Tiền
từ vi có nghĩa là phân biệt, xét đoán, nhận thức. Bất
cứ chữ nào có chữ vi ở đầu đều có nghĩa như vậy. Ví
dụ như tàng thức dịch là alayavijnana. Chữ thứ hai là vijnapti
có thể dịch là thức, cũng có thể dịch là biểu. Chữ biểu
có thể dịch là manifestations, perceptions, announcing. Vijnapti.
Cũng có tiền từ vi nên cũng có nghĩa là phân biệt. Perception
là phân biệt. Thầy Huyền Trang (thế kỷ thứ bảy) dịch
vijnana là thức mà vijnapti cũng dịch là thức. Nhưng bây giờ
trong giới Phật học thích dịch vijnapti là Biểu Biệt. Biệt
này có nghĩa là phân biệt. Vì là phân biệt nên dịch là
perceptions. Biểu là biểu hiện cho mình thấy. Ví dụ như cái
giận của mình, nó luôn có hạt giống trong tâm của mình,
thức hay ngũ mình đều mang theo hạt giống đó trong tâm, nhưng
mà nó chưa biểu hiện. Chỉ khi nào có cơ hội, có điều
kiện thì mới đùng đùng nổi giận, nổi tam bành lục tặc
lên. Khi đó gọi là Biểu.
Khi
mà vật chất hình tướng, biểu hiện ra rồi thì gọi làvijnaptirupa,
gọi là Biểu sắc. Sắc đây là màu sắc, hình dáng: form.
Sắc cũng có nghĩa là năng lượng: energy. Ví dụ khi mình đẩy
xe ba gác thì cái xe là sắc, mà con người đẩy xe cũng là
sắc, và sức lực, năng lượng cố gắng đẩy xe cũng là
sắc. Mình thấy rõ ràng ba cái: cái xe, thân thể mình và năng
lượng đẩy xe đều là sắc. Cái năng lượng có sẵn trong
mình nên chưa đẩy xe nên chưa thấy. Và khi mình đẩy xe thì
thấy sức mạnh của chàng trai hay cô gái đó. Khi nó biểu
hiện cho mình thấy thì gọi nó là biểu sắc (vijnaptirupa).
Ví dụ sau khi mình thọ nhận giới đặc biệt các giới lớn
hoặc Tiếp Hiện. Trước một đại chúng đông đảo với
hội đồng truyền giới, vừa thọ xong giới mình thấy một
nguồn năng lượng lớn trong mình, mình biết là có giới thể,
bắt đầu trở thành một người khác, không phải là khác
hẳn nhưng mình biết có một nguồn năng lượng mới ở trong.
Hay là mới thọ giới Sa di ni, mình mới cạo đầu, có mười
giới, thì trở thành người xuất gia, và có một nguồn năng
lượng dồi dào, nguồn năng lượng của sơ tâm (beginner’s
mind) mạnh lắm. Nhìn vào con mắt mình ai cũng thấy sáng ra.
Cái dáng đi mình cũng vậy, đôi khi nó biểu hiện. Người
ta thấy được nguồn năng lượng trong người mới thọ giới.
Đó gọi là Giới thể.
Nhưng
khi giới tử ngủ, người ta không thấy được nguồn năng
lượng đó nhưng mà nó có. Sau khi thọ giới, giới thể trong
con người mình là năng lượng. Nó là sắc nhưng không phải
là biểu sắc mà là Vô biểu sắc. Cái sơ tâm của người
mới tu học rất là mạnh. Khi mình có Bồ Đề tâm là có
nó rồi. Quý thầy hay dùng cái giới thể để ví dụ về
Vô biểu sắc. Còn khi người con trai hay người con gái bị
tiếng sét của tình yêu thì trong lòng mình cũng có một khối
nội kết, cái đó cũng là Vô biểu sắc. Đi đứng nằm ngồi
gì cũng bị cái đó điều khiển, ngủ không được ăn không
được. Đó cũng là một loại Vô biêu sắc. Nhưng nó động
và mất an lạc nhiều hơn là Vô biểu sắc về giới thể.
Một thọ giới thì có giới thể là một loại Vô biểu sắc,
làm cho mình ngày thêm vững vàng an ổn, mạnh khỏe, còn năng
lượng của tiếng sét ái tình thì ngược lại.
