Chư tôn đức Tăng Ny - Quan khách - Phật tử tham dự lễ khai mạc
Nhân đại lễ kỷ niệm 50 năm Bồ tát Quảng Đức vì pháp
thiêu thân (1963-2013) Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa có mời BTS Phật giáo tỉnh
Gia Lai tham dự, đoàn Phật giáo Gia Lai chỉ có hai vị: Tôi và HT. Thích Tâm Tường, trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh. Từ Gia Lai đi
quốc lộ 14 đến địa phận tỉnh Đăk Lăk rẽ sang quốc lộ 26 đến Ninh Hòa chúng tôi
tìm thăm các ngôi chùa, tổ đình ở Ninh Hòa do Bồ tát Quảng Đức khai sơn, trùng
tu, ẩn tu đó là tổ đình sắc tứ Thiên Bửu thượng, Thiên Bửu hạ, chùa Thiên Tứ ,chùa
Đức Hòa. Chúng ta học lịch sử trong thư tịch sách vở không thể nào bằng đi thực
tế, đi tìm về cội nguồn lịch sử, bởi khi tiếp cận với di tích, di vật, nhân chứng
sống lòng chúng ta rung động, cảm xúc hơn rất nhiều. Chùa Thiên Tứ nơi Bồ tát một
thời tu hành, cái chuông cái mõ Bồ tát hành trì, di ảnh của Bồ tát ngày còn trẻ
vẫn còn, xá lợi xương của Bồ tát vẫn còn tôn thờ nơi đây, những giai thoại về Bồ
tát đã được Đại đức Như Hoằng trụ trì chùa Thiên Tứ sưu tầm suốt 25 năm với những
nhân chứng sống. Đọc lại những giai thoại của Bồ tát về cách: Trị bệnh tà thần con ranh con lộn ( càn sát quái)1920, Sự hiếu nghĩa của Bồ tát, Bồ
tát đi chợ nấu ăn cho đệ tử làm chùa 1935, Bồ tát hái thuốc và quy y thai nhi trong bụng mẹ 1937, trị bệnh bằng nước lạnh tại làng Mỹ Trạch
1944.... Tất cả những giai thoại về Bồ tát Thích Quảng Đức đều toát lên lòng từ
bi vô hạn đối với con người, quần chúng khổ đau cơ cực. Hòa thượng Thích Ngộ
Tánh phó ban trị sự PG tỉnh, trưởng ban trị sự PG huyện Ninh Hòa cho chúng tôi
biết:" Phật giáo huyện Ninh Hòa hiện nay có trên 80 ngôi chùa, 240 Tăng Ny,
là nhờ ân đức của Bồ tát giáo hóa, khai
sơn, trùng tu của các ngôi tổ đình ngày xưa còn lại, từ đó đâm chồi nảy lộc cho
ngày hôm nay".
"Chùa
là văn hóa gốc, ngôi chùa còn là văn hóa còn. Văn hóa còn là góp phần làm cho đất
nước phồn vinh vững bền mãi mãi" chính từ ý
nghĩa đó mà suốt đời Bồ tát không khi nào là không nghĩ đến xây chùa, trùng tu
chùa. Ba mươi mốt ngôi chùa mà Bồ tát trùng tu xây dựng không phải là ít với thọ
mạng 73 tuổi. Nhân duyên gì mà Bồ tát xây dựng được nhiều chùa như thế ? Câu trả
lời là do lòng từ bi của Bồ tát quá lớn (
Đại Từ Bi) chúng sinh đau khổ triền miên, ngụp lặn trong vô minh phiền não,
không có chùa thờ Phật, không có Tăng Ny hoằng đạo làm sao chúng ta thấy được
ánh sáng trí tuệ, làm sao chúng ta có được từ bi. Không có từ bi và trí tuệ
chúng sinh mãi mãi khổ đau , ngụp lặn
trong luân hồi sinh tử. Làm con người, thân phận người chúng ta tích tụ những
dư nghiệp, tập khí từ quá khứ, nhất thời có thể sân hận mất từ bi, nhưng chỉ cần
nhận diện mất từ bi là mất tất cả, phải biết trở về với hơi thở, nhận diện cảm
xúc, khôi phục chánh niệm lại liền để trở lại trạng thái nguyên sơ con người
tính vốn thiện, tính vốn từ bi để tha thứ cho nhau sống vì nhau trong cõi đời vốn
dĩ đã quá đau khổ và nhiều chấp trước này.
