Tác phẩm: "CON VỀ CÒN TRỌN NIỀM TIN". Tác giả: Thích Giác Tâm - Nhà xuất bản Phương Đông - TP.Hồ Chí Minh, xuất bản tháng 01 năm 2012. Ấn bản giấy 368 trang, cả bìa. Khổ 13x20.5cm
Bản điện tử chia thành hai tập. Tập 1 - 30 truyện. Tập 2 - 34 truyện.
Tập 1
Giọt nước cành dương
Con
đường đất đỏ,ngõ lối vào chùa Bửu Minh,bụi tung mù mịt. Chiếc xe ISUZU
đời mới còn bóng lộn, sơn màu trắng ngà hãm phanh dừng lại. Đậu dưới
hàng phượng vĩ trước sân chùa, mùa này hoa đang rộ nở đỏ thắm. Một chút
gió thoảng nhẹ, vài cánh hoa lìa cành đậu vào trần xe, vương lên kính xe
như những cánh bướm rừng đơn sơ , hoang dại.
Khách
hành hương lục tục xuống xe.Những chiếc áo dài màu khói hương, màu
trắng ít nhiều đã đổi theo cùng gam màu đất đỏ bazan. Ngôi chùa cổ Bửu
Minh nằm trên đồi trà mênh mông bát ngát, bốn mùa sương phủ, trầm mặc uy
nghiêm. Chùa tựa lưng vào ngọn núi Tiên Sơn vút cao hùng vĩ, chập
chùng mây khói. Trước mặt là Biển Hồ vời vợi thẳm sâu. Truyền thuyết kể
lại rằng hồ không có đáy, nước xanh biêng biếc bốn mùa. Chùa là
một điểm du lịch nên Thầy Quang Đức không ngạc nhiên lắm, về những
chuyến xe du lịch đời mới đi hành hương. Nhưng sao hôm nay Thầy bồi hồi
lạ. Trực giác linh tính như báo với Thầy rằng: Thầy sắp có tin vui. Thầy
sai điệu Lạc đi hái trà tươi nấu nước đãi khách , và dặn với theo: “Nhớ
thêm một tí gừng”. Một cô phật tử trong đoàn hành hương, khoảng 27
tuổi, gương mặt phúc hậu tràn đầy hỷ lạc . Tách riêng đạo bạn vội vã vào
phương trượng trước. Thoáng thấy Thầy Quang Đức đang ngồi kiết già trên
chiếc phản gõ, cô phật tử vội vàng quỳ xuống, nước mắt lưng tròng: “
Thầy còn nhớ con không? Con là đệ tử của Thầy đây mà! Con là Thường
Tịnh đây! Thường Tịnh là tên pháp Thầy đã đặt cho con”. Thầy Quang Đức
ngỡ ngàng,có phần bối rối. Vì từ lâu lắm rồi Thầy đã gần như quên hết
quá khứ. Những giờ thiền toạ đêm đêm, những phút giây hằng giác tỉnh
trong ngày, đã khuất che mờ tất cả kỷ niệm. Và Thầy cũng không để tâm
nhiều đến viễn tưởng tương lai. Thầy luôn an trú trong hiện tại. Những
va vấp, những lầm lẫn đớn đau trên bước đường tìm kiếm nẻo về, của thời
trai trẻ đã qua đi. Giờ đây nhìn thế giới hiện tượng, Thầy thấy tất cả
chỉ là bào ảnh, đang nhấp nhô trên đại dương tâm thức. Thầy đã thấy được
chân nghĩa của cuộc đời. Không gì mầu nhiệm hơn hơi thở. Thầy đã lấy
hơi thở làm dây neo, không để thuyền Tâm lênh đênh trong sáu nẻo luân
hồi. Từng phút giây hiện sinh, Thầy đã lèo lái hướng tâm trở về với cội
nguồn uyên nguyên của nó . Giờ đây Thầy với hơi thở là một. Thời
gian như ngừng trôi bất động. Thường Tịnh vẫn còn quỳ và Thầy
sau phút giây hoài niệm, Thầy đã nhớ lại người phật tử đang quỳ trước
mặt Thầy là ai. Đôi môi khô héo già nua của Thầy thoáng mỉm cười: “Con
đứng dậy đi Thường Tịnh. Con lên đảnh lễ Phật và mời quý đạo hữu xuống
uống nước trà”. Giọng Thầy trầm ấm dạt dào yêu thương.
Cô
phật tử trưởng đoàn thưa rằng: “Chúng con là phật tử trong nhóm từ
thiện ở Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần đến Tây Nguyên cứu trợ .Lần
này đến Kon Tum thăm viếng phát thuốc cho một buôn làng bị bệnh phong.
