BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
BỒ TÁT
QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
ĐỐI
CHIẾU QUA KINH ĐIỂN NAM TÔNG và BẮC TÔNG
Tâm
Diệu
Công
cuộc vận động cho bình đẳng và tự do tôn giáo của Phật
Giáo Việt Nam bắt đầu vào ngày lễ Phật Đản 8 tháng 5
năm 1963 tại Huế và sau đúng 106 ngày tranh đấu cam go đã
thực sự kết thúc vào đêm khuya ngày 20 rạng sáng ngày 21
tháng 8 năm 1963 khi chính quyền Ngô đình Diệm thi hành kế
hoạch Nước Lũ tổng đột kích toàn thể chùa chiền, bắt
giam hầu hết các thành phần lãnh đạo và những người tham
gia phong trào vận động.
Cao
điểm của công cuộc vận động là hành động tự thiêu
của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngày 20-4 năm Quý Mão
(tức ngày 11-6-1963) ngay trên đường phố Sài Gòn, đã làm
xúc động hàng triệu đồng bào, tăng ni, và Phật tử cả
nước lúc bấy giờ. Hình ảnh của Ngài ngồi ở tư
thế kiết già trong lửa đỏ trên một ngã tư đường phố
tấp nập ở Saigon, đã in một dấu ấn không bao giờ phai
nhòa trong lòng người và trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Ngày
nay, sau hơn bốn thập niên trôi qua, vẫn còn có một số người
thắc mắc: động lực nào thúc đẩy Ngài đã hành động
như thế và sự việc tự thiêu như vậy có chống trái với
pháp và luật của Phật không, có vi phạm giới luật không
và có đi ngược lại giáo lý Trung Đạo không? Một số
cho rằng hành động tự thiêu là một hình thức của sự
tự sát, đi ngược lại với giáo lý của Phật Giáo Nguyên
Thủy. Trong số những người đồng với quan điểm này
phải kể đến ban biên tập một tạp chí Thiên Chúa Giáo
ở Hoa Kỳ đã tranh luận vào thời đó và nhiều thập niên
sau cũng có hai học giả Phật giáo Tích Lan [01] và Nhật Bản
[02] tán đồng.
Hơn
bốn thập niên, một quãng thời gian khá dài, đủ để chúng
ta có thể nhìn lại hình ảnh tự thiêu của Ngài và giai đoạn
lịch sử của miền Nam Việt Nam vào năm 1963 một cách khách
quan hơn, không bị cảm quan và hoàn cảnh cá nhân chi phối.
Nói
về động lực đưa đến hành động của Ngài thì sử sách
đã ghi nhận. Ngài không vì lợi ích hay danh tiếng cá nhân
mà vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh, muốn Phật tử
Việt Nam được sống trong môi trường bình đẳng và tự
do tôn giáo, không bị kỳ thị, không bị ép buộc bỏ đạo,
cũng như muốn cho thế giới thức tỉnh trước cuộc chiến
tương tàn càng ngày càng trở nên khốc liệt. Còn về việc
tự thiêu của Ngài có chống trái với pháp và luật của
Phật không, thiết tưởng chúng ta nên nhìn sự việc qua hai
nhãn quan Phật Giáo Nam Tông và Phật Giáo Bắc Tông.
Theo
giới luật Tỳ Kheo, [03] thì vịêc hủy hoại, làm thương
tổn, hay đầy đọa thân xác của mình đều là những việc
Đức Phật không cho phép. Tự hủy họai thân xác
tức là tự sát, là phạm giới luật, đi ngược lại giáo
lý của đạo Phật về các phương diện: (1) ngăn trở nỗi
ước muốn giải thoát, (2) bỏ mất cơ hội may mắn được
làm người vì tái sanh làm thân người là điều rất khó
và chỉ có loài người mới có nhiều khả năng để thành
tựu sự nghiệp giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử, luân hồi,
(3) huỷ hoại tinh thần từ bi, bình đẳng và (4) tạo sự
liên hệ lẫn nhau giữa nhân và quả trong hiện tại cũng như
trong tương lai qua định luật duyên khởi.