Trong
truyện Kiều khi nói về Thúy Kiều cụ Nguyễn Du nói rằng:
“Đã
mang lấy một chữ tình,
Khăng
khăng mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy
nên những chốn thong dong,
Ở
không an ổn, ngồi không vững vàng”.
Trong
khi đó Vô biểu sắc của giới thể làm cho mình yên ổn vững
vàng hơn. Cho nên một bên thì:
“Ma
đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Lại
tìm những chốn đoạn tràng mà đi”.
Còn
bên này thì:
“Bụt
đưa lối, Tăng dẫn đàng,
Đi
toàn những lối an toàn thong dong”.
Chỉ
đi trên những lối có chánh niệm không thôi. Thức như vậy
là một loại Sắc chứ không hẳn chỉ là Tâm thôi. Vì vậy
nếu có người nghĩ Thức chỉ là Tâm thôi mà Tâm thì không
thể là Sắc và nghĩ lầm Duy Thức là Duy Tâm là rất sai.
Thức
là năng lượng và có nhiều thứ năng lượng. Có những năng
lượng biểu hiện ra ngoài và mình thấy được, có những
năng lượng chưa biểu hiện và mình chưa thấy. Khi nó phát
hiện ra rồi mình thấy nhiều cái rất hay và nhiều cái rất
không hay. Mình có thể tiếp xúc với thức bằng hai cách.
Mình tiếp xúc với nó khi nó được biểu hiện và mình cũng
tiếp xúc với nó khi nó chưa biểu hiện, vì mình biết nó
có nhưng nó chưa biểu hiện thôi. Ví dụ như khi mình có một
người bạn đang có niềm lo lắng. Có thể người bạn đó
đang dấu niềm lo lắng đó. Nhưng cái niềm lo lắng đó thế
nào cũng biểu hiện một phần trên mặt người đó và khi
mình tiếp xúc với người đó bằng chánh niệm thế nào mình
cũng thấy được dù người kia nói “Không, có sao đâu, em
không có vấn đề gì hết”. Nhưng mà mình tiếp xúc được
với niềm đau đó trong ánh mắt và mình biết ngay và khéo
léo giúp đỡ. Nhưng có khi người đó giấu rất khéo và mình
thì không chánh niệm lắm nên mình không thấy gì hết, thì
thức cũng vậy. Có khi thức biểu hiện thấy được tiếp
xúc được, có khi thức không biểu hiện, thành ra chữ biểu
hiện rất hay tại vì thức có khả năng phân biệt, khả năng
nhận thức gọi là perception.
Tiếng
Việt là Biệt và khả năng biểu hiện ra manifestation, gọi
là Biểu. Thức biểu hiện nhiều cái rất ngộ nghĩnh. Sông
núi là biểu hiện của thức. Một nền dân chủ là biểu
hiện của thức. Thị trường chứng khoán ở NewYork, Paris,
London đều là biểu hiện của thức. Tăng thân tu học ở
Làng Hồng cũng là biểu hiện của thức, chiến tranh ở Yougoslavia
cũng là biểu hiện của thức. Tại vì tâm của mình nó biểu
hiện ra nhiều cái rất mầu nhiệm nhưng cũng biểu hiện và
kéo mình đi vào những đường rất là đau khổ. Thức của
mình, cái vijnaption phải dịch là Biểu Biệt là nó vừa là
biểu hiện vừa có khả năng nhận thức. Vì nó có khả năng
nhận thức nên thầy Huyền Trang dịch là Thức. Và nếu dịch
như vậy là đánh mất phần biểu hiện. Vì vậy các nhà học
Phật sau này dịch là Duy Biểu để nắm lại phần thiếu
đó. Trong Duy Thức Ba Mươi Bài Tụng đó, chữ vinaption này
được dùng tới năm lần mà chữ vijnana chỉ được dùng
có một lần mà thôi.
Duy
có nghĩa là chỉ có nó mà thôi. Vijanavada vijna - namatra. Chỉ
có thức. Thầy Thế Thân (Vasubandhu) tác giả Duy Thức Tam Thập
Tụng đã dùng chữ vijnaptimatrata hình như đến năm lần và
chỉ một lần vijnaptimatrata thôi. Vì vậy cho đến khi thầy
Thế Thân mình thấy rõ rằng Thầy để ý tới khía cạnh
Biểu. Chỉ có sự biểu hiện của Thức thôi. Vì vậy bây
giờ ta dùng chữ Duy Biểu cho nó gần với tinh thần nguyên
bản.
