi bật các ý nghĩa Phật giáo Việt Nam ở trong tâm khảm và trong mọi
hình thái sinh hoạt của người Việt Nam.
Thô thiển mấy lời, kính mong các Thiện tri thức,
chư độc giả thông cảm.
Vạn Hạnh Thiền Viện,
Mạng hạ, PL 2545, Tân Tỵ 2001
Lệ Như Thích Trung Hậu
Lời giới thiệu
ĐỌC SÁCH CỦA THẦY TRUNG HẬU
Ca dao, tục ngữ là gia tài văn hóa của
dân tộc. Chúng ta thừa hưởng gia tài đó từ quần chúng, vì quần chúng vừa
là người sáng tạo vừa là người lưu giữ bằng cách truyền miệng từ đời này
qua đời khác. Một lời thốt ra đây đấy, rồi đồng thanh tương ứng, như thử
đó là sự thực của chính lòng mình, như chính mình thốt ra.
Nói sáng tạo tức là nói cảm hứng. Quần chúng rút
cảm hứng tư đâu để sáng tạo? Từ trong sâu thẳm của vốn liếng văn hóa un
đúc từ ngàn xưa. Cũng từ trong sâu thẳm đó, sáng tạo bắt gặp hưởng ứng của
tập thể, được truy nhận, trút bỏ tính cánh riêng tư cá nhân và biến thành
gia tài của tập thể.
Từ ngàn xưa, Phật giáo đã tô bồi văn hóa cho đất
nước này, đã trở thành văn hóa của dân tộc. Như vậy, tất nhiên Phật giáo
đã cung cấp cảm hứng, đã là nguồn cội chính của sáng tạo và truy nhận tập
thể trong việc hình thành ca dao tục ngữ. Nhận định có tính cách hiển
nhiên này tạo ra hai phản ứng đối nghịch nhau nơi người nghiên cứu về ca
dao tục ngữ, vừa hứng khởi vừa nhụt bước. Hứng khởi vì mưa gió thuận hòa
như thế giữa Phật giáo và nhân gian, mùa gặt ca dao tục ngữ chắc chắn phải
đầy ắp Nhụt bước, vì chính mưa thuận gió hòa đó trong tâm hồn quần chúng
khiến cho sự quan sát ảnh hưởng của Phật giáo trong tục ngữ ca dao thành
ra phức tạp. Trái cây đang chín trên cành, làm sao phân biệt đâu là cống
hiến của đất, đâu là góp phần của phân bón?
Tác giả cuốn sách này đã nhụt bước như vậy không
phải một lần, ngay từ câu hỏi đầu tiên. Làm sao chọn lựa? Đứng trên tiêu
chuẩn nào? Không tiêu chuẩn nào hoàn toàn khách quan cả. Lấy một ví dụ:
nhân duyên. Tư tưởng rất bác học này của Phật giáo được dân gian tiếp nhận
như một chuyện hiển nhiên trong đời sống thường ngày, như chim hót bướm
bay. Trai gái gắn bó với nhau? Nhân duyên. Phụ bạc nhau? Cũng nhân duyên.
Hàng trăm câu tục ngữ ca dao như vậy, biết lấy câu nào bỏ câu nào? Lấy ít
thì bất công, lấy nhiều thì lạm phát, lấy nửa chừng thì vừa lạm phát vừa
bất công.
Tình cha nghĩa mẹ là một ví dụ khác. Ở đây vừa có
chữ hiếu của Nho giáo vừa có chữ hiếu của Vu Lan. Hai tình cảm trộn lẫn
với nhau, tùy lúc phần này đậm hơn phần kia. Làm sao phán đoán khách quan
để chọn lựa: đây đậm màu Phật giáo hơn đó? Đã trích câu này sao lại bỏ câu
kia? Giống như một tiếng chuông ngân, ai dám quả quyết đâu là lúc ngân nga
tan biến hẳn trong không trung?