Tự
sát đề cập ở đây (giới luật) được hiểu là hành động
do chán nản cuộc sống, chán nỗi khổ đau của thân tâm và
thiếu nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc
sống cũng như đánh mất hy vọng và niềm tin nơi chính mình.
Nguyên nhân khác dẫn đến việc tự sát đối với những
người tu hành là do thiếu công phu tu trì, không rõ đường
đi của luật Nhân Quả, chưa chứng ngộ thực tướng của
vạn pháp, mà chỉ hiểu một cách lệch lạc rằng sau khi tự
sát sẽ được giải thóat. Ví dụ như thời đức Phật
còn tại thế, có một số Tỳ kheo tu pháp bất tịnh quán,
nên chán ngấy nỗi khổ của thân bèn tự sát [04].
Tuy
nhiên, nếu một vị Tỳ kheo lấy công phu tu trì, chuyên
tinh thiền định, đã nhiếp phục được tâm tham, sân, si,
biết rõ đường đi của nhân qủa và biết rõ sau khi xả
bỏ báo thân này sẽ không tiếp tục sinh thân khác thì không
phạm lỗi, tức không vi phạm giới luật. Cả hai
hệ kinh điển Pàli của Nam Tông và Sanskrit của Bắc Tông
đều nhắc đến ba trường hợp tự sát như vậy của các
Tỳ-kheo Xiển Đà (Channa), Bạt Ca Lê (Vakkali) và Cù Đề Ca
(Godhika):
Trường
hợp thứ nhất: Kinh Trung Bộ 144 [05] và kinh Tạp A Hàm
47 [06] kể rằng Tỳ kheo Xiển Đà (Channa) bị thân bệnh đau
đớn, khổ sở, bức bách, khó chịu đựng nổi, nên muốn
dùng dao tự sát. Được tin, Tôn giả Xá Lợi Phất
cùng Tôn giả Ma Ha Câu Hi La đến thăm và xét hỏi Phật Pháp.
Sau khi chất vấn về căn trần thức và vấn đề sanh tử,
Tỳ kheo Xiển Đà, mặc dầu thân bệnh đau đớn nhưng vẫn
trả lời thông suốt những câu hỏi của hai Ngài và vẫn
tỏ ý muốn được kết liễu thân mạng. Sau đó Tỳ
kheo Xiển Đà đã dùng dao tự kết liễu đời mình. Hai
vị Tôn gỉa Xá Lợi Phất và Ma Ha Câu Hi La không phản đối.
Ngài Xá Lợi Phất bạch sự vụ lên Phật và được Ngài
dạy rằng: “Như vậy, Xá-lợi-phất, thiện nam tử bằng
chánh trí mà chân chánh khéo giải thoát, thì có nhà cung dưỡng,
nhà thân hậu, nhà khéo nói năng. Này Xá-lợi-phất, Ta không
nói người kia có lỗi lớn. Nếu có người nào bỏ thân này
để rồi tiếp tục thân khác, Ta mới nói người đó có lỗi
lớn. Nếu có người nào bỏ thân này rồi không tiếp tục
thân khác, Ta không nói người đó có lỗi lớn. Do không có
lỗi lớn, Xiển-đà đã dùng dao tự sát ở thôn Na-la trong
rừng Am-la.”
Trường
hợp thứ hai: Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 [07] và Kinh Tạp
A Hàm quyển 47 [08] có kể Tỳ kheo Bạt Ca Lê (Vakkali) đau nặng
nằm liệt giường, muốn được diện kiến đức Thế Tôn
nhưng sức yếu không thể tự đi đến chỗ Thế Tôn được.
Thế
Tôn được báo tin và đến thăm. Tỳ Kheo Bạt Ca Lê bạch
Phật: “Bạch Thế Tôn, thân con đau khổ quá chịu không
nổi, muốn tìm dao tự sát, con không thích sống khổ.”
