Tác phẩm: "CON VỀ
CÒN TRỌN NIỀM TIN". Tác giả: Thích Giác Tâm - Nhà xuất bản Phương Đông -
TP.Hồ Chí Minh, xuất bản tháng 01 năm 2012. Ấn bản giấy 368 trang, cả bìa. Khổ
13x20.5cm
Bản điện tử chia thành hai tập. Tập 1 - 30 truyện. Tập 2 -
34 truyện.
Tập 1
Ba và Vu Lan
Bên
cạnh chùa có một dòng sông, ngày xưa tôi còn nhỏ con sông rất nhỏ, có
thể gọi là con suối. Bắt qua suối là chiếc cầu bằng tre, chông chênh lắt
lẻo. Thỉnh thoảng tôi đi qua phía bên kia suối trên chiếc cầu tre gập
ghềnh, đung đưa như chiếc võng để qua bên kia buôn làng đồng bào Thượng mua
bí ngô,bắp ,măng le, về ăn. Có những buổi chiều ngồi bên bờ suối nhìn
nước nhìn mây, nhìn những đàn bò lội qua suối về bên kia buôn làng,
nhìn
những em bé người Thượng chăn bò, tay cầm ống thục với bì cò ke, bắn nổ
lách tách trên đường về buôn. Mười năm sau đó con suối đã biến thành
sông, vì cuối nguồn nước dòng chảy đã ngăn lại. Thỉnh thoảng , những
buổi chiều tôi lại ra sông, chiếc cầu tre lắt lẻo năm xưa đã không còn
nữa, qua lại đôi bờ là những chiếc ghe nhỏ, do những người Thượng đưa
đón lấy tiền. Vẫn như năm xưa, dòng sông vẫn trôi chảy ngày đêm, sông
chảy, cuộc đời trôi chảy, người già ra về cõi khác, người trẻ xuất hiện
lớn lên, già trẻ nhìn nhau ngỡ ngàng han hỏi. Dòng chảy là một nhưng tên
đã khác, đôi bờ đã khác, Núi Tiên Sơn sau chùa cũng đổi khác, màu xanh
không còn, trơ trụi. Mùa nắng khô ban đêm nhìn về núi, núi cháy đỏ rực
loằng ngoằng như những con trăn khổng lồ trườn bò xuống núi.
Mười năm
sau nữa dòng sông rộng thêm ra vì ngành thuỷ lợi ngăn dòng để lấy nước
tưới cà phê, sông bây giờ mùa mưa đã trở thành một cái hồ mênh mông,
khoảng cách đôi bờ mênh mang xa lạ. Mười năm, mười năm, rồi mười năm…
bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, dâu bể đổi thay. Đêm nay bỗng dưng tôi
nhớ đến đến những, những mười năm về trước, liên quan đến một bức thư mà
tôi đã viết để hàn gắn đỗ vỡ trong tình thân.
Mười sáu năm trước, tôi có người bà con, cha mẹ thì còn ở Việt Nam,
nhưng những người con thì định cư ở Mỹ, không hiểu duyên cớ gì một trong
những người con đem lòng giận cha, gọi điện thoại về nói rằng sẽ không
về Việt Nam nữa, sẽ không nhìn mặt cha nữa. Ông buồn phiền khổ đau, nhờ
tôi trung gian hoá giải. Tôi đã viết thư hoá giải với tất cả nỗi niềm,
gởi qua đường Bưu Điện, ngày đó không có email. Một tháng sau tôi nhận
được thư hồi âm của người cháu, nói rằng :” Chú ơi ! cháu muốn bay về
Việt Nam quỳ dưới chân ba để sám hối, để tạ lỗi với ba, muốn về Biển Hồ,
Pleiku thăm chú, cảm ơn chú, nhờ chú mà cháu đã không mất ba, và ba
cháu đã không mất cháu. Nhân đây chú cũng xin có vài lời với gia đình
cháu K. Chú đưa bức thư nầy lên blog của chú để kỷ niệm một giai đoạn.
Năm mà chú viết bức thư này, năm đó chú đau bệnh nhiều lắm, chùa chiền
cơ cực, đi tìm tờ giấy, cây viết để viết thư cũng rất khó, viết nửa
chừng thì hết mực, phải đi mượn cây viết hàng xóm viết tiếp. Chuyện
riêng của một gia đình, tuy vậy cũng là chuyện chung cho tất cả. Trong
kinh Hoa Nghiêm Đức Phật có dạy “ Một là tất cả, tất cả là một “ cho nên
chuyện của tôi, có khi cũng là chuyện của anh, của chị của em. Mùa Vu
Lan phần đông viết về mẹ, bức thư này đăng lên là để kỷ niệm tình cha.
