BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
HOÀ THƯỢNG
QUẢNG ĐỨC,
BIỂU TƯỢNG VỀ TÍNH DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP
CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TS.Trần
Hồng Liên
Đã
42 năm trôi qua kể từ ngày hoà thượng Thích Quảng Đức
vị pháp thiêu thân. Nhưng ngọn lửa của tinh thần đấu tranh
cho Đạo pháp và cho Dân tộc của hòa thượng như vẫn
còn cháy mãi! Nhân dân trên thế giới và Việt Nam, những
người con Phật cũng như những người không theo đạo
đều như bùi ngùi nhớ lại hình ảnh ngọn đuốc rực cháy
trên thân thể Người vào năm 1963 ấy. Điều gì đã làm nên
sự kỳ diệu đó ? Đây có phải chỉ là những phản
ứng chống lại sự kỳ thị về tôn giáo của một chế
độ độc tài? Có phải đó chỉ là “tiếng nói “ thay cho
những đòi hỏi về một sự công bằng trong chính sách đối
với các tôn giáo?? Tìm hiểu những câu hỏi trên chính
là nêu lên được những đóng góp lớn lao, những ý nghĩa
sâu sắc từ hành động vì đạo pháp và cho dân tộc
của hoà thượng Thích Quảng Đức; cũng chính là góp
phần chỉ ra được bản sắc của dân tộc Việt Nam
và của Phật giáo Việt Nam.
1.Trở lại với thời điểm sôi động của đất nước năm
1963, từ nguyên cớ hạ cờ Phật giáo của chế độ độc
tài Ngô Đình Diệm ở Huế để thấy rõ một điều rằng
sự độc đoán, tính đố kỵ và lòng vị kỷ của những
người cầm đầu chế độ ấy đã lên đến đỉnh điểm.
Việc hạ cờ Phật giáo chỉ là một hành động cuối cùng,
là điểm nút cuối cùng để bộc lộ hết tính
vị kỷ, chấp chặt lấy đạo pháp của một chế độ ! Chính
sự chấp pháp ấy đã đưa đẩy chế độ độc tài Ngô Đình
Diệm mau chóng bị kết thúc từ những hành động mù quáng
của mình. Ngô Đình Diệm, với chính sách phân biệt
đối xử, xem đạo của mình mới thật là đạo, được ban
cho đặc quyền, đặc lợi. Còn các đạo khác, dù có lịch
sử 2.000 năm , dù có hàng chục triệu tín đồ, vẩn
bị khinh miệt! Với Đạo dụ 10, sự phẩn uất của tăng
ni, phật tử càng lên cao. Chính quyền đã đàn áp Phật giáo
bằng những phương tiện quân sự và phương pháp tàn bạo.
Hàng chục tăng ni Phật tử, rồi đến hàng trăm tăng
ni sau đó bị bắt bớ và bị giết hại. Ngọn sóng đàn
áp cứ thế mà ngày càng bùng lên mạnh mẽ. Người dân
sống ở Huế vào năm 1963 không thể quên được hình ảnh
thảm khốc từ những chiếc xe tăng của Diệm càn lên những
người có đạo vô tội. Máu đã đổ và hận thù như
đã siết chặt thêm. Những người con Phật dùng vũ khí
từ tinh thần Bi -Trí -Dũng để chống trả! Trước
những đàn áp bạo tàn và khốc liệt, những người con Phật
đã sử dụng thế Nhu của mình để chống trả lại thế
Cương của chế độ Diệm . Lấy thân mình thay cho tiếng nói
cảnh tỉnh, như những gáo nước lạnh dội vào ngọn
lửa của sự thù hận và vô minh. Những ngọn đuốc
đượïc đốt lên từ thân thể, hình hài của mỗi người
con Phật như từng ngọn đèn thắp sáng, soi rọi
tận cùng vào sâu thẳm tâm hồn đen tối, độc tài của một
chế độ. Và cứ thế liên tục, hết người này đến
người khác…sao cho đến một ngày hành động vị pháp thiêu
thân ấy đã trở thành một tiếng gọi vang vọng, làm rúng
động lương tri của những người yêu chuộng hoà bình trên
thế giới. Đỉnh điểm ấy, ngọn sóng trào dâng tột đỉnh
ấy chính là hành động tự thiêu của hoà thượng Thích Quảng
Đức, là tiếng chuông vang vọng ngân xa, lan tỏa ra ngoài
phạm vi một quốc gia và trở thành bất diệt.
