Bài kệ thứ 21-25
GIẢNG LUẬN DUY BIỂU HỌC
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 1996
KỆ
THỨ 21
Cũng
như bóng theo hình
Mạt
na theo tàng mãi
Là
cơ chế tự tồn
Là
bản năng dục ái.
Thức
này là cơ chế tự tồn (mecanisme autopreservation). Chúng ta đừng
nghĩ rằng thức này chỉ có khuynh hướng xấu thôi. Tại vì
trong đó cũng có những hạt giống tốt. Thức mạt na khi mà
giác ngộ nó trở nên một cái tác dụng rất mầu nhiệm,
gọi là Bình đẳng tánh trí. Bình đẳng tánh trí tức là
cái khả năng có thể thấy được cái một trong tất cả
và tất cả trong một. Trong thức này có tác dụng tư lượng
và có tác dụng bảo tồn. Tự tồn cơ chế (mécanisme de préservation).
Khi mình ngủ mà có người đến đánh thức mình dậy thì
cái giật mình thức dậy đó là tác dụng của thức thứ
bảy. Khi một người tới đánh mình một cái mà mình né liền
lập tức, phản ứng rất mau lẹ để tránh né thì nó thuộc
về thức thứ bảy, lúc đó thức thứ sáu và các thức khác
chưa đủ thì giờ để suy nghĩ.
Thành
ra đi lạc trong rừng, đi vào trong những tình trạng rất nguy
hiễm thì cái thức này làm việc rất mạnh, nó xúi mình trốn
nó bảo mình làm thế này làm thế kia để bảo tồn sinh mạng
của mình nhưng có khi nó bảo rất là sai. Tại vì nó bị
che lấp. Có khi nó bảo mình làm cái mà đáng lý mình không
làm, tại vì nó là hữu phú. Thành thử là nó muốn sống
nhưng mà nó lại đi vào con đường chết. Trong tâm lý học
có một ví dụ là có con rắn nó bị con muỗi cắn rất là
đau, nó giận lắm nhưng mà không có cách gì để giết con
muỗi. Thành ra trong khi thao thức để trả thù thì con rắn
nằm ra để cho một chiếc xe đi ngang nghiến chết con muỗi
cho biết tay. Nhưng mà khi nghiến chết con muỗi thì con rắn
đó cũng chết luôn.
Ta
đừng có nghĩ con rắn nó dại như vậy mà con người cũng
thế. Con người nhiều khi cũng dại như vậy đó. Đôi khi
mình muốn phạt người kia, muốn làm cho đau khổ người yêu
mình, mình tàn hại cái thân thể mình để cho người yêu
mình khổ chơi. Cái chuyện này xảy ra rất nhiều. Mình làm
tình làm tội, mình tự tử để cho người kia đau khổ. Cái
đó cũng về cái sức mạnh của thức thứ bảy.
Nói
theo tâm lý học bây giờ thức này nó hành động theo cái
nguyên tắc của dục ái. Nó thỏa mãn những cái dục ái của
mình, nhưng mà sự thỏa mãn này có thể đưa tới sự tiêu
diệt mình. Đường lối vận hành của thức này là đi theo
con đường tìm kiếm những cái dục lạc. Nhưng vì thức này
bị bao che thành ra nó không có đem lại hạnh phúc nhiều.
Nó nghĩ là nó đi tìm hạnh phúc, kỳ thực những cái kết
quả đưa tới là những cái khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc.
Buồn nhiều hơn vui.
KỆ
THỨ 22
Sơ
địa khi đạt tới
Dứt
phiền não sở tri
Bát
địa hết câu sinh
Alaya
phóng khí.
Trên
con đường thực tập của một vị Bồ-tát, người ta đi
ngang qua mười giai đoạn gọi là thập địa, và địa vị
thứ nhất gọi là sơ địa. Sơ địa gọi là hoan hỷ địa
(the realm of joy). Tức là khi mình mới tu học mình đi vào trong
địa hoan hỷ. Hoan hỷ là tại vì mình đã có thể chấm dứt
được những phiền não, những cái nhiều khê, những cái
ồn ào, những cái bận rộn ở trong cuộc đời. Mình đi vào
trong con đường tu hành thì mình bỏ được rất nhiều những
cái ràng buộc, nhiêu khê thành ra mình có rất nhiều niềm
vui. Cái địa thứ nhất của các vị Bồ-tát là hoan hỷ địa.