Chuyến đi này có phật tử Thường Tịnh cùng đi, theo yêu cầu của Thường
Tịnh nên chúng con ghé lại chùa Bửu Minh viếng Phật thăm Thầy. Chúng con
đã được Thường Tịnh kể sơ qua về Thầy may mắn thay hôm nay chúng con
mới được gặp”. Mọi người chú mục nhìn Thường Tịnh, cô phật tử
trưởng đoàn tiếp: “Bạch Thầy! Thường Tịnh còn trẻ tuổi mà đạo tâm và
tình thương rất lớn. Em thường tụng kinh Pháp Hoa và rất tâm đắc câu:
“Từ nhãn thị chúng sanh…” Lấy mắt từ bi mà nhìn mọi loài. Nơi nào có khổ
đau nơi đó có mặt Thường Tịnh: Trại phong Bến Cát, trại trẻ bại liệt
Thị Nghè, trại tâm thần Gò Vấp , trường học sinh mù Nguyễn Đình Chiểu…Em
không bao giờ ngại khó nhờm gớm hay tỏ thái độ ban ơn. Ý thức của em
hết sức tỏ rạng. Em không bao giờ hưởng thụ nhiều và hoang phí mặc dù
đời sống vật chất rất cao, vì người thân hầu hết đều sinh sống ở nước
ngoài” Ngồi chăm chú nghe cô phật tử trưởng đoàn kể, đưa mắt qua phía
Thường Tịnh, Thầy Quang Đức thấy Thường Tịnh đã lãng đi ra vườn tự hồi
nào. Chắc là Thường Tịnh ngượng ngùng không muốn người khác kể điều tốt
về mình. Thầy Quang Đức rất vui, khi nghe cô phật tử trưởng đoàn kể
về Thường Tịnh. Người đệ tử mà cách đây 5 năm, đau khổ cùng cực, tuyệt
vọng cùng đường, muốn giải thoát khổ đau bằng cách định quyên sinh.
Hai
Ngày tháng năm
Mẹ sống sao kỳ lạ vậy? Không thể nào hiểu được mẹ. Sáng thì đi làm
từ thiện xã hội . Chiều thì tụng kinh hoặc đi cầu an, cầu siêu cho đạo
hữu tối lại đi nhảy đầm. Mẹ có còn son trẻ gì cho cam, tóc mẹ đã có
nhiều sợi bạc, gần 60 tuổi rồi còn gì. Hôm qua nghe con Liên nói bóng
nói gió về mẹ, mình với nó suýt đánh nhau. Mẹ ơi ! Mẹ đừng như thế nữa .
Mẹ không thương con gái mẹ hay sao?
Ngày tháng năm
Từ lâu mình rất ghét cô Tâm bởi vì nghi ngờ hạnh kiểm cô. Cô rất
thân với mẹ, giận mẹ nên mình không bao giờ thèm tiếp và nói chuyện với
cô. Tối nay mẹ đi vắng cô đến tìm mẹ, bỗng dưng mình thay đổi thái độ.
Tiếp cô và tra hỏi rất nhiều về việc làm của mẹ. Cô từ tốn trả lời: “Từ
lâu cô muốn giải thích cho cháu rõ về việc làm của mẹ cháu, song cháu
không cho cô có được cơ hội. Có lẽ mẹ cháu là một vị Bồ tát hoá thân
cũng không chừng. Hay là một đoá sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn .Tâm mẹ cháu thanh lương an định vì thường xuyên thực tập thiền
định . Nên chánh niệm mẹ cháu thật vững vàng, vào vũ trường mà tâm vẫn
như như bất động. Là bạn chí thân của mẹ cháu, nên cô hiểu rõ mẹ cháu
hơn ai hết. Có “đồng sự” như vậy mẹ cháu mới thuyết phục được người khác
nghe. Và một số đông, qua sự thuyết phục của mẹ cháu, đã thoát ra được
bùn lầy ngũ dục. Họ là những người rất giàu có, nhận thức được thế nào
là y báo,chánh báo , thành thử đã biết sẻ chia những khổ đau bất hạnh
với những người chung quanh. Hiện nay đã trở thành những cột trụ nòng
cốt, trong hội từ thiện phật giáo thành phố. Vì thế cháu phải quý mẹ
cháu mới phải chớ,sao lại giận ghét và xa lánh mẹ”. Cô Tâm đã giải mối
nghi oan của mình về mẹ như vậy. Con xin sám hối mẹ và mong mẹ tha thứ
cho con.
Ngày tháng năm
Thế là mình lại xa mẹ. Phái đoàn phỏng vấn đã từ chối cho mình đi
với mẹ. Bởi vì mình trên 21 tuổi . Thật không có nỗi buồn nào hơn sanh
ly. Mẹ ơi ! chắc con chết mất. Ở lại với con đừng đi nghe mẹ.