2. Hoà thượng Thích Quảng Đức, tên đời là Lâm
Văn Tuấn, quê ở Khánh Hoà, hoà thượng đã trụ trì chùa
Quán thế Aâm trước khi tự thiêu. Trước tình thế Phật
giáo đồ bị sát hại thảm khốc, đã phát lời đại nguyện
rằøng: “ Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa
nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danh là trưởng tử của Như
Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để Phật pháp
tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm
này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức
bảo tồn Phật giáo…Cầu nguyện cho đất nước thanh bình,
quốc dân an lạc” ( Lời nguyện tâm huyết, Tỳ kheo Thích
Quảng Đức) .
Từ
nhận thức được nung nấu sau bao cơn đàn áp bạo tàn của
Diệm, hoà thượng Quảng Đức, đã viết : là trưởng tử
của Như Lai, được thấm nhuần lẽ đạo, nên không thể
ngôi yên. Hoà thượng hiểu rõ rằng, với một chế
độ độc tài như vậy, với những con người có hành động
thiếu đạo đức và không có nhân bản như vậy, đất nước
sẽ không thể yên, lòng dân sẽ không thể được bình ổn,
an lạc và đạo pháp sẽ không thể được bảo tồn ! Vì
vậy, thực hành lời nói ấy, quyết đem lại một sự cảnh
tỉnh lớn lao, làm thay đổi nhận thức con người, từ
vô minh đến giác ngộ, phải bằng việc hy sinh chính bản
thân mình. Lấy sự xả thân, tinh thần vô uý thí để
đối lập lại cường quyền, bạo lực. Làm được điều
đó, thực hành được suy nghĩ trên, đó là điều không dễ
dàng, không phải ai cũng làm được. Do đâu hoà thượng
Quảng Đức có được quyết tâm đó?
3.
Trả lời câu hỏi trên chính là đi tìm lại cội nguồn của
tinh thần dân tộc. Là người dân Việt, không ai không yêu
nước. Tinh thần yêu nước này ngày càng được nhân
lên cao hơn chính từ những cuộc ngoại xâm . Những người
dân nước Việt đã qua thử thách trước nguy cơ xâm lược,
từ đó tinh thần yêu nước càng như được củng cố.
Tinh thần ấy còn được nhiều tấm gương trong lịch sử
in đậm thêm qua quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước.
Từ đó, hình ảnh của người dân ra biên cương
chống giặc khi có ngoại xâm là hình ảnh đẹp đẽ, được
lập đi lập lại trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam,
không loại trừ những người theo đạo Phật , với tư tưởng
nhập thế, cứu đời, giúp đời. Không phải ngẫu nhiên mà
có được một hoà thượng Thích Quảng Đức của thế kỷ
XX, bởi vì đã có trong lịch sử hàng trăm năm trước , những
thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt….đã biết đem tinh thần
Phật pháp ra áp dụng vào đời sống hàng ngày. Những tấm
gương sáng ấy chính là bài học muôn đời về tinh thần
yêu nước của dân tộc Việt Nam , là sự thể hiện việc
đem đạo vào đời, là tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam. Nó được nhân rộng, kế thừa và
tiếp nối liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà có được những con người
biết hy sinh thân mệnh mình cho đạo pháp , cho dân tộc.
Mặt
khác, còn chính trên cơ sở của dòng Phật giáo Việt
Nam, nổi bật từ thời các vua nhà Lý , nhà Trần…. đã
biết đem thập thiện đến từng gia đình, đã biết cụ thể
hoá giáo lý nhà Phật trong điều kiện đất nước Việt Nam,
đã bằng chính hành động từ bỏ ngai vàng, danh lợi và những
ham muốn vị kỷ cá nhân để trao truyền cho những thiền
sư Việt Nam một tinh thần xã thân cao quý . Tuỳ từng
thời điểm lịch sử, tuỳ vào những điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau mà các thiền sư đã có những ứng xử khác nhau,
những cống hiến cho Đạo pháp và cho Dân tộc khác nhau. Nhưng
trên hết , vẫn là lòng yêu nước nồng nàn, là tình yêu
thương nhân dân sâu đậm…Tình thương đó, lòng yêu
người đó đã tạo thành, đã giúp phát khởi nên một
quyết tâm cao độ, một đại nguyện vang lừng, đó là tinh
thần vô uý thí.