Nhưng mà người ta không ở trong địa đó hoài, người ta
phải đi sang địa thứ hai. Tại vì bị dính vào cái địa
đó và chỉ lo ham chơi thôi thì không có đi xa được, và
không có thỏa mãn được cái sự kỳ vọng của Bụt, các
bị Bồ-tát và những người thân thuộc mình, các loài chúng
sanh, phải đi sang địa thứ hai. Và trong địa đầu thì mình
bắt đầu dứt được những cái chướng ngại gọi là phiền
não chướng và sở trdi chướng. Chướng này tức là abstache.
Affliction obstacle gọi là phiền não chướng. Phiền não tức
là afflicion. Còn sở tri chướng, nó thuộc về phương diện
trí tuệ nhiều hơn là tình cảm. Ví dụ như là tham, sân thì
nó thuộc về phiền não chướng. Những cái giận, những cái
buồn, những cái thất vọng, những cái lo lắng, những cái
đau khổ như vậy, nó là những cái chướng ngại gọi là
phiền não chướng. Còn cái sự u mê của mình, cái sự không
thấy được sự thực của mình gọi là sở tri chướng. Nói
một cách khác hơn sở tri tức là cái thấy của mình, cái
biết của mình mà trong đạo Bụt gọi là chướng ngại, tại
vì cái thấy đó là cái thấy sai như là cái tuệ của anh
chàng thức thứ bảy. Những cái quan điểm của mình, những
cái nhận thức của mình, những cái thấy của mình, những
cái mình học được gọi là sở tri (les connaissancas, knowledges).
Ở
trong đạo Phật thì chúng ta gọi đó là sở tri, tức là những
cái mình biết. Và chính những cái mình biết nó không cho
mình tiến bộ: “Cái đó tôi biết rồi, tôi không cần học
nữa”. Ví dụ như mình bước lên nấc thang thứ tư, mình
nhìn xuống mình thấy mình đã cao quá rồi, và mình nghĩ rằng
mình không thể nào bỏ được nấc thang thứ tư. Trong đạo
Bụt, mình biết rõ rằng nếu mình không bỏ được nấc thang
thứ tư thì mình không bao giờ leo lên nấc thang thứ năm.
Và vì vậy cho nên cái sở tri của mình, dầu có quý đến
mấy mình cũng phải bỏ như thường. Đây là một đặc điểm
của đạo Bụt. Dầu cái nhận thức của mình, dầu cái trí
tuệ của mình đạt được, có giá trị, nhưng theo tinh thần
đạo Bụt, mình cũng phải bỏ. Tại vì nếu không bỏ thì
mình chận đứng con đường tiến bộ của mình và không có
đường tiến thủ nữa.
Cho
nên cái biết của mình, cái hiểu của mình, cái tri thức
của mình dầu ở trong đó nó có giá trị, nó cũng là chướng
ngại, gọi là sở tri chướng. Knowledge as obstacle. Thành ra
người nào bị kẹt vào những kiến thức của mình và cho
rằng kiến thức của mình là chân lý tuyệt đối là những
người đó bị sở tri chướng. Người đó có thể có bằng
cấp, có những hiểu biết hơn người nhưng mà người đó
bị sở tri chướng. Còn những người nào mà có những tri
thức mà mình tiếp thu được và biết rằng mình có khả
năng bỏ những cái đó để đi xa hơn nữa. Người đó không
có sở tri chướng. Sở tri là những cái chướng ngại. Ví
dụ như là nước mà nó đóng thành những tảng băng và nó
làm cho dòng sông không có chảy được nữa. Và cũng thứ
nước đó mà không đóng thành băng thì nó vẫn để cho dòng
sông trôi chảy như thường. Cái kiến thức trong con người
của mình, mình cần tới nó nhưng mà mình phải sử dụng
nó một cách rất là thông minh. Mình nói rằng cái này có
thể là chưa hoàn mỹ. Tội phải nhìn sâu nhìn kỹ và đây
có thể thấy được cái sự thật sâu hơn và đúng hơn nữa.
Khoa
học là vậy. Khoa học có thể tìm ra những nguyên lý những
khám phá nhưng nếu mà mình bị kẹt vào những nguyên lý,
những khám phá đó thì không bao giờ mình có thể đi xa hơn.