Trong
tác phẩm Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức có câu như vầy “Thức
nó biểu hiện làm hai phần: phân biệt và bị phân biệt”,
dịch là consciousness manifest itself into knowing and known. Thức
biểu hiện ra làm hai phần: phần chủ thể nhận thức và
phần đối tượng nhận thức. Consiousness manifestes itself in
two part: the knower and the known. “Thị chư thức chuyển biến,
phân biệt sở phân biệt”. Và vì vậy cho nên cả phần phân
biệt và phần bị phân biệt đều từ thức mà ra cả. Vì
vậy cho nên mới có câu “Chỉ có thức: Duy Thức” là vậy.
Ví
dụ như mình nhìn ngọn núi Alpes, mình biết núi Alpes là đối
tượng của tri giác, đối tượng của nhận thức. Cố nhiên
khi có đối tượng thì phải có chủ thể của thức và hai
cái đều là thức cả. Vì vậy mà điều ta muốn nói ở đây
thì chư thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt cái thức
đó nó chuyển biến thành hai phần là phân biệt và bị phân
biệt. đó là ý nghĩ của chữ Biểu. Biểu hiện ra thành chủ
thể phân biệt và đối tượng phân biệt. The subject of knowing
and the object of knowing and both subject and object belong to consciousness.
(Cố nhất thiết duy thức). Vì vậy cho nên tất cả chỉ là
thức, chỉ có biểu biệt. cho nên cái tên gọi của tác phẩm
là Vijnaptimatrata có nghĩa là Duy biểu tụng. (biểu này là
biểu biệt).
Tôi
vừa nói tác phẩm Năm Mươi Bài Tụng là mới mà cũ. Tại
vì Năm Mươi Bài Tụng này trình bày một cách mới nhưng toàn
dùng những chất liệu cũ. Trước hết nó gồm tác phẩm Duy
Biểu Ba Mươi Bài Tụng gọi là Duy Biểu Tam Thập Tụng ngày
trước gọi là Duy Thức Tam Thập Tụng. Cách đây tôi có dịch
tác phẩm này ra tiếng Việt căn cứ trên bản chữ Hán và
cùng căn cứ trên bản tiếng Phạn mà một vị giáo sư ở
Âu Châu (Sylvain Levy) đã phát kiến ra được ở Nepal cách
đây khoảng năm sáu mươi năm. Cho nên mình có dịp so sánh
bản chữ Hán của thầy Huyền Trang dịch và bản chữ Phạn
mà ngày xưa thầy Huyền Trang đã sử dụng để dịch ra Hán
văn. Cách đây ba năm tại Làng Hồng mình có học bản đó.
Tác phẩm này của thầy Thế Thân (Vasubandhu từ 320-400). Trong
khi đại chúng học Năm Mươi Bài Tụng thì sẽ trực tiếp
tiếp xúc với Ba Mươi Bài Tụng của Thầy Thế Thân. Tác
phẩm này được căn cứ trên cả bản tiếng Hán và bản
tiếng Phạn mà còn được căn cứ trên những lời chú giải
của một nhà Duy Thức Học nổi tiếng của Ấn Độ ngày
xưa là Thầy An Huệ (Sthirmati) bản chú giải của thầy An
Huệ, bằng tiếng Phạn cũng được giáo sư đó tìm ra ở
Nepal và đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Quan Thoại
ấn hành ở Hồng Kông.
Bản
chữ Hán cũng được Thầy Huyền Trang chú giải, Thầy dịch
và chú giải nhưng Thầy chú giải ngộ lắm. Thầy dùng hết
tất cả những tài liệu mà Thầy đã tu tập được từ bên
Ấn Độ ở Nalanda. Nơi đây Thầy đã được học với Thầy
Giới Hiền (Silabhadra) và Thầy Hộ Pháp và hai trong mười
vị luận sư về Duy Thức giỏi nhất của Phật giáo Ấn Độ
thời đó (Thập vị luận sư). Trong khi thầy Huyền Trang cư
trú và học hỏi Nalanda, phía Bắc thành Vương Xá một trường
Đại Học Phật Giáo nổi tiếng ở Bắc Ấn vào thế kỷ
thức VI, thứ VII… Thầy thu thập và đem về Trung Hoa tất
cả những kiến thức và ý kiến của mười vị luận sư
đó và Thầy cho hết vào trong bản chú giải của Thầy. Bộ
sách chú giải đó tên là Thành Duy Thức Luận của Huyền
Trang (600-664).