Sau khi Phật xét hỏi Phật Pháp và khai thị chỉ giáo cho Bạt
Ca Lê, Ngài trở về trụ xứ. Tỳ Kheo Bạt Ca Lê hoan
hỷ phụng mệnh và tư duy suốt đêm về giải thoát.
Sáng
hôm sau một vị Tỳ kheo đại diện Phật đến vấn an Bạt
Ca Lê và chuyển những lời thăm hỏi của Như Lai và lời
của hai vị Thiên tử bạch với Phật đêm hôm trước đến
với Bạt Ca Lê.
Sau
khi nghe lại những lời của chư Thiên tử và lời Thế Tôn
thọ ký, Bạt Ca Lê thưa với vị Tỳ Kheo sứ giả: “Tôn
giả,
Đại Sư khéo biết rõ điều cần biết, khéo thấy rõ điều
cần thấy, hai vị Thiên kia cũng khéo biết rõ điều cần
biết, khéo thấy rõ điều cần thấy. Nhưng hôm nay, tôi đối
với sắc thân này là vô thường, quyết định không còn nghi
ngờ. Vô thường là khổ, quyết định không còn nghi ngờ.
Vô thường, khổ là pháp biến dịch, đối với chúng không
gì đáng tham, không có gì đáng muốn, đã quyết định không
còn nghi ngờ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại
như vậy. Nhưng hôm nay tôi bệnh tật đau đớn vẫn bám theo
thân. Tôi dùng dao tự sát, không thích sống lâu.” Nói
rồi liền cầm dao tự sát.
Vị
Tỳ Kheo đại diện Phật trở về trình tự sự với đức
Thế Tôn. Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đi đến tịnh xá
Kim-Sư, chỗ thi thể của Bạt Ca Lê. Thế Tôn và các Tỳ Kheo
thấy thi thể Bạt Ca Lê có sắc viễn ly và có bóng bao quanh
vây lấy thân thể. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Đó
là(hiện) tượng của Ác ma đi quanh để tìm thần thức của
thiện nam Bạt Ca Lê sẽ sanh về chỗ nào?” Sau đó Phật
lại bảo các Tỳ-kheo: “Thiện nam tử Bạt Ca Lê, với
thần thức không sở trú mà cầm dao tự sát.” (bản
Sanskrit) “thiện nam tử Vakkali đã nhập Niết-bàn một
cách hoàn toàn!”(bản Pali) và Thế Tôn vì Bạt-ca-lê
nói lời thọ ký đệ nhất.
Trường
hợp thứ ba: Kinh Tương Ưng Bộ Tập I [09] và kinh Tạp
A Hàm quyển 39 [10] có kể Tỳ kheo Cù Đề Ca (Godhika) nỗ lực
hành trì tu giải thoát, ngày đêm chuyên tinh thiền định,
không màng đến tánh mạng. Sau một thời gian, Sư
đạt đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng
vì quá nỗ lực với pháp môn quán niệm nên sức khỏe bị
suy giảm: tứ chi mỏi mệt, khí lực hôn trầm; Sư sáu lần
gia công thiền định nhưng vẫn không thành. Đến lần
thứ bảy, Sư đạt được chánh định, thâm nhập cảnh giới
Phi phi tưởng, nhưng chỉ nhất thời. Trong lúc xả thiền,
Sư nghĩ: “Ta đã qua sáu lần phản thoái mới trở lại được,
chớ để cho thoái chuyển lần thứ bảy. Ta hãy dùng dao tự
sát không để cho thoái chuyển lần thứ bảy.” Thế
rồi tự kết liễu thân mạng. Phật biết được
liền cùng các Tỳ Kheo đến hang Đá đen bên sườn núi Tiên
Nhân, thấy Tỳ-kheo Cù Đề Ca đã tự sát nằm trên đất,
chung quanh thân thể bốc khói đen. Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đó là ác Ma Ba-tuần ở bên thân thiện nam Cù Đề
Ca đang quanh quẩn tìm thần thức; nhưng Tỳ-kheo Cù Đề Ca
với tâm vô trụ mà cầm đao tự sát!”(bản Sanskrit)
“Godhika đã nhập diệt, với thức không an trú ở đâu
cả” (bản Pali)
Đó
là ba trường hợp của ba vị Tỳ kheo tự sát xảy ra trong
thời đức Phật. Theo kinh, cả ba vị Tỳ kheo đều là
những vị tu sĩ thuộc hàng trưởng lão, chuyên cần tinh tấn
thiền định và đều tự sát kết liễu thân mạng với “tâm
vô trụ”, với “thức không an trú”. Các
ngài đều biết rõ sau khi xả bỏ xác thân này là sẽ không
tiếp tục sinh thân khác. Các ngài biết rõ đường đi
của Nhân Quả. Các ngài đã đi với tâm vô trụ, với
tâm bất sinh và vì thế, theo lời của đức Phật dạy, các
Ngài đã không phạm lỗi và đã vào Niết Bàn.