Chính
từ sự dâng hiến tất cả, không loại trừ ngay cả bản
thân mình, của những thiền sư trong lịch sử và của
hoà thượng Quảng Đức ở thế kỷ XX đã làm cho sự
cống hiến ấy trở thành bất tử, bởi vì một khi đã cho
đi hết thì sẽ nhận được tất cả!
4.
Bài học về tinh thần xã thân này, được đưa ra trong
giai đoạn đạo pháp đang bị chia rẽ, đất nước đang bị
ngoại xâm….càng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái
chết của hoà thượng không chỉ nhằm cảnh tỉnh những người
trong chế độ độc tài nhà Ngô, mà sâu sắc và lớn lao hơn,
nó còn mang ý nghĩa thời đại. Đó còn là tiếng
chuông tỉnh thức cho những người con Phật còn đang
thờ ơ trước sự hưng vong của đạo pháp, của quốc gia
… kêu gọi họ cần nhanh chóng đoàn kết lại, một lòng
chung sức cứu lấy nước nhà. Bởi vì tổ quốc còn, đạo
pháp mới có thể còn tồn tại được! Đánh giá cao về hành
động tự thiêu của hoà thượng Quảng Đức, GS. Trần
Văn Giàu đã cho rằng: “ Đó là một hành động chống
chiến tranh, là hành động bảo vệ hoà bình, vì Hoà bình
mà hi sinh (…) nhà sư là một người yêu nước, Quảng Đức
yêu nước theo phong cách một nhà sư “ (1)
5.Tìm
hiểu về hành động “ Vị pháp thiêu thân” của hoà thượng
Quảng Đức còn là nhằm nêu lên bài học có giá
trị lịch sử , có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Qua cái chết của hòa thượng đã góp phần khơi gợi trong
tư duy của nhân dân thế giới, những ngườøi yêu chuộng
hoà bình, suy nghĩ kỹ hơn về giá trị đích thực của
một đời người. Đó không phải là tính ham sống, sợ
chết ; không phải là lòng vị kỷ, độc tài, ham chuộng bạo
lực…mà điều vi diệu trong cuộc sống, tạo nên giá trị
vĩnh hằng, chân lý tối thượng …chính là tình thương, là
lòng dũng cảm, là sự hy sinh cho những điều lớn lao , cao
cả, là quyền lợi và sự sống còn của dân tộc, của đất
nước, của đạo pháp….Bài học ấy mãi mãi sẽ còn nguyên
giá trị , vì nhân dân thế giới đã có được hình ảnh
xác thực qua cái chết của hoà thượng , một dấu ấn sâu
đậm về con người Việt Nam biết hy sinh cho nghĩa cả, về
một đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng kiên cường , bất
khuất trước cái xấu, cái vị kỷ, trướùc những mưu toan
đen tối nhằm đè bẹp, trấn áp bằng bạo lực của ngoại
xâm….Chính từ những ý nghĩa ấy, hoà thượng Quảng Đức
đã thực sự trở thành một vị Bồ tát, người luôn hướng
tâm hồn mình, thể xác mình cho cuộc đời, cho người
đời để cứu giúp và góp phần giác ngộ họ.
6.
Những vị Thiền sư Việt Nam, trên đường
tiếp nối hướng đi đúng đắn và có ý nghĩa của Phật
giáo Việt Nam, đã “ nói” lên suy nghĩ của mình bằng
hành động. Bồ tát Thích Quảng Đức đã hoà nhập thực
sự vào dòng chảy nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đã
trở thành biểu tượng cho tính dân tộc và đạo pháp của
Phật giáo Việt Nam. Bồ tát Thích Quảng Đức vì
vậy đã trở thành bất tử. Trái tim để lại cho đời của
bồ tát Quảng Đức vì vậy đã trở nên bất diệt!
(1)
Trần Văn Giàu: Thích Quảng Đức. Tập Văn số 7, 1987,
ban VHTW GHPGVN xb, tr. 30.