Thầy
Huyền Trang cũng không thọ lắm vì làm việc nhiều quá, Thầy
đem vào trong Thành Duy Thức Luận, một tác phẩm tập đại
thành, tất cả những ý kiến của mười vị luận sư trong
đó Thầy dạy trực tiếp của thầy Huyền Trang là Giới Hiền
và Thầy đi trước đó là Hộ Pháp. Đó là ý kiến của nhiều
vị luận sư. Khi mà chúng ta học Duy Thức Tam Thập Tụng thì
ta cần có bản chú giải của thầy An Huệ, hiện đã được
dịch ra tiếng Quan Thoại và tiếng Pháp. Chúng ta sử dụng
được Thành Duy Thức Luận của thầy Huyền Trang bằng tiếng
Hán và tiếng Anh do một học giả người Hương Cảng. Trong
khi học Ngũ Thập Duy Biểu Luận ta sẽ được tiếp xúc với
một tác phẩm của Thầy Vô Trước (Vasubandhu). Hai người
đều đã xuất gia và cả hai người đều là tay cự phách
của Tăng đoàn.
Khi
ta học Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu thì chúng ta sẽ cùng được
tiếp xúc với một tác phẩm rất nổi tiếng của Thầy Vô
Trước tên là Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayanasangrahasastra).
Tại vì người em đã sử dụng những tài liệu trong tác phẩm
Nhiếp Đại Thừa Luận của người anh. Nhiếp Đại Thừa
Luận là một bộ phận thâu nhiếp được, bao hàm hết, quy
nhiếp, chứa đựng tất cả tinh nghĩa của giáo lý Đại Thừa
và tư tưởng duy thức trong này rất căn bản. Khi học tác
phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng của Thầy Thế Thân ta cứ nghĩ
Thầy Thế Thân là Tổ của Duy Thức, là quan trọng nhất trong
Duy Thức nhưng ta không biết anh của thầy Thế Thân là Thầy
Vô Trước cũng đã làm cô động tư tưởng duy thức rất
công phu trong tác phẩm Nhiếp Đại Thừa Luận.
Ta
sẽ được học chương thứ hai của tác phẩm này gọi là
chương Sở Tri Y. Chưa có bản dịch tiếng Việt. Ta sẽ vừa
học vừa dịch tác phẩm của Thầy An Huệ tên là Tam Thập
Tụng Chú. Ta có bản tiếng Pháp và tiếng Quan Thoại. Trong
khi học năm mươi bài Duy Biểu ta cũng được học một tác
phẩm khác của Thầy Huyền Trang là Bát Thức Quy Củ Tụng
(những bài tụng quy cũ, mẫu mực của tám thức) và Duy Thức
của Bát Thức Quy Củ này có thể gọi là Duy Thức Mới. Tại
vì khi Thầy Huyền Trang qua Ấn Độ và học Duy Thức của
Thầy Vô Trước và Thầy Thế Thân thì Thầy cũng được tiếp
xúc với học phái của Thầy Trần Na (Dinangha, 400-480). Thầy
Trần Na rất giỏi về luận lý học. Vì vậy nên Duy Thức
của Bát Thức Quy Củ có màu sắc của luận lý học (logic)
và của nhận thức luận (epistemology).
Nhận
thức luận đặt vấn đề là ta có thể đạt tới sự hiểu
biết về thực tại hay không? Nếu nói rằng trí óc chúng
ta không thể đi tới trực tiếp thực tại thì đó là chủ
trương “bất khả tri luận” (angosticism). Vấn đề của
nhận thức luận là trí óc con người có thể đạt tới chân
lý tuyệt đối của thực tại hay không? Có chủ thuyết nói
là không được. Đó là chủ trương của trường phái Bất
Khả Tri Luận. Giờ đây khi học Duy Thức sẽ biết Duy Thức
chủ trương như thế nào. Khi học Năm Mươi Bài Duy Biểu ta
cũng sẽ được tiếp xúc với một tác phẩm của Thầy Pháp
Tạng (Thầy này chuyên môn về Giáo Lý Hoa Nghiêm) tên là Hoa
Nghiêm Luận Huyền Nghĩa.