Thành thử những nhà khoa học nào mà có sở tri chướng thì
những nhà khoa học đó không thể đi xa được. Những nhà
khoa học nào phá được sở tri chướng thì có thể tìm ra
được những điều mới. Tại vì chính mình không có thỏa
mãn những điều hôm nay mình có.
Cho
nên trong mỗi người chúng ta có những cái thấy, những cái
hiểu, những kiến thức và nếu cái thấy, cái hiểu, cái
kiến thức đó mà mình cho là số một rồi tức là con đường
tiến thủ của mình bị chặn lại, đó gọi là sở tri chướng.
Đây
là một quan niệm rất đặc biệt ở trong đạo Bụt. Mình
phải buông bỏ những hiểu biết của mình, những kiến thức
của mình.
“Sơ
địa khi đạt tới, dứt phiền não sở tri. Bát địa hết
câu sinh. Alaya phóng khí”.
Bắt
đầu bỏ được những phiền não và sở tri. Ví dụ như mình
muốn thực hiện một công tác gì đó, mà nếu có sự đau
buồn nhiều quá thì mình bị tê liệt, cái đó gọi là phiền
não chướng. Chướng ngại là phiền não. Mình buồn quá, khổ
quá hay là ham muốn quá đó là những chướng ngại. Và chướng
ngại thứ hai là sở tri chướng.
“Bát
địa hết câu sinh”. Tức là khi đạt tới địa thứ tám.
Ở địa thứ nhất thì bắt đầu dứt phiền não chướng
và sở tri chướng. Nhưng tới bát địa thì mới hoàn toàn
hết cái gọi là câu sinh. Câu sinh là cái gì? Nó có một sự
níu chặt vào ngã gọi là ngã chấp. Mà chúng ta thấy qua bốn
phiền não là ngã si, ngã kiến và ngã ái. Đó là ngã chấp.
Ngã chấp có hai loại: ngã chấp do huân tập nên trong cuộc
đời của mình và một thứ ngã chấp khi sinh ra nó đã có
sẵn rồi, cái hạt giống của ngã chấp đó đã có sẵn rồi,
chứ không phải do giáo dục và huân tập mà có. Cái thứ
hai đó là là câu sinh ngã chấp. Câu sinh tức là cùng có một
lần khi mình sinh ra. Câu tức là Together như là câu lạc bộ,
là cái chỗ mình tới vui chung với nhau. Inherance tức là cái
ngã chấp đó nó có tính cách câu sinh. Khi mẹ sinh ra đã có
ngã chấp đó rồi. Đến địa thứ tám, câu sinh ngã chấp
mới chuyển hóa hoàn toàn. Địa thứ tám là Pháp vân địa.
Alaya
phóng khí tức là lúc bây giờ alaya được buông ra, thảnh
thơi, hoàn toàn không có bị níu kéo nữa (release), tức là
Bồ-tát. Mà Bồ-tát từ địa thứ nhất là sơ địa cho đến
địa thứ tám vẫn còn níu, và đến pháp vân địa, là địa
thứ tám ròi thì thức thứ tám hoàn toàn được buông thả.
Thức thứ bảy hết che lấp và trở thành một cái thức gọi
là bình đẳng tánh, bình đẳng trí. Thành ra cái câu sinh ngã
chấp nó rất nặng, nó lâu đời khi mới sinh ra đã có thức
thứ bảy rồi và thức thứ bảy đã, đang tiếp tục nắm.
KỆ
THỨ 23
Nương
vào ý làm căn
Pháp
trần làm đối tượng
Ý
thức được phát sinh
Phạm
vi nhận thức rộng.
Bài
thứ hai mươi ba mở đầu cho lĩnh vực của thức thứ sáu.
Chúng ta biết rằng năm thức của cảm giác - năm thức đầu
- tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và
thân thức, thức nào cũng có căn cứ để phát sinh ra. Căn
cứ của nhãn thức là con mắt. Căn cứ của nhĩ thức là
cái tai. Căn cứ của tỷ thức là cái mũi. Căn cứ của thiệt
thức là cái lưỡi. Và căn cứ của thân thức là thân thể.
Cho nên, thức thứ sáu cũng có một cái căn cứ gọi là ý.
Ý tức là thức thứ bảy. Vậy thì ý thức là căn cứ của
tư duy, của tưởng tượng, của nhận thức, của cảm giác.