Bác đã lớn tuổi, vẫn còn khoẻ bên cạnh các con các cháu, đó là diễm phúc
lớn cho những người con người cháu, hãy trân trọng giữ gìn báu vật ở
bên ta, trong tay ta, đừng để vuột khỏi tầm tay rồi ân hận thở than.
Viết miên man không đầu không đuôi trong mùa Vu Lan Báo Hiếu Phật Lịch
2552, để thân tặng những người thân của tôi. Bông hồng tôi đã cài lên áo
các em, các cháu rồi đó, hãy sung sướng đi.
Thích Giác Tâm
-------------------------------------------------------------
Sài Gòn ngày 16.09.1992
Ng. K !
Trước
mặt là tờ giấy trắng. Chú đang nhíu mày suy nghĩ một chút để viết cho
K. Chưa biết viết gì thì bên nhà hàng xóm lại vang vang lên ca khúc :
“Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ, mây bay bao năm ngỡ mình đã quên
…” Hai chữ tưởng và ngỡ đã làm lay động lòng người, đã nói lên được cái
tình Đông phương-Việt Nam. Thì ra sự biệt ly chia cách cũng có cái mầu
nhiệm dễ thương của nó, chứ không hẳn chỉ là đớn đau sầu khổ không. Chú
nhận ra điều đó khi gặp lại H và cháu K T sau mười mấy năm biền biệt quê
hương. Và cũng hiểu thêm một khía cạnh khác nữa của ngôn ngữ. Vì sao
các Thiền Sư rất ít nói, mà khi nói thì như sấm sét rung chuyển, thức
tỉnh lòng người. Vì các ngài hằng sống với chân tâm.
Gặp nhau hằng ngày, nói chuyện với nhau thường xuyên, chúng ta thường
coi thường nhau, thiếu cẩn trọng , thiếu sự chú ý trong khi đối thoại,
và do đó nghe mà dường như không hiểu người đối diện muốn nói gì. Từ suy
nghĩ đó chú thấy rằng cơ hội được nói chuyện và lắng nghe mẹ con H
không có nhiều lắm cho nên khi nghe H và K T nói, chú nghe với tất cả
tâm hồn và phát hiện ra rằng ma lực của ngôn ngữ thật kỳ diệu, nếu chúng
ta nói chuyện với nhau bằng con tim. Lúc chia tay ở phi trường H có nói
với chú : “Chào chú cháu đi, chú ở lại nhớ giữ gìn sức khoẻ”. Chừng đó
câu chữ thôi, mà cảm động đến nỗi chú không nói lại được gì để tiễn đưa
H. Không biết H có hiểu cho chú không?
Máu huyết ách tắt, hay vô thức lo lắng vu vơ thế nào đó mà hồi hôm chú
nằm mơ thấy K về mà chú không đến đón được. Còn nơi chú ở không phải là
Biển Hồ Pleiku, cũng không phải Sài Gòn . Mà ở trên một đồi cao xa lạ
nào đó, tĩnh lặng và nhiều tiếng chim. K có đến tìm thăm chú nhưng chú
lại đi vắng , người thân chú nói lại với K rằng : “Chú đi đâu đó mười
lăm phút rồi sẽ về liền”. K ngồi chơi đợi chú, nhưng rồi K không đủ kiên
nhẫn đợi đã ra về. Giấc mơ thì chỉ chừng đó thôi nhưng cũng làm cho
lòng chú bâng khuâng, buồn . Buồn vì chú không đến đón K được , và K thì
bị cuộc sống hối hả của Tây Phương níu kéo, không đủ kiên nhẫn đợi chờ
thăm chú. Mà thôi đó chỉ là mộng mị chớ chú cháu mình không đến nỗi nào
như vậy đâu phải vậy không K ?
Chú cùng với gia đình có xem lại cuộn băng video đón và đưa tiễn H và K
T nhìn từng gương mặt của người thân hiện lên qua màn ảnh chú thấy có
nụ cười và nước mắt . Quá khứ và tương lai của từng người mờ mờ rồi rõ
nét trong tâm chú . Nhất là bác .
