một phần nữa là do ngoại
nhân đưa về Kim Lăng đốt để huỷ diệt văn hoá, chính điều đó khiến tiểu sử các
vị thiền sư lại càng sơ sài, ngắn gọn. Một vài trường hợp quá ngắn như tiểu
sử thiền sư Pháp Thuận . Thiền uyển tập anh còn ghi lại tiểu sử Ngài tóm tắt
như sau :
Pháp Thuận thiền sư ( 915-990 ) họ
Đỗ, không rõ tên thật và quê quán, thuộc thế hệ thứ mười dòng thiền nam
phương. Xuất gia từ nhỏ, thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Đắc
pháp, nói ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ. Sư học rộng có tài, hiểu rõ việc
nước, đang lúc nhà Tiền Lê mới dựng nghiệp, giúp vua trù kế hoạch, định sách
lược. đến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành
kính trọng, chỉ gọi là Đỗ Pháp Sư, không gọi tên, đem mọi việc văn thư giao
phó. Cùng với Sư Khuông Việt, Pháp Thuận là cố vấn của triều đình , có lần
cùng với Sư Khuông Việt, được cử tiếp đón sứ thần nhà Tống là Lý Giác. Tài
ứng đối làm Lý Giác ngạc nhiên kính phục. Vua Lê Đại Hành thường đem vận mệnh
nước nhà hỏi Sư .
Hồi tưởng lại đất nước chúng ta
trong triều đại Đinh, Lê , Lý Trần, chúng ta đã thấy được các triều đại đó
hết sức nhân bản, khoan dung và tôn trọng hiền tài. Vua thì quyền uy tột
đỉnh, nắm sinh mạng quốc gia và sinh mạng thần dân trăm họ trong tay, trọn
quyền sinh sát, vậy mà vì sự tồn tại của vận nước , vẫn khiêm hạ mời các vị
Sư tài đức về triều đình tham vấn chính sự quốc gia, có khi đến cả Am Viện
của các thiền sư tham vấn những trăn trở ưu tư về nhiều vấn đề thời cuộc mà
chính Vua còn phân vân do dự, chưa quyết đoán được. Vua Lê Đại Hành đã thấy
được hiền tài là nguyên khí của quốc gia, có được những con người uyên bác
tài giỏi giúp cho những kế sách , ý kiến hay sẽ đưa quốc gia đến chỗ thịnh
trị, thái hoà. Vua Lê Đại Hành mới lên chấp chính, thù trong giặc ngoài. Hậu
duệ nhà Đinh còn đó, những con người trung thành với Nhà Đinh vẫn còn ấm ức
về một vương triều đã sang tay kẻ khác. Bên ngoài thì tướng của nhà Tống là
Hầu Nhân Bảo đang tiến quân vào nước ta , đó là mùa xuân tháng 03 năm Tân Tỵ
( 981).
Lúc bấy giờ vận mệnh tổ quốc
nghiêng ngữa, lòng dân chao đảo, nếu không có những thiền sư tu chứng , nhiều
tuệ giác làm cố vấn cho triều đình, đưa ra kế sách hay, động viên tinh thần
của vua, của triều đình và của dân chúng, đất nước dễ rơi vào tay ngoại bang,
dân tình sẽ lầm than thống khổ biết chừng nào. Chúng ta đã thấy được tinh
thần nhập thế của các thiền sư và hành động phụng sự vô vi của các ngài, qua
hành động dấn thân đóng góp cho dân tộc .
Bài thơ Nga nga lưỡng nga nga,
không phải là của ngài. Hai câu đầu là của Lý Giác, hai câu sau ngài hoạ
theo, do Ngài học rộng hiểu nhiều lấy từ điển cố văn học của Trung Quốc. Bài
thơ nga nga lưỡng nga nga là của Lạc Tân Vương, là một tuyệt phẩm mà các bực
thức giả khen là " thi trung hữu hoạ" trong thơ có hoạ, thơ vẽ nên
một hoạ phẩm. Học nhiều hiểu rộng, am hiểu độn số, biết việc gì sẽ xảy ra
trong tương lai, nhưng Ngài để lại cho chúng ta hôm nay còn vỏn vẹn một bài
thơ duy nhất, và cũng là câu trả lời về vận nước của vua Lê Đại Hành hỏi Sư,
đó là bài :
Quốc
Tộ --- Việc nước
Quốc tộ như đằng lạc --- Vận nước như
mây quấn
Nam thiên lý thái bình --- Trời nam mở thái bình
Vô vi cư điện các --- Vô vi trên điện các
Xứ xứ tức đao binh --- Xứ xứ hết đao binh .
Vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, làm thế nào để cho vận mệnh quốc gia
được dài lâu ? Thiền sư trả lời : Vận nước như mây quấn . Ta phải giữ gìn đất
nước nầy như thế quấn của dây mây, một sợi mây tuy có dẻo dai nhưng vẫn dễ
đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại thành bó khó có
sức mạnh nào bẻ gãy. Trăm họ hướng về Vua với một lòng tôn kính, vua lấy ý
nguyện của dân làm ý nguyện của mình, thương dân như thương con ruột của
mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm cách hoá giải những xung
đột nội bộ, giải thích cho những người nội thù rằng : Quốc gia làm trọng, tổ
quốc trên hết, quyền lợi của một cá nhân cũng như của một dòng tộc là nhỏ so
với sinh mệnh mất còn của một quốc gia. Liên kết nhân tâm lại với nhau như
những dây mây riêng lẻ thành một bó mây, thì không có một thế lực nào có thể
xô ngã đè bẹp chúng ta. Và như vậy thì đất nước sẽ thái bình, nền độc lập dân
tộc sẽ vững bền mãi mãi.
" Vô vi trên điện các - xứ xứ hết đao binh ".
Thiền sư nói : Muốn cho đất nước
được yên bình, khắp nơi khắp chốn không có chiến tranh, những người lãnh đạo,
cụ thể là Vua phải biết cách áp dụng phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng
vô vi nơi triều đình của mình. Đạo Lão ở Trung Quốc cũng có khái niệm vô vi,
Lão Tử chỉ dạy cho môn đệ của mình nên sống theo tự nhiên, thuận theo tự
nhiên, không làm gì để can thiệp vào tự nhiên. Lão Tử chủ trương người cầm
quyền trong nước nếu thực hiện được đạo lý vô vi thì đất nước sẽ thịnh trị.
Còn khái niệm vô vi trong Phật giáo thì có khác hơn. Vô vi dịch từ chữ
asamskrta của tiếng phạn, có nghĩa là không tạo tác, chỉ cho pháp lành thường
trụ không do nhân duyên tạo tác, không có sinh diệt biến hoại, khác với pháp
hữu vi là pháp do nhân duyên tạo tác, có sinh diệt biến hoại, nên pháp vô vi
chính là một tên khác của Niết Bàn. Trong Lục Độ Tập Kinh, truyện 81 của Phật
giáo định nghĩa từ vô vi như sau : " Cẩn thận không kiêu ngạo, là hạnh
của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bặm của sáu tình, không để các ái
nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các niệm lắng diệt, đó là vô
vi".
Vua là thiên tử - con trời - theo
quan niệm phong kiến. Vua tượng trưng cho quyền lực, sức mạnh của một thể
chế, đế chế. Vua là tối tôn đứng trên thầy và cả người cha sinh ra mình
Quân-Sư-Phụ, vậy mà kinh Phật nhắc nhở cẩn thận không kiêu ngạo. Vua thì
không biết bao nhiêu cung phi mỹ nữ, ăn uống thì sơn hào hải vị, nem công chả
phượng, thuốc bổ quý hiếm trong nhân gian, vậy mà kinh Phật nhắc bỏ lòng dơ
ân ái, không để đắm nhiễm ái dục dù nhỏ như sợi tóc. Một chúng dân thực hiện
hạnh vô vi thấy đã khó rồi, huống nữa là đấng quân vương, nhưng mà đấng quân
vương nào thực hiện được đạo lý vô vi như lời kinh Phật, như lời thiền sư
Pháp Thuận nhắc nhở vua Lê Đại Hành, thì vận nước sao không vững bền được ?
Sao mà trăm họ không âu ca thái bình được ? Lời thơ " vô vi cư điện
các" hơn một ngàn năm qua vẫn còn giá trị, và ngàn năm sau nữa chắc
chắn vẫn còn giá trị. Vui mừng thay kho tàng văn học Việt Nam vẫn còn lưu gĩư
được những bài thơ chứa đựng được tư tưởng chính trị của Phật giáo Việt Nam
như bài Quốc Tộ.
Thích Giác Tâm
( Viết để chia sẻ cho quý huynh đệ
tham dự khoá an cư tại chùa Bửu Nghiêm,
văn phòng Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Gia Lai - PL. 2552.DL. 2008 )
|