“Nương vào ý làm căn, pháp trần làm đối tượng”. Pháp
trần tức là một trong sáu thức trần. Trần tức là đối
tượng của nhận thức của sáu thức đầu. Một bên là căn,
một bên là trần. Sáu căn là nhãn, thĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Và pháp
trần tức là trần thứ sáu. Vậy thì thức thứ sáu này tiếng
Phạn gọi là mano vijnana - ý thức. Nó nương vào mạt na làm
căn cứ, và nó lấy pháp trần làm đối tượng. Và khi căn
xúc tiếp với trần thì nó làm phá sinh ra thức. “Ý thức
được phát sinh”, mới đọc thì giống như là Bụt chủ
trương Duy Vật Chủ Nghĩa. Tức là thức sinh ra là do căn và
trần. Căn là vật chất mà trần cũng vật chất, và khi mà
căn và trần sát nhập vào nhau thì nó sinh ra thức, giống
như tâm do vật sinh ra. Có một nhà học giả Bỉ khi viết
tới chỗ này, phẩm bình câu nói này của Bụt, khi mà căn
nó chạm vào trần sinh ra thức, thì ông ta nói rằng nói như
vậy thì chưa hay lắm, tại vì nó giống như một nhà duy vật
chủ nghĩa. Nhưng vì ông không có nhìn kỹ và biết rằng căn
và trần chỉ là tăng thượng duyên, chứ chưa phải là nhân
duyên. Cho nên ông ta mới nói như vậy.
Nhân
duyên là hạt giống của ý thức, nó nằm ở trong tàng thức.
Những câu đó lập đi lặp lại nhiều lần trong kinh điển:
khi mà tai chạm với tiếng sinh ra nhĩ thức. Cái đó không
phải là cái nhìn theo duy vật. Nó không phải như vậy. Tại
vì những điều kiện kia không phải là những điều kiện
đầy đủ để phát sinh ra thức, chỉ là một số điều kiện
thôi.
Cố
nhiên điều kiện phải đầy đủ thì mới có thể phát sinh
ra hiện tượng được. Có những điều kiện tất yếu - là
căn bản - và cũng phải có điều kiện phụ thuộc nữa. Khi
mà cả hai điều kiện đó đầy đủ thì lúc đó mình mới
thấy được sự phát sinh của một hiện tượng. Vậy thì
“nương vào ý làm căn, pháp trần làm đối tượng, ý thức
được phát sinh, phạm vi nhận thức rộng”, tức là phạm
vi nhận thức của ý thức rất là rộng rãi. Rộng rãi như
thế nào? cht đọc bài hai mươi bốn thì sẽ thấy.
KỆ
THỨ 24
Thông
ba tánh ba lượng
Tiếp
xúc cả ba cảnh
Đủ
thiện, ác, bất định
Biệt
cảnh và biến hành.
Đó
là câu trả lời, thuộc về phạm vi nhận thức của thức
thứ sáu. Ba tánh tức là thiện, ác và vô ký. Thức thứ sáu
này có thể là thiện, nhất là khi nó thực tập chánh niệm.
Có thể là ác, nhất là khi nó chìm đắm trong thất niệm.
Và nó có thể là vô ký. Vô ký tức là trung tính. Đó là
ba tánh.
Bây
giờ tới ba lượng. Lượng tức là hình thái của nhận thức
(pramana, valuable soucre of knowledge). Lượng thứ nhất gọi là
hiện lượng. Hiện lượng tức là nhận thức trực tiếp
không cần qua trung gian của sự suy luận (direct preception).
Ví dụ như là mình thấy cái bình trà, mình biết rằng đây
là cái bình trà không cần suy nghĩ gì hết. Một suy nghĩ trực
tiếp không cần qua trung gian suy luận thì gọi là hiện lượng.
Lượng thứ hai là tỷ lượng. Tỷ lượng tức là cái nhận
thức cần phải qua trung gian của suy luận. Tiếng Anh là inferance.
Hiện lượng, mình dùng chữ pratyaksa. Tỷ lượng, mình dùng
chữ anumana. Nhưng mà trong trường hợp hiện lượng mà sai,
mà không chính xác, hay tỷ lượng mà không có chính xác thì
mình gọi là phi lượng. Còn phi lượng gọi là apramana (the
wrong perception).