Hôm chở KT đi một vòng Sài Gòn để mua đồ chơi bằng sành sứ. Nhìn mấy
thầy trò Đường Tăng, tháp chùa, gia đình thỏ mèo … K Tcó nói với chú :
“Không biết vì sao mà cháu thích người cá quá !”. Bây giờ đây bắt chước
lối nói của K T, chú cũng muốn nói rằng : “Không biết vì sao mà chú rất
thương bác”. Có lẽ một phần bác là ba của H. K. G. T. D. phần nữa là chú
rất hiểu bác : Một con người có sao đào hoa chiếu mạng, tuổi trẻ yêu
thương nhiều nên gia đình không hợp nhất. Con cái thì thương mẹ nhiều
hơn ba, thành thử trong nụ cười của bác vẫn thấy được chất cô đơn và
muộn phiền. Chú vừa biết được bác năm nay 68 tuổi, hai năm nữa là 70 ,
sẽ xếp vào hạng người xưa nay hiếm. Tuổi tác đó thần kinh tim mạch không
còn vững vàng tốt nữa, một con người khi về già tính tình thường thay
đổi giống như con nít. Thỉnh thoảng chú cũng thấy ở nơi bác điều đó- sự
lẩm cẩm của người già-
Nhiều lần nhìn bác, thấy gương mặt vuông chữ điền lông mày rậm sắc, mắt
hơi xếch, chú có suy nghĩ : “Bác chắc dữ lắm” . Nhưng rồi nhìn lại sự
thành đạt của những người con gái. Tục ngữ Việt Nam có câu : “Con gái
nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ” thì chú suy nghĩ ngược lại . Nếu bác
dữ và làm nhiều việc không lành thì làm sao có được những người con gái
như vậy . Những người em người cháu ở phương xa của tôi ơi, có lần nào
nghĩ đến điều ấy không ?
Sáng nay ngồi uống nước trà với bác với cô, chú có nói chuyện với hai
người, tháng mười hai này K và T về thăm, cô bác hãy tạo điều kiện để
cho hai nhỏ được đi đây đi đó, nhất là Huế thế nào cũng phải tìm về thăm
vì còn bà ngoại ngoài đó . Thăm bà một lần trước khi bà nhắm mắt , để
sau này khỏi ân hận thở than . Thăm nhà thờ họ thắp cho các vị tiên hiền
một nén nhang , và cũng để cho các vị sung sướng mỉm cười , tự hào rằng
: “Dòng họ Đặng đã có những đứa con đứa cháu làm vẻ vang cho tộc họ như
vậy” . Thăm chùa Linh Mụ cổ kính trầm mặc bên dòng Hương giang, đền đài
lăng tẩm của dòng họ Nguyễn một thời vang bóng. Về cồn hến ăn một chén
chè bắp thơm phức ngọt lừ . lại chợ Đông Ba ăn một tô bún bò Huế đặc
biệt cay xè chảy nước mắt . Nhìn sông An Cựu nắng đục mưa trong …
Những người em những người cháu gốc Huế của tôi ơi ! Huế chi mà không
biết cầu Tràng Tiền , sông Hương ra răng , núi Ngự Bình ở chỗ mô lẽ nào
trong trái tim của các em các cháu không còn chỗ dành cho Huế , mà nếu
nhớ sao không chịu tìm về thăm.
Huế vẫn còn thơ mộng như ngày nào , có về Huế vào dịp phượng nở đi trên
con đường Lê Lợi ven sông Hương , nhìn những cô nữ sinh nón lá che
nghiêng với chiếc áo dài trắng từ trường Đồng Khánh ùa ra, trên con
đường ngập đầy hoa phượng đỏ ta mới thấy hết cái đẹp của Huế của quê
hương.
Cuộc đời dẫu biến thiên thăng trầm mấy đi nữa, nhưng cái đẹp thì muôn
đời vẫn hiện hữu, cho nên chú rất mong các em các cháu nơi phương trời
lữ thứ đừng bao giờ lãng quên cội nguồn và cái đẹp quê hương. Vì mỗi
người chỉ có một quê hương mà thôi.
Chú rất ít làm thơ , nhưng thấy bác có tâm sự có nỗi niềm, vì núm ruột
mình vẫn không hiểu mình , vẫn hờn oán trách cha. Chú kết thúc bức thư
này bằng một bài thơ lục bát :
Nghĩ về cốt nhục tình thâm
Thì thôi chuyện cũ để tâm làm gì
Tuổi ba giờ sớm ra đi
Thương ba không hết, nói chi nặng lời
Từ em … Ba chẳng nói cười
Âm thầm lặng lẽ, thở dài đêm đêm
Công cha núi Thái - chưa đền
Mong em ngưỡng vọng ân trên nguyện cầu
Để rồi trong những đêm thâu
Nghĩ về em ba vợi sầu - sống thêm.
Thích Giác Tâm