Cũng vậy, những khái niệm ngôn ngữ như phước,
đức, tội, nghiệp, phận, số, kiếp … hoặc những hình ảnh, âm thanh như chùa,
tượng, hương đèn, hoa sen, chuông mõ … nằm trong rất nhiều thề thốt, ví
von, hẹn hò, trách móc giữa trai gái, vợ chồng. Chẳng lẽ nghe tiếng chuông
này mà bỏ tiếng chuông kia?
Chọn lựa của tác giả quả là ray rứt, bỏ thì
thương vương thì tội. Tác giả đành mang tội, đành gánh tội nghiệp trên
vai, gánh mọi phê bình chỉ trích mà tác giả biết trước. Bù lại, người đọc
tha hồ thướng thức hoa thơm quả lạ mà tác giả đã hái trong nhiều chục năm
qua với lòng thương trải rộng trên cả những trái đắng chát, độc.
Ở đâu, trong bất kỳ văn hóa nào, quần chúng cũng
thích hóm hỉnh, trào lộng, tiếu lâm. Đặc tính đó phát biểu tràn đầy trong
tục ngữ. Ở Pháp, hồi thế kỷ XVII, César Oudin, trong Les Curiosités
Francaises (1640), đã phân loại tục ngữ theo thứ lớp như sau: familières,
vulgaires, basses, triviales (trêu chọc, tầm phào, hạ tiện, thô bỉ). Trong
sách này, bốn loại đó không thiếu. Cùng với những chấp tay cung kính,
những tiến cười bốn loại này vẽ ra hình ảnh của Phật giáo trong dân gian
sung kính từ bi, nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên, hiếu hạnh trong đạo
Phật. Và nhân gian đòi tôn trọng chữ giới. Không đặt chữ giới lên hàng
đầu, hãy cúi đầu gánh chịu tiếng cười, kể cả tiếng cười độc, của nhân
gian. Hãy quán tiếng cười đó, biết ơn những người đã cười độc, và trải
lòng từ bi đến với họ.
Tôi rất hân hạnh được Thượng Tọa Trung Hậu cho
cái phước viết mấy dòng này ở đầu sách. Sự kính trọng và tình cảm thân mật
lâu đời của tôi đối với Thượng Tọa cho phép tôi cũng cười một tiếng với
tác giả qua hai câu chuyện thiền.
Câu chuyện thứ nhất, tôi nghĩ là chuyện thiền
nhưng quá phổ thông trong quần chúng đến nỗi đã thành ra chuyện ngụ ngôn
mà thế hệ của tôi đã học từ lớp ba trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Một chú
bé thọc tay vào hũ kẹo, bốc cả một nắm kẹo, rút tay không ra. Nhưng nếu
Thượng Tọa cho một chiếc kẹo để có thể rút tay ra dễ dàng thì lại thương
mấy chiếc kẹp kia quá trong nắm tay.
Chuyện thứ hai là chuyện gió thổi. Mùa hè nóng
bức, sư phụ ngồi quạt phe phẩy. Chú tiểu lại gần, thưa: “Bach Thầy, bản
chất của không khí là hiện diện cùng khắp, còn gió thì chỗ nào cũng thổi
cả. Bach Thầy, tại sao Thầy phải dùng quạt? Tại sao Thầy phải tạo ra gió?
Chú tiểu thông thái quá, nhưng những bậc thông
thái.
Sư phụ đáp: “Chú chỉ biết rằng bản chất của không
khí là hiện diện cùng khắp, nhưng chú không biết tại sao chỗ nào cũng có
gió thổi.”
Chú tiểu hỏi lại: “Bach Thầy, Thầy nói “không có
chỗ nào mà không có gió thổi”, như vậy là nghĩa làm sao?”
Sư phụ không nói gì nữa, im lặng tiếp tục phe
phẩy. Chú tiểu cúi đầu, chấp tai vái rồi bước ra.
Thượng Tọa Trung Hậu ngồi phạt phe phẩy. Chỗ nào
mà không có làn gió Phật giáo?
Phật lịch 2545
Tân Tỵ 2001
Gs. Cao Huy Thuần.
(Paris)