Đối
với Phật Giáo Bắc Tông hay còn
gọi Phật Giáo Đại Thừa, chư Tăng Ni khi thọ Giới Tỳ Kheo
thường tự nguyện thọ thêm giới Bồ Tát phát đại nguyện
trên thì cầu Phật đạo vô thượng để giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi, dưới thì phát nguyện độ thoát vô lượng
chúng sinh để cùng thoát khỏi biển khổ sinh tử, có nghĩa
là tự độ và độ tha, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả thân
mạng của mình để cứu giúp chúng sinh. Ngay cả Đức
Phật Thích Ca, ở kiếp trước, khi còn tu hành đạo Bồ Tát,
Ngài đã nhiều lần xả thân để cúng dường, hy sinh mạng
sống của mình để cứu độ chúng sinh. Ví dụ như có một
lần, khi còn là Thái tử Ma Ha Tát Đoả, trong một dịp đi
vào rừng, Ngài thấy một con cọp đói vì thiếu thức ăn
mà mấy con cọp con sắp chết đói, Người đã động lòng
thương và thầm nghĩ rằng: “Ta phải tích cực hành
động để tạo an lành cho kẻ khác. Phải rải tâm từ đến
tất cả chúng sanh. Phục vụ những ai cần đến ta là nhiệm
vụ trọng đại. Ta hãy hy sinh tấm thân ô trược nầy để
cứu mạng sống cho cọp mẹ và năm cọp con. Do hành động
xứng đáng nầy, mong rằng ta sẽ bước lần đến mức giác
ngộ hoàn toàn, hầu cứu độ chúng sanh ra khỏi vòng luân
hồi đau khổ. Ước mong tất cả chúng sanh đều an vụi hạnh
phúc”. Nghĩ vậy Thái tử xả thân cho cọp mẹ
ăn để cứu sống bầy cọp con đang sắp chết vì đói. [11]
Nói
đến Phật giáo Bắc Tông, chúng ta không quên nói đến giới
Bồ Tát hay còn gọi là giới Đại Thừa. Đối với giới
này có tính cách tích cực, không những không làm những điều
ác (Nhiếp Luật Pháp Giới) mà còn phải tích cực làm tất
cả các thiện pháp nữa (Nhiếp Thiện Pháp Giới). Ngoài
ra còn phải cứu độ chúng sinh (Nhiêu Ích Hữu Tình Giới).
Một vị Tỳ Kheo có thể nói rằng tôi không giết cho nên
tôi không phạm giới, nhưng đối với một vị Tỳ kheo đã
thọ giới Bồ Tát thì nếu có cơ hội cứu một sinh vật
mà mình không cứu tức là phạm giới. Bồ Tát sẵn sàng
hy sinh tất cả các vật sở hữu quí báu nhất, cho đến ngay
cả mạng sống của chính mình đi nữa cũng không tiếc.