Giống như
Thánh Mahatma Gandhi Ấn Độ,
đấu tranh giành lại nền độc lập cho Ấn Độ từ chính quyền Anh , bằng cách tuyệt
thực, bằng phương pháp bất bạo động (ahiṃsā). Bồ tát cũng vậy lấy thân mình làm đuốc để soi sáng
cho một chế độ độc tài gia đình trị. Ngài thương Đức Phật, thương Đạo là vậy mà khi biết được Đạo của mình bị bức
hại, có thể đưa đến chỗ diệt vong vẫn không hận thù kẻ bức hại Đạo mình. Trong
lời nguyện tâm huyết để lại trước khi tự thiêu Bồ tát có viết:" Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình
Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, thi hành chính sách bình đẳng
tôn giáo để nước nhà xưng yến muôn thuở" Bồ tát đã thực hiện lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp cú một cách trọn
vẹn nhất.
3. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
|
|
|
4. Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi
Không ôm hiềm hận ấy,
Hận thù được tự nguôi.
|
Cùng ý kinh Pháp cú Hòa thượng Trí Quang vị lãnh đạo
tối cao trong phong trào Phật giáo tranh đấu năm 1963 có nói: "Chúng
tôi nguyện đem xương máu trang trải cho Phật Pháp, và nếu chết là chết như cái
chết của chân lý trước bạo lực, chứ không phải bạo lực này chết vì kém bạo lực
khác ".
Buổi sáng 28-5-2013 (19-4-Quý
Tỵ) chúng tôi dự lễ khai mạc đại lễ kỷ niệm 50 năm Bồ tát Quảng Đức
vì pháp thiêu thân (1963-2013) tại chùa Long Sơn tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa.
Không khí trang nghiêm, pho tượng Bồ tát phục chế lại từ pho tượng tại công viên Tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức
tại địa điểm 70 - 72 Cách Mạng Tháng Tám, Q.3 thành phố Hồ Chí Minh, lửa
cách điệu phủ quanh thân Bồ tát, người ngồi yên nhập đại định, toát ra, biểu hiện
ra được Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Ấn tượng đọng lại và sâu lắng nhất là lời đạo từ của Hòa thượng Phó Pháp chủ GHPGVN
Thích Đức Nghiệp ngài nói:" Năm 1963 năm Bồ tát Quảng Đức tự thiêu tôi có
34 tuổi năm đó tôi là người tổ chức chính cho Bồ tát tự thiêu, 50 trôi qua tôi
nay đã 84 tuổi nhớ lại ngày ấy cảm xúc vẫn còn mới tinh. Lúc nảy ông Bùi Hữu Dược
vụ trưởng vụ Phật giáo có đọc câu đối của Hồ Chủ Tịch phúng viếng ca ngợi sự tự
thiêu của Bồ tát cho đạo pháp và dân tộc ngày 20/4 nhuần năm Quý Mão 1963: "
Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng huy thiên nhật nguyệt - Lưu danh bất tử thiên
niên chính khí địa sơn hà" tôi
xin được dịch ra cho dễ hiểu:" Vì Pháp thiêu thân muôn thuở oai hùng
trời rực sáng - Lưu danh bất tử ngàn năm chính nghĩa đất thăng hoa". 84 tuổi HT. Phó pháp chủ giọng vẫn
còn khí lực, trí nhớ vẫn còn minh mẫn rất tốt, vẫn còn sắc bén như năm 1963 lúc
đó là Đại đức Đức Nghiệp làm ủy viên ngoại giao cho Ủy ban liên phái bảo vệ Phật
giáo. Năm mươi năm trôi qua vận nước vận đạo có thăng có trầm theo quy luật các
Hòa thượng cao tăng trong ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo đến giờ này ( trong nước) chỉ còn vài vị HT. Thích
Trí Quang trên 90 tuổi, HT. Thích Đức Nghiệp trên 80 tuổi... Năm 1963 không có
các vị cao tăng lãnh đạo đấu tranh cho sự tồn vong của đạo pháp, không có Bồ
tát Thích Quảng Đức tự thiêu với trái tim không cháy, rung động hằng triệu trái
tim trong và ngoài nước không biết Phật giáo Việt Nam còn mất thế nào? Nhờ sự
hy sinh cao cả của các vị Cao tăng, Phật tử, của Bồ tát Thích Quảng Đức mà bài
thơ Lửa từ bi của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương ra đời, ca ngợi lòng từ bi và hùng lực
của Bồ tát và từ đây Phật giáo Việt Nam bước qua một trang sử mới:
Lửa, lửa cháy ngất tòa sen,
Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một mặt trời mới mọc
Ánh Đạo vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên
Lễ khai mạc diễn ra thật trang nghiêm trọng thể nhiều
cảm xúc, tiếp tục chương trình ban tổ chức mời chư tôn đức Tăng Ny tham dự lễ cắt
băng triển lãm:" Ngọn lửa và trái
tim". Lịch sử đã đi qua 50 năm nhưng hình ảnh còn để lại, xem những bức ảnh
đen trắng của Bồ tát và chư thánh tử đạo hy sinh cho Phật pháp trường tồn, nhiều
Phật tử đã lấy khăn chặm nước mắt.