Ví
dụ như mình thấy ngoài vườn một con ma. Chính mắt mình
thấy rõ ràng một con ma mặt áo trắng, áo dài, mà nói không
ai tin. Mình thấy rõ ràng không phải là nghe hay suy luận gì
hết. Mình thấy rõ ràng một con ma mặt áo trắng phất phơ,
nhưng mà có thể đó là một tàu lá chuối lấp loáng dưới
bóng trăng. Thì đó là một nhận thức trực tiếp, một cái
direct perception, chứ không phải là suy luận. Nhưng trong trường
hợp này không phải là một chân hiện lượng. Chân hiện
lượng tức là hiện lượng đúng. Còn khi mà hiện lượng
sai thì gọi là tợ hiện lượng. Tợ tức là nó giống như
đúng, nhưng mà kỳ thực nó không có đúng. Cũng như đang
đi ngoài đường thấy sợi dây mà cho là con rắn đó là tợ
hiện lượng. Đó là nhận thức trực tiếp, nó làm cho mình
sợ; nhưng sai lầm thì gọi đó là tợ hiện lượng. Thành
ra nhiều khi mình quả quyết: “Chính mắt tôi trong thấy mà.
Tôi không có nghe ai nói hết. Tôi không có suy nghĩ gì hết.
Đó là cái chuyện rõ ràng”. Ấy vậy mà nó vẫn là tợ
hiện lượng. Đôi khi còn nói: “Có anh đó đứng với tôi.
Anh đó thấy nữa chứ không phải mình tôi thấy’, mà nó
vẫn tợ hiện tượng như thường. Chứ không phải nhiều
người thấy như vậy mà cái đó là sự thật đâu.
Ví
dụ như bầu cử tổng thống. Có nghĩa là mình đi tìm số
đông, thấy ông này hơn ông kia, giỏi hơn ông kia, đáng tin
hơn ông kia. Mà chưa chắc cái người mình bầu ra là người
đáng tin cậy và giỏi hơn. Có phải như vậy không? đợi
chừng năm năm sau sẽ biết. Tỷ lượng cần tới cái suy tính.
Mà nếu mình suy tính giỏi, suy tính có phương pháp cũng có
thể đạt tới sự thật.
Ví
dụ như nhà khảo cổ. Nhà khảo cổ đào được một số
những vật liệu dưới lòng đất. Và căn cứ trên những
số vật liệu mà ông ta tìm ra, ông ta có thể dựng được
lại khung cảnh sinh hoạt của những bộ lạc ngày xưa. Có
thể là đúng, nhưng mà có thể trong đó có cái sai.
Nhà
học giả Lê Văn Siêu có dùng một ví dụ là buồn cười
để cho mình thấy chuyện này. Ông nói là ví dụ mình tới
một cái vùng chưa bao giờ có văn mình loài người nào hết
thì tự nhiên mình đào dưới đất thấy có máy đánh chữ
rét rồi thì mình mới nói rằng ngày xưa cách đây năm, sáu
ngàn năm dân chỗ này đã biết dùng máy đánh chữ. Như vậy
tức là có bằng cớ đàng hoàng, nhưng mà có sai. Cái sự
đoán định đó sai, gọi là tợ tỷlượng. Ví dụ như mình
đứng ở đây mình nhìn đàng xa thấy có một đám khói bốc
lên sau một bụi cây hay một bức tường. Mình không thấy
cái gì hết ngoài đám khói và bức tường, rồi mình quả
quyết đàng sau bức tường đó có một chiếc xe hơi đang
rồ máy. Đôi khi mình nghe tiếng rồ máy nữa mà mình thấy
khói lên, thì mình nghĩ rằng, mình quyết đoán rằng: “Tôi
cá với anh sau bức tường đó có chiếc xe hơi đang rồ máy”.
Nhưng có thể không có chiếc xe hơi. Tiếng máy rồ có thể
từ tủ lạnh đến. Và khói kia có thể là sương. Sương khói
ở đường kia thôi. Và trong trường hợp đó nó không phải
là chân tỷ lượng, nó là tợ tỷ lượng.
Thành
ra mình nghi người ta là tợ tỷ lượng nhiều lắm. Những
cái nghi của mình, mình đặt ra. Thằng nhỏ vừa mới nhận
được quà giáng sinh. Một cái đồng hồ đeo tay. Nó rất
mê. Tại cái đồng hồ này nó biết nói. Tới sáu giờ nó
nói: “Il est six heures”. Thành ra nó thích lắm, nó mê lắm.