Trong kinh "Phạm Võng Bồ Tát Giới" giới điều
thứ 16 có nói: "… Nhẫn đến xả thịt nơi thân
mình cùng tay chân mà bố thí cho tất cả những cọp, sói,
sư tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói..” [12]
Cũng
trong mười pháp Ba La Mật, trong Kinh Đại Bảo Tích
có pháp Bố Thí Ba La Mật. Trong pháp này có Dana Paramatthaparami
tức là hy sinh mạng sống của mình cho kẻ khác, để cứu
một hay nhiều chúng sanh. Hy sinh mạng sống hay hy sinh
một phần thân thể trong đó có việc đốt thân cúng dường
hay dùng thân làm thực phẩm cho chúng sinh, hoặc để cứu
giúp chúng sinh là một hình thức bố thí vĩ đại nhất, cao
quý nhất.
Có
người thắc mắc rằng, nếu như việc bố thí thân mạng
như thế thì lấy ai mà giảng chánh pháp cho chúng sinh nữa.
Xin thưa, với Bồ Tát là luôn luôn đi vào trong cuộc đời,
hết đời nay qua đời khác, mà làm lợi ích cho chúng sinh,
cho nên không có hạn cuộc thời gian. “Đại Thừa Bồ
Tát không lấy thời gian, hạn cuộc nơi một thân. Nếu
ở đời đó có chết đi, tức làm nhơn duyên cho đời sau
để độ. Thuở xưa, đức Phật đã kết nhơn duyên đem
thịt nơi thân để bố thí cho mấy người đói, nên khi thành
Phật rồi nhờ nhân duyên đó mới độ được cho họ đắc
pháp.” [13]
Trong
kinh
Đại Bảo Tích đức Phật nói rằng: Một bậc Bồ
Tát đã thành tựu Vô Sinh Pháp Nhẫn (Anutpattidharma- ksànti)
[14] thì phải luôn luôn sẵn sàng an trụ bố thí ba thứ: (1)
bố thí cả cái ngôi vua của mình, (2) bố thí vợ và con cái
của mình, (3) bố thí đầu mình, hai mắt mình, tay chân mình.
Bố Thí như thế mới là Đại Thí. Kinh văn viết:
“Lúc
đại Bồ Tát thật hành Đàn na Ba la mật đa cứu độ chúng
sanh, đại Bồ Tát vì chúng sanh mà làm thí chủ. Nếu
có Sa Môn hay Bà La Môn đến cầu xin, Bồ Tát đều thí cho,
cần ăn cho thức ăn, cần uống cho món uống, những vật ngon
của lạ đều thí cho hết. Hoặc có người cầu xin y
phục, xe cộ, hương hoa, giường ghế, chiếu mền, thuốc men,
đèn đuốc, âm nhạc, tôi tớ, vàng bạc, châu báu, voi ngựa,
rừng vườn, suối ao, trai gái, thê thiếp, kho tàng, hoặc có
kẻ cầu xin đồn dùng của Luân Vương, hoặc cầu xin tay chưn,
đầu mắt, máu thịt, xương tủy. Bồ Tát đều có thể
vui mừng thí cho. Nầy Xá Lợi Phất! Nói tóm lại đại
Bồ Tát thật hành đại thí chỉ thấy người đến cầu tất
cả vật cần dùng ở thế gian đều thí cho cả.”
[15]
Trong
lịch sử đương đại Phật Giáo Việt Nam, một số chư Tăng
Ni và Phật tử theo truyền thống Bắc Tông Phật Giáo, đã
noi gương Thái tử Ma Ha Tát Đoả, tiền thân của đức Thích
Ca Mâu Ni xả thân cứu độ chúng sinh. Thái tử xả thân
mình cho cọp mẹ ăn để cứu sống đàn cọp con thơ dại,
còn các Ngài chọn tự thiêu để làm bó đuốc soi đường
cho chúng sinh đang đi trong đêm tối, nguyện cầu các nhà lãnh
đạo đương thời tỉnh thức và mong chúng sinh sớm thoát
khỏi cảnh vô minh đen tối.