Thời
đại của Thầy Vô Trước trong đó Duy Thức chưa được gọi
là thực sự Đại thừa, chưa phải là Đại thừa tuyệt đối.
Thầy Thế Thân là tác giả của tác phẩm quan trọng Abhidarmakosasastra
(Câu Xá Luận) thu tóm tất cả những tinh nghĩa của luận
tạng Tiểu thừa, luận tạng của phái Thuyết Nhất Hữu Bộ
(Sarvativada). Hồi đó trung tâm Cashimare là một trung tâm phồn
thịnh của Hữu Bộ. Người nào không thuộc về Hữu Bộ,
không thuộc về phái Sarvastivada thì không được theo học
trường học đó. Thầy Thế Thân không có căn cước của
Hữu Bộ nên không được theo học. Nhưng Thầy đã giả trang
để được theo học, học với tư cách của một người tự
do và Thầy có nhiều kiến thức về những tông phái khác
trong đó có tông phái Kinh Lượng Bộ (Sauntantrika). Sau thời
gian tham học ở Cashmire Thầy sáng tác A Tỳ Đạt Ma Câu Xá
Luận. (Abhidharmakosasastra). Khi tác phẩm được công bố thì
Cashmire rất sung sướng nghĩ rằng có một người có khả
năng trình bày tất cả những giáo nghĩa của Hữu Bộ rất
thông minh, đẹp đẽ. Nhưng người ta không ngờ trong khi đó
Thầy Thế Thân đã đưa vào những ý kiến của các bộ phái
khác nhất là của Kinh Lượng Bộ. Nhưng hồi này Thầy Thế
Thân vẫn còn xương minh A Tỳ Đạt Ma và giáo lý của Tiểu
Thừa trong khi đó người anh đã theo giáo lý Đại thừa rồi.
Nhưng sau đó từ từ Thầy Thế Thân khám phá được cái hay
của Đại thừa. Nghe nói đêm đó trong khi Thầy Thế Thân
đang đi thiền hành, trời rất trong, trăng rất đẹp. Hoa nở
rất thơm. Thầy thấy Thầy Vô Trước đang ngắm trăng và
đang đọc bài kệ và khi mà thầy nghe được bài kệ đó,
đang trong khung cảnh đó thì Thầy rất cảm động và bắt
đầu hiểu được chân nghĩa của Đại Thừa. Từ đó Thầy
sáng tác những tác phẩm về Duy Thức.
Trước
tiên là Hai Mươi Bài Tụng Duy Thức rồi sau đó Ba Mươi Bài
Tụng Duy Thức. Vì thế Duy Thức của Thầy Thế Thân được
sinh đẻ từ tác phẩm A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Tiểu Thừa.
Nó là Đại Thừa nhưng chưa đạt tới Đại Thừa Tuyệt Đối.
Nó là một đứa bé bụ bẩm mạnh khỏe nhưng chưa được
lớn hết những tầm vóc của nó. Vì vậy cho nên một hai
trăm năm về sau người ta vẫn coi Duy Thức là Đại Thừa.
Nó là Đại Thừa nhưng chưa là đại thừa đúng mức. Gọi
tạm là Quyền Thừa nhưng chưa là Đại Thừa thật.
Sang
đến Trung Hoa, thầy Pháp Tạng sinh sau đẻ muộn hơn Thầy
Huyền Trang. Thầy Pháp Tạng chuyên về hệ thống Hoa Nghiêm,
Thầy thấy giáo lý Duy Thức quá quan trọng và vì vậy Thầy
muốn tuyệt đối Đại Thừa hóa Duy Thức, đem giáo lý Hoa
Nghiêm bổ túc cho Duy Thức, đưa Duy Thức tới Viên Giáo tức
là Đại thừa tuyệt đối: Tiểu Thừa - Quyền Thừa - Đại
Thừa Tuyệt Đối - Viên Giáo. Vì vậy trong Hoa Nghiêm Huyền
Nghĩa Thầy đề nghị đưa tư tưởng “một là tất cả,
tất cả là một” đi vào trong Duy Thức. Nhưng tiếng kêu
gọi của Thầy không được kết quả nhiều vì cả ngàn năm
về sau người ta vẫn học Duy Thức Tam Thập Tụng như vậy.