11giờ
30 chúng tôi về chùa Thiên Hòa ở đường Yersin thọ trai, ngồi bên cạnh giáo sư
Cao Huy Thuần, Cụ Nguyễn Chính ( nguyên
trưởng ban tôn giáo chính phủ) vừa ăn vừa trò chuyện nhẹ nhàng. Cụ Nguyễn
Chính nói:" Lúc nảy HT. Thích Đức Nghiệp ban đạo từ các vị lãnh đạo tỉnh
Khánh Hòa chăm chú lắng nghe và rất tâm đắc về sự hy sinh cao cả của Bồ tát
Thích Quảng Đức, có gì đâu mà cứ đắn đo e ngại về ngày lễ kỷ niệm Bồ tát hy
sinh cho đạo pháp và dân tộc, tôi chưa từng nghe chính quyền nhắc nhở hạn chế về
ngày lễ kỷ niệm này". Giáo sư Cao
Huy Thuần tiếp lời nói vui: " Chỉ do nội bộ lo xa e dè thôi, lo trước cái lo của thiên hạ". Giáo sư nhắc lại câu nói nổi tiếng của Phạm Trọng Yêm (*)
Tóm lại:
1- Lãng quên lịch sử là một cái tội, không dám
nhắc đến lịch sử là một cái tội khác. Chính sự lãng quên lịch sử và không dám
nhắc đến lịch sử mà dẫn đến sự lãnh cảm thờ ơ với vận mệnh của tổ quốc , của đạo
pháp.
2- Uống
nước nhớ nguồn là đạo lý của dân tộc, và cũng là giáo lý nhớ đến bốn ân nặng của
người Phật tử ( trong đó có cả Tăng Ny).
Nhưng do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan trong đó có lý do sợ hãi ( sợ gây mất đoàn kết) chúng ta đã không
muốn nhắc, không dám nhắc bài học lịch sử pháp nạn năm 1963. Chính vì vậy mà
hình ảnh Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng của Bồ tát Thích Quảng Đức đã bị lu mờ không
sáng bằng Hòa Thượng Tịnh Không ( người
Trung Quốc). Đức Pháp Vương Gyalwang
Drukpa, Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa (
người Ấn Độ).
Đây đó ở ba miền Việt Nam chúng ta
thấy hình ảnh của HT. Tịnh Không, Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa , Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa treo phụng thờ kính cẩn, riêng Bồ tát Thích Quảng
Đức rất ít chùa thờ phụng noi gương tưởng nhớ.
3- Tại
sao chúng ta không mỗi năm, (mà phải 50
năm) cùng trong ngày Phật đản, tất cả các chùa trong nước cùng làm lễ kỷ niệm
sự hy sinh cao quý của Bồ tát cho đạo pháp và dân tộc. Noi gương Bồ tát cùng
nhau kiến tạo chùa chiền nơi vùng sâu vùng xa, biên giới tổ quốc, hải đảo để
ánh sáng Phật pháp tỏa rạng khắp nơi. Học hạnh Đại từ bi của Bồ tát chữa bệnh
cho dân chúng nghèo. Học hạnh đại hùng đại lực của Bồ tát biết hy sinh thân
mình cho đại nghĩa dân tộc, cho chúng sinh. Và hơn hết biến lửa hận thù thành lửa
từ bi:
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngã luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng… giông bảo lắng từ đây
Bóng người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ đề.
(
trích thơ Lửa Từ Bi - Thi sĩ Vũ Hoàng Chương)
-----------------
(*) Phạm
Trọng Yêm, tiếng
Trung: 范仲淹, (989 - 1052), tự Hy Văn, thụy Văn
Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà
giáo dục thời Bắc Tống. Ông
là người huyện Ngô, Tô Châu (nay
thuộc Tô Châu, Giang Tô. Về văn chương, tác phẩm đáng chú ý nhất của ông
có lẽ là Nhạc Dương lâu kí (ghi
chép ở lầu Nhạc Dương), nó nổi tiếng vì đạo đức chính trị mà ông thể hiện ở phần
cuối trong câu "先天下之忧而忧,后天下之乐而乐 - tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái
vui của thiên hạ).
Chùa
Bửu Minh Gia lai
Ngày
30 tháng 05 năm 2013
( Kỷ
niệm 50 năm ngày Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu)
Thích
Giác Tâm