Nhưng không biết tại sao, nó vừa vô, đi ra thì đồng hồ
mất. Không biết đứa nào đó đã… thổi cái đồng hồ
của mình. Thì lúc đó nó có nhiều đau khổ. Và tự nhiên,
nó thấy thằng bạn đi ngang qua, nó nhìn, nó thấy thằng bạn
này khả nghi quá: “Sao cái thằng này hôm nay cói vẻ ăn cắp
quá! Nó không lấy thì ai lấy?”. Nhưng mà không dám nói.
Thì lát nữa thấy con bé khác nó đi ngang qua. Con bé này cũng
thấy khả nghi quá. Trong đầu mình, nó vẽ biết bao nhiêu
là: “Đúng rồi! Hình như là ngày hôm qua, khi mà mình nhận
quà giáng sinh có nó mà. Cặp mắt nó có vẻ thèm thuồng mà”.
Mình căn cứ trên những dữ kiện đó để mà đi tưói một
sự đoán định. Thì tỷ lượng là căn cứ và một vài cái
dữ kiện nào đó để đi tới một sự đoán định, một
kết luận đó. Và nếu kết luận đó đúng là chân tỷ lượng.
Nếu kết luận đó sai là tợ tỷ lượng.
Chúng
ta nên biết rằng cái khả năng, cái giá trị của nhận thức
ta, nó rất là hạn hẹp. Và chúng ta thường đem cái nghi,
cái giận, cái buồn, cái tham của chúng ta ra để mà nhìn
đời.
Cho
nên chúng ta hiểu lầm tùm lum. Không có đem mắt thương và
mắt hiểu nhìn đời mà đem mắt nghi, mắt giận mà nhìn đời.
Và chúng ta khổ vì cái tợ tỷ lượng của của ta dài dài.
Thành ra mình phải giúp mình khi mà mình có một nhận thức
và mình khổ vì cái nhận thức đó thì mình hãy nói rằng:
“cái nhận thức của mình đây là chân tỷ lượng hay tợ
tỷ lượng?”. Nó sẽ giúp mình. Mình nói với người kia:
“ Anh nè, em có cái nhận thức này nhưng mà không biết cái
nhận thức đó là chân tỷ lượng hay tợ tỷ lượng, anh
giúp em đi”. Nói như vậy thì đỡ vô cùng. Chứ cứ ngồi
đó mà giận, mà nghi và cứ đổ riết cho người kia thì khổ
vô cùng vì người kia là người bạn đường của mình, người
thân thuộc của mình, người mà mình phải sống nhiều năm
nhiều tháng chung. Thì mình phải nhờ người đó giúp đỡ,
chứ mình cứ đóng cho mình cái tháp ngà của nhận thức riêng
mà nghi, mà giận, mà buồn, mà tức cái người đó thì cả
hai bên đều lãnh đủ.
Đã
là người bạn đồng hành với nhau trong đạo hay là trong
đời, thì mình phải biết giúp đỡ nhau ở những chỗ đó.
“Hiện bây giờ tôi đang khổ đây, tôi đang khổ vì nhận
thức của tôi, và tôi không biết nhận thức của tôi là
chân hay là tợ”. Vấn đề đầu tiên mà tôi đặt ra là
tôi xét lại coi thử nhận thức của tôi là chân hiện lượng
hay là tợ hiện lượng. Và sau khi tôi xét rồi mà một mình
tôi chưa tìm ra thì tôi sẽ nhờ người kia. Chúng ta phải
nhờ nhau. Chúng ta đang đau khổ. Và cái đau khổ của chúng
ta cũng như cái hạnh phúc của chúng ta có dính líu tới cái
đau khổ hạnh phúc của người kia. Và tốt hơn hết là tới
với người kia hỏi: “Bây giờ, tôi đang đau khổ, tôi đang
hiểu rõ như vậy, tôi đang thấy như vậy, có cách gì cho
tôi thấy rằng cái mà tôi nghe đó, cái tôi thấy đó nó là
sự thật hay là tại vì tôi nhận thức nó ra như vậy”.
Chúng
ta biết rằng có nhiều nguyên do, có nhiều điều kiện. Nó
có những điều kiện chính và những điều kiện phụ. Trong
một kinh ở trong Tăng Nhất A Hàm (Angutara Nikaya), Tăng Chi Bộ.