Trong
các vị đó, nổi bật lên một vị Bồ Tát. Đó là Hoà
Thượng Thích Quảng Đức, một điểm sáng chói ngời thể
hiện tinh thần đại từ, đại bi, đại trí, đại dũng và
đại thí. Hình ảnh Ngài ngồi kiết già uy nghi thiền
định trong ánh lửa hồng vô cùng từ bi, vô cùng tráng lệ
và không tiền khoáng hậu, cho đến nay vẫn là điều bất
khả tư nghì.
Muốn
có được một hình ảnh thiên thu tuyệt tác như thế, phải
đòi hỏi, ngoài lòng can đảm và đức bi trí dũng mênh mông
không bờ bến, Ngài còn phải trải qua quá trình tu luyện
thiền định lâu dài.
Quả
là như vậy, Bồ Tát Quảng Đức đã vừa nỗ lực tu hành
vừa nỗ lực hoá đạo trong suốt 49 năm. Ngài đi khắp
mọi miền đất nước, nơi nào có chúng sinh cần độ, ngài
ở lại độ, rồi lại ra đi. Ngài đã xây dựng 49 ngôi
già lam để Phật tử có nơi nương tựa học Phật. Đến
giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Phật Giáo và của
đất nước, Ngài đem thân xác còn lại của Ngài sử dụng
thành ngọn đuốc soi sáng thế giới vô minh, hy vọng đánh
thức lương tâm nhân loại và những người lãnh đạo cuộc
chiến tương tàn đang hồi khốc liệt. Ngài thiêu thân
vì pháp, vì tiền đồ nguy khốn của Phật giáo, vì tự do
và bình đẳng tôn giáo, không vì một ước muốn danh tiếng
hay lợi lạc vật chất.
Do
vì mục đích cao cả như thế nên trước khi từ giã cõi đời,
Ngài đã soạn trước bản di chúc một cách “bình thản
và kín đáo” [16]. Ngôn từ Ngài dùng đầy nét từ
hoà khi viết di chúc để lại. Ngài nhắn nhủ với mọi
người và ngay cả với người lãnh đạo miền Nam lúc bấy
giờ với lòng từ ái, không một niềm sân hận hay oán trách.
Ngài nói với Tổng thống miền Nam: “Tôi xin trân trọng
kính gởi lời đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên lấy
lòng từ bi bác ái mà đối với quốc dân”... [17]
Nói
tóm lại, theo giáo lý Phật giáo nói chung và giới luật Tỳ
kheo nói riêng thì việc tự sát hay tự thiêu là phạm lỗi,
có tội phước nhân quả rõ ràng, tuy nhiên cũng tuỳ trình
độ tu chứng, có trình độ tu chứng cao như đã trình bày
ở trên thì ngược lại. Ngoài ra, với Phật giáo Nam
Tông việc giữ giới tướng hết sức quan trọng. Đối với
Phật giáo Bắc Tông, tuy tôn trọng giới tướng, nhưng coi
Tâm giới quan trọng hơn. Tất cả mọi hành động đều
do sự chỉ đạo của Tâm, tất cả do Tâm tạo. Tâm thanh
tịnh thì các pháp thanh tịnh, không có tội cấu. Trong
kinh điển Bắc tông có nhiều thí dụ điển hình các vị
Bồ Tát vì lợi ích chúng sinh mà làm những việc mà người
thường cho là phạm lỗi, nhưng đối với các Bồ Tát đã
biết Ngũ uẩn là Không thì làm gì có lỗi hay không lỗi,
có tội hay không tội. Dù thấy việc cứu người mà
phạm giới thì người có tâm hạnh Bồ Tát quyết tâm làm,
chỉ mong sao cứu giúp được chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ,
thoát khỏi nỗi chết, còn riêng mình bị thiệt thòi, bị
phạm lỗi hay bị mất mạng cũng chấp nhận. Bồ Tát
Quảng Đức tự thiêu, nguyện đem thân xác còn lại làm bó
đuốc soi sáng, mong chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm
đừng kỳ thị tôn giáo, trả lại quyền tự do tôn giáo cho
mọi người, là một tỷ dụ nói lên sự hy sinh cao cả, một
sự bố thí vĩ đại, quên thân mình vì chúng sinh. Hành
động tự thiêu của Ngài, dù nhìn qua nhãn quan Phật Giáo
Nam Tông qua các kinh Trung Bộ và Tương Ưng Bộ, như trường
hợp ba vị Tỳ kheo tự sát thời đức Phật, hay qua nhãn quan
Phật Giáo Bắc Tông qua các kinh Phạm Võng, kinh Đại Bảo
Tích, và kinh Hiền Ngu như trường hợp Thái tử Ma Ha Tát Đoả
xả thân cứu cọp, cũng không có điều gì chống trái với
pháp và luật Phật.