Ngày tháng năm
Ái biệt ly khổ, yêu thương mà xa lìa thì khổ. Là người trong cuộc
mình mới cảm thấy thấm thía sâu xa lời Phật dạy. Mẹ và các em vời xa tít
tắp ở bên kia bờ đại dương. Ngày sống gần mẹ thì hiểu lầm mẹ. Mẹ con ở
gần nhau vẫn như hai ốc đảo xa xăm. Không ai hiểu ai hết, mà không hiểu
thì làm sao mà thương nhau được. Đến khi hiểu được mẹ thì nghìn trùng ly
biệt. Còn Tuân thì như cánh chim rày đây mai đó. Theo tổ nuôi ong, đuổi
theo nguồn hoa: Hoa cúc quỳ, hoa trắng, hoa nhãn, hoa cafê, hoa trà…
từng loài hoa cho mật vào những thời điểm khác nhau. Tuân mãi mê đi
miết, những mong đem đến mật ngọt cho đời, mình chạy theo Tuân như ma
đuổi: Bảo Lộc, Đồng Nai, Cù Mông, rồi đến Pleiku. Mình tìm gặp được Tuân
nhưng tình đã tan ra mây khói. Tuân vừa mới cưới vợ mà vợ Tuân lại là
con bạn thân của mình. Hụt hẫng này tiếp theo hụt hẫng khác, mình chới
với trong cuộc đời. Ba ơi ! nơi chín suối ba có hiểu được rằng, con gái
của ba đau khổ đến mức nào không ? Mai này con sẽ theo ba, ba hãy đón
con.
Ba
Năm năm về trước…
Vào tháng mưa dầm, Mây đã đến chùa Bửu Minh -Pleiku với tâm trạng
chán chường, tuyệt vọng buông xuôi như vậy. Mây định đến chùa lễ Phật
xong, là vô rừng uống mấy chục viên thuốc ngủ để mong “giải thoát” khổ
đau, lâm luỵ, đoạ đày. Hôm đó với linh tính đặc biệt, Thầy Quang Đức
nhìn ở khuôn mặt Mây, thấy sao không còn sinh khí nữa. Hốc hác, thất
thần, Thầy ân cần thăm hỏi cớ sự và vận dụng tất cả vốn liếng về Phật
học, tâm học ra giảng giải, cố giành lại sự sống từ tay tử thần. Bữa đó
Mây không kể được gì cho Thầy Quang Đức nghe hết, song rất may là mây có
đem cuốn nhật ký theo và trao cho Thầy đọc. Qua cuốn nhật ký của
Mây,Thầy đã rõ sự tình. Vì biết Mây đang cùng quẩn bế tắc, và nếu như
cứu được một sinh mệnh, thì cũng không khác gì xây cất một ngôi chùa, có
khi còn hơn thế nữa: “Dẫu xây chín đợt Phù Đồ, không bằng làm phúc cứu
cho một người”. Bởi vậy cho nên Thầy Quang Đức đã đem hết con tim khối
óc và nói với tất cả tâm hồn của mình để thuyết phục. Hầu mong tháo gở
mọi vướng mắt hệ luỵ của Mây , trong suốt cả ngày hôm ấy.Thầy nói rất
nhiều nhưng ý chính như sau: “…Vì sống và nghĩ về mình quá nhiều,
nên chúng ta hay cường điệu, phóng đại những khổ đau liên hệ đến tự Ngã.
Mỗi lần va vấp, mối lần hụt hẫng chút đỉnh trong cuộc đời, do đầu óc
tưởng tượng chủ quan phong phú, ta thấy mình là người bất hạnh khổ đau
nhất. Ai cũng là người khổ đau nhất , thì trong thiên hạ khi xếp thứ
bậc, phải xắp xếp thế nào đây cho hợp lẽ. Kỳ thực không như vậy, trong
cuộc sống hằng ngày, thỉnh thoảng ta vẫn gặp những người bằng trí tuệ và
học hỏi, thực tập huân tu phương pháp nào đó đã mỉm cười được trong tất
cả mọi tình huống. Họ không coi điều trái ý nghịch lòng nào là quan
trọng hết. Coi thịnh suy, còn mất , khen chê… như hạt sương trên đầu
ngọn cỏ. Niết bàn làm sao hiện hữu được nếu không có khổ đau. Nếu không
có mùa đông tuyết giá, lá rụng tơi bời, cành cây trơ trụi xương xẩu, thì
làm sao có được mùa xuân nắng ấm, hoa lá sởn sơ tơ nõn, căng đầy nhựa
sống…Bản chất của cuộc đời là trôi chảy, làm sao ta có thể buộc dòng
sông không cho luân lưu được, hay cột treo vầng mây bạc kia lại, không
cho nó phiêu du tan hợp giữa đất trời ”.
Một tuần lễ sau tâm bệnh của mây khỏi hẳn. Mây đến chùa Bửu Minh lễ
tạ Phật và thăm Thầy, trước khi về lại Sài Gòn. Mây ra về rồi, Thầy
Quang Đức đọc được những dòng chữ reo vui , tin yêu cuộc sống của Mây
được ghi lại lên trên bảng đen của mấy chú Điệu: ” Cảm ơn cuộc đời đã
ban phát cho con sự sống. Cảm ơn những tiếng chuông chùa đã làm rung
động, thức tỉnh lòng người khi màn đêm buông xuống. Trả lại nơi đây
tiếng gió lay, tiếng chim hót, trả lại áng mây trôi đông đặc cuối trời.
Con sẽ về lại nơi con đã đến.
Pleiku - 1992