Bụt có nói như thế này, nhận thức phần lớn là sự hồi
tưởng để so sánh. Mình nhận thức cái gì đó, tức là mình
lấy cái hạt giống cũ ra để so sánh. Nhiều khi mình không
có nhận thức được cái sự vật chính thức mà mình nhận
thức cái hạt giống ở trong lòng mình. Và vì vậy cho nên,
cái nhận thức của mình, có thể không dính dáng tới cái
đối tượng thật sự của nhận thức.
Ví
dụ một người Cơ đốc giáo có thể có một ý niệm về
một người Hồi giáo, hay là một người Nam có thể có một
ý niệm về một người Bắc, thì bản thân của người Bắc
mình chưa đạt tới được, nhưng mà mình có một ý niệm
về người Bắc mà mình đạt được, mình có được do đọc
sách hay do nghe người ta nói chuyện mà có một ý niệm về
người Bắc như thế nào, người Nam như thế nào, người
Trung như thế nào. Chúng ta có từng cái hộp sẵn, chúng ta
bỏ vào trong đó: Người Bắc hì họ hay vậy đó, người
Trung thì họ hay vậy đó, người Nam họ hay vậy đó. Tất
cả chúng ta đều là nạn nhân của cũng cái như vậy. Người
Cơ Đốc họ nói người Do Thái là vậy đó, người đạo
Hồi là vậy đó. Chúng ta có những cái hộc có sẵn ở trong
alaya, khi nào chúng ta nắm được cái gì thì chúng ta bỏ vào
hộc đó. Nhưng mà chúng ta bỏ lộn tùm lum. Cam thảo mà chúng
ta bỏ lộn vào chỗ của quế chi. Là tại chúng ta bị lầm
bởi cái danh từ. Nó cái này là quế chi nhưng kỳ thực nó
là cam thảo. Thành ra khi mà gặp một người Bắc, một người
nói anh này từ Bắc tới, tự nhiên mình có một ý niệm rồi.
Và ý niệm đó ngăn cản không cho mình biết được anh kia.
Đó là một trở ngại, một chướng ngại. Ý niệm của mình
về Do Thái giáo ngăn cản mình không cho mình biết được
cái người dó, tự thân người đó. Ý niệm về người Hồi
giáo, nó ngăn cản vì vậy nên cái tri giác mà gọi là tưởng,
cái tưởng của mình, Bụt nói phần lớn chẳng qua là hồi
tưởng. Dễ sợ như vậy. Thành ra, mình không có đạt tới
thực tại. Thực tại có thể rất là mới mẽ, rất là tươi
mát nhưng mà mình không sờ mó được cái hạt giống của
nó ở trong tàng thức của mình thôi. Ví dụ như là những
người không có thích Giáng Sinh, nghe tới cái lễ Giáng Sinh
là dội liền, tại vì họ đã đau khổ trong không khí Giáng
Sinh. Vì vậy cho nên bất cứ Giáng Sinh nào, Giáng Sinh ở đâu
đều không có đáng tiếp xúc. Như vậy là mình có thành kiến,
thành kiến đó là ý niệm Giáng Sinh mà mình có trong lòng.
Vì vậy cho nên Bụt là Người, có thể nói là Người đầu
tiên đã nói lên cái câu nói đó: Tưởng chỉ là hồi tưởng,
tưởng chỉ là thói quen hồi tưởng. Thành ra cái nhận thức
của mình về thế giới, về con người, với vạn vật mình
ít khi đi thẳng tới được chân hiện lượng hay là chân
tỷ lượng, mà thường là tợ hiện lượng và tợ tỷ lưọng,
tức là suy luận.
Lượng
thứ ba là phi lượng. Thức thứ bảy - Mạt na - lượng của
nó là gì? Tùy duyên chấp ngã lượng vi phi. Mình có học câu
đó không? Lượng của thức thứ bảy (Mạt na) là phi lượng.
Tại vì cái đó không phải là cái ngã mà nó cứ cho là cái
ngã, nên lượng của nó là phi lượng. “Thông ba tánh, ba
lượng, tiếp xúc cả ba cảnh”. Ba cảnh là tánh cảnh, đới
chất cảnh và độc ảnh cảnh.
Chúng
ta biết rằng thức thứ tám (Alaya thức) cảnh của nó là
tánh cảnh. Thức thứ bảy không có đạt tới được tánh
cảnh nhưng mà thường tới đới chất và độc ảnh cảnh.