Tâm
Diệu
Ghi
Chú và Kinh Sách Dẫn Chiếu:
[01]
Walpola Rahula, trong chương 11 nhan đề "Self-cremation in Mahayàna
Buddhism" (trong quyển Zen and The Taming of the Bull, trang 111 - 114)
nói về sự tự thiêu của Bồ Tát Quảng Đức: "Một hành
động như thế đòi hỏi lòng can đảm mênh mông, đức tin,
lòng quyết định, sự làm trong sạch nội tại, và tiến triển
qua sự thiền định lâu dài và quả thực là một hành động
anh hùng. Nhưng hành động ấy không thích ứng với giáo
thuyết nguyên thủy thuần túy của Đức Phật, Bát Chánh Đạo,
tức là Trung Đạo.." (trang 114)
[02]
Nikkyò Niwano - Kòjirò Miyasaka - Bản Dịch Anh ngữ: Buddhism For
Today: A modern Interpretation Of The Threefold Lotus Sutra, Kose Publishing
Co. Tokyo-Việt dịch Cư Sĩ Trần Tuấn Mẫn, Viện Nghiên Cứu
Phật Học Việt Nam TP. HCM ấn hành 1997: “Ở Trung Quốc
và Nhật Bản, đó là chưa kể ở Việt Nam, đã có nhiều
trường hợp các tu sĩ Phật giáo tự thiêu và chết mà vẫn
ngồi an nhiên trong lửa rực. Tuy nhiên, những thực hành
như thế là trái với giáo lý Trung Đạo mà đức Phật đã
dạy và những thực hành này tự thân không đáng được ca
ngợi..” (trang 694)
[03]
Năm giới của Cư sĩ, mười giới của Sa Di, đến 250 giới
của Tỳ kheo, 348 giới của Tỳ kheo ni , tất cả đều là
Thanh Văn Giới. Bồ Tát Giới hay còn gọi là Đại Thừa
Giới gồm 10 giới Trọng và 48 giới Khinh, bao gồm hai phần:
có phần thì tác là phạm, có phần không tác cũng phạm, tức
là cần phải làm, nếu không làm thì phạm (chỉ trì và tác
trì). Đối với Thanh Văn Giới có làm mới phạm
(tác phạm).
[04]
Thích Phước Sơn, Luật Ma Ha Tăng Kỳ Đại Tạng Số 1425 Hán
dịch: Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp
Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc Việt dịch: Thích Phước
Sơn - Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543
(TL 2000) http://www.thuvienhoasen.org/tangky04.htm
“Có
trường hợp một nhóm Tỳ-kheo tự gây tai họa cho mình do
phản ứng quá đà và tâm thần tán loạn. Ðức Phật đã
dạy chư Tỳ-kheo tại Vesàli về sự bất tịnh của thân cùng
khuyến giáo chư vị quán thân vô thường và bất tịnh. Sau
đó Ngài nhập thất để độc cư thiền định. Khi Ngài trở
lại, Ngài kinh ngạc khi thấy số Tăng chúng địa phương ấy
giảm sút. Tỳ-kheo Ànanda giải thích: nhiều Tỳ-kheo quá chán
ngán bản thân sau khi đức Phật giảng Pháp, nên đã tự kết
liễu đời mình! Ðức Phật lập tức triệu tập một
buổi họp chư Tăng và đề nghị chư vị thay đổi phương
pháp bằng cách thực hành niệm hơi thở.”