Và người ta không đưa những đề nghị của Thầy và Pháp
Tạng đi vào.
Từ
thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ hai mươi người ta vẫn
học Duy Thức của Thầy Thế Thân, của Thầy Huyền Trang và
của Thầy Khuy Cơ (một đệ tử của Thầy Huyền Trang rất
giỏi Duy Thức) y chang như vậy thôi. Không ai theo dõi sự nghiệp
của Thầy Pháp Tạng cả nghĩa là đưa giáo lý Hoa Nghiêm đi
vào trong Duy Thức trở thành Viên Giáo.
Cuối
thế kỷ thứ hai mươi mới có Thầy Nhất Hạnh. Thầy viết
Năm Mươi Bài Tụng là Duy Thức Viên Giáo. Trong khóa mùa đông
này, nếu mà Thầy trò mình có phước thì mình sẽ học Duy
Thức Tam Thập Tụng, một ít Thành Duy Thức Luận, một ít
Nhiếp Đại Thừa Luận. Tam Thập Tụng Chú của Thầy An Huệ
mình sẽ học Bát Thức Quy Củ Tụng và một ít của Hoa Nghiêm
Huyền Nghĩa của Thầy Pháp Tạng. Sở dĩ mình được tiếp
xúc với tất cả những bộ luận của Đại Thừa là vì lý
do trong Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu Thầy Nhất Hạnh đã sử
dụng tất cả những tài liệu của tất cả những bộ luận
này. Mong muốn học như vậy nhưng học được bao nhiêu thì
còn tùy theo cái phước của đại chúng.
Năm
Mươi Bài Tụng Duy Biểu này có tính cách thực dụng. Từ
đây ta có thể sử dụng năm mươi bài tụng này để giúp
cho sự thực tập tu học của ta và của những người khác.
Tại vì trong quá khứ có nhiều người học Duy Thức nhưng
kiến thức về Duy Thức của họ có tính cách lý thuyết và
khó đem ra thực hành. Trong khi những bài học này rất là
thực tế. Ta có áp dụng chúng, đem chúng ra tu tập hàng ngày
trong mọi sinh hoạt của chúng ta vào trong sự xây dựng Tăng
thân, trong sự chuyển hóa nội tâm và trị liệu những chứng
bệnh tâm thần của con người. Vì vậy tôi rất mong là năm
mươi bài tụng này đóng được vài trò của chúng trong lịch
sử. Tại vì tôi đã từng gặp nhiều vị học Duy Thức rất
kỹ, nói về Duy Thức rất lưu loất nhưng khi được hỏi
cái kiến thức đó có dính dáng gfi đến đời sống hằng
ngày hay không thì người đó mỉm cười chịu thua. Hình như
họ học để nói vậy thôi, không thấy áp dụng được gì
vào đời sống thực tế của họ.
Một
trong những ý niệm nằm sâu trong lòng tác giả là Năm Mươi
Bài Tụng Duy Biểu này sẽ có thể được sử dụng như là
một dụng cụ để chuyển hóa nội tâm, hướng dẫn sự tu
tập hằng ngày, xây dựng Tăng thân và trị liệu những khổ
đau, những chứng bệnh về tâm thần. Và sau này khi ta mở
khóa tu cho những hà tâm lý trị liệu ta có thể sử dụng
Năm Mươi Bài Tụng này làm căn bản. Ngày xưa tôi đã học
Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức hay Hai Mươi Bài Tụng Duy Thức
hay Bát Thức Quy Cũ Tụng, chúng tôi đều học thuộc lòng
hết. Tất cả tên của tâm sở tâm vương đều phải học
thuộc lòng hết. Thành ra sau này có lẽ quý vị phải học
thuộc lòng Năm Mươi Bài Tụng để đem ra áp dụng vào đời
sống hằng ngày. Điều này dễ. Học thuộc lòng thì dễ,
chỉ có hiểu và áp dụng mới khó thôi.