Và năm thức giác quan, khi hoạt động độc lập, không có
hoạt động chung với thức thứ sáu thì nó cũng đạt tới
tánh cảnh. Cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc
chạm của mình mà nếu không có sự phân biệt, so đo của
thức thứ sáu vào thì, thì nó đạt đến tánh cảnh. Khi có
sự phân biệt, so đo của thức thứ sáu vào thì hết tánh
cảnh, chuyển sang đới chất. Thức thứ bảy thì đới chất,
nhưng mà thức thứ sáu này cũng đạt tới đới chất và
độc ảnh, gọi là tam cảnh. Tam tánh, tam lượng thông tam
cảnh: thông ba tánh ba lượng tiếp xúc ba cảnh. Trong giấc
mơ của chúng ta, trong giấc mơ mình có thể buồn, có giận,
có vui, có sự ưa thích, có hy vọng, có tuyệt vọng thì cái
cảnh tượng mà chúng ta tiếp xúc trong giấc mơ: người, vật,
sông và núi, cảnh tượng đó mình gọi là cảnh tượng độc
ảnh.
Khi
mà chúng ta ngồi thiền, chúng ta hình dung ra, chúng ta quán
tưởng một cái núi: là núi vững vàng, thì hình ảnh cái
núi đó là hình ảnh độc ảnh. Tuy là hình ảnh độc ảnh
mà ta có chánh niệm thì hình ảnh đó đó, nó thực hơn. Chúng
ta tiếp xúc được rõ ràng hơn và sắc bén hơn là khi chúng
ta mở mắt ra để nhìn cái núi mà tâm chúng ta bị thất niệm.
Vì
vậy cho nên độc ảnh không hẳn là nó không thật đâu, nó
cũng thật. Trong những bài thiền tập có hướng dẫn, có
hai bài giúp chúng ta mài dũa lại cái giác quan của chúng ta
để có thể tiếp xúc được với những cái mầu nhiệm trong
cuộc đời. Cái giác quan của chúng ta, cái nhận thức của
chúng
ta cần phải được mài dũa lại cho sắc bén, để khi chúng
ta nhìn bông hoa, chúng ta tiếp xúc được với bông hoa. Nhìn
màu trời xanh, chúng ta tiếp xúc được màu trời xanh. Khi
chúng ta sống trong thất niệm lâu ngày thì giác quan của chúng
ta cũng như nhận thức của chúng ta, nó mòn, nó mỏi, nó lu
mờ, thành thử thế giới đối với chúng ta rất là mờ ảo,
rất là cùng mòn. Và sống như vậy thì không có hạnh phúc.
Khi mà thấy mà trời xanh của thế giới độc ảnh có thể
rất đẹp. Đối khi cảnh tượng trong mộng còn đẹp hơn
cảnh tượng ở ngoài.
Cái
ý niệm về ba cảnh, có lẽ nó đã được sáng tạo và diễn
bày ỏ đại học Nalanda. Đại học Nalanda - tức đại học
Phật giáo được thiết lập vào khoảng thế kỷ thứ năm,
thứ sáu: miền Bắc thành Vương Xá độ chừng tám cây số.
Một đại học rất nổi tiếng, gần một ngàn Thầy tới
học. Vào thế kỷ thứ bảy. Trung Quốc có Thầy Huyền Trang
đi qua học ở đó. Và khi Thầy tới đó thì viện trưởng
viện đại học Nalanda là Thầy Giới HIền (Silabhadra). Sila
là Giới. Bhadra là Hiền, đã 105 tuổi. Và đó là một trong
mười vị đại luận sư Duy Thức, vị viện trưởng trước
tên là Hộ Pháp (Dhama-pala) đã tịch rồi. Và Thầy Huyền
Trang đã học với Thầy Giới Hiền một số Thầy khác. Nhưng
mà nhận thức về Duy Biểu học của Thầy Giới Hiền và
các Sư ở trường đại học đó đã chịu ảnh hưởng rất
sâu đậm của Thầy Dhamapala. Cho nên Duy Thức của Thầy Huyền
Trang rất nặng về tư tưởng của Dhamapala. Chúng ta biết
rằng có mười vị đó. Giới Hiền cũng là một vị và chúng
ta có những vị khác mà hiện bây giờ chúng ta có thể nghiên
cứu được. Ví dụ như Thầy An Huệ (Sthiramati). Tại vì có
một giáo sư đã khám phá ra được một bản tiếng Phạn
của Thầy An Huệ chú giải về ba mươi bài tụng Duy Biểu.
Và giáo sư đó đã công bố bản đó và đã