[05]
Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya Tập 3 Kinh số 144
- Kinh Giáo giới Channa, http://www.thuvienhoasen.org/u-trung144.htm
Thích
Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 Samyutta Nikàya, (Đoạn VIII)
- Phật Lịch 2537 – 1993 http://www.thuvienhoasen.org/tu3-22e.htm
[06]
Thích Đức Thắng, Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 47 (Kinh 1266) Hán dịch:
Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Ðà-La, Việt dịch: Thích Ðức
Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ http://www.thuvienhoasen.org/kinhtapaham-47.htm
[07]
Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 3 Samyutta Nikàya, (Đoạn
V) Phật Lịch 2537 – 1993 http://www.thuvienhoasen.org/tu3-22e.htm
[08]
Thích Đức Thắng, Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 47 (Kinh 1265) Hán dịch:
Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Ðà-La, Việt dịch: Thích Ðức
Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ http://www.thuvienhoasen.org/kinhtapaham-47.htm
[09]
Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập 1 Phẩm 3 Samyutta Nikàya,
Phật Lịch 2537 – 1993 http://www.thuvienhoasen.org/tu1-04.htm
[10]
Thích Đức Thắng, Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 39 (Kinh 1091) Hán dịch:
Tống, Tam Tạng Cầu-Na-Bạt-Ðà-La, Việt dịch: Thích Ðức
Thắng - Hiệu đính & Chú thích: Thích Tuệ Sỹ http://www.thuvienhoasen.org/kinhtapaham-39.htm
[11]
Thích Trung Quán, Kinh Hiền Ngu, http://www.thuvienhoasen.org/u-hienngu0.htm
và Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, (Việt dịch Phạm
Kim Khánh), trang 618: http://www.thuvienhoasen.org/ducphatvaphatphap-41.htm
[12]
Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, Phật Học Viện
Quốc Tế 1985 (trang 28) http://www.thuvienhoasen.org/nghithuctunggioibotat.htm
[13]
Thích Trí Tịnh, Kinh Phạm Võng Lược Giảng, Van Hien Study Group
USA, 2000
[14]
Tiếng Sanskrit gọi là anutpattika- dharmaksànti (nhận rằng không
có cái gì được sinh ra cả). Trong Kinh Lăng Già ( Lavikàvatàra-sutrà
), chúng ta được giảng như vầy:
"Chư
Bồ Tát Ma Ha Tát thấy rằng tất cả mọi sự vật, bên trong
và bên ngoài, đều vượt qua ngôn thuyết, rằng không có cái
gì được thấy như có tự tính, rằng không có gì được
nhìn thấy như là được sinh ra, và khi cái tà kiến (nhận
rằng thế gian có được sinh), lúc tà kiến này sẽ được
biến mất thì chư Bồ Tát Ma Ha Tát sẽ tự tùy thuận theo
sự thấy rằng sự vật đều có tự tính giống như ảo huyễn,
vân vân, và đạt tới sự ưng thuận chấp nhận thoải mái
rằng những sự vật và sự việc đều không được sinh".
[15]
Thích Trí Tịnh, Kinh Đại Bảo Tích, Pháp Hội Bồ Tát Tạng
thứ 12, Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh 1999
http://www.thuvienhoasen.org/kinhdaibaotich-03-12-06.htm
[16]
Thích Trí Quang, Ngọn Lửa Qủang Đức,
http://www.thuvienhoasen.org/qd-tuongniem-08.htm
[17]
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập 3, Ch. 38, Nhà
Xuất Bản Văn Học – Hà Nội 1979 http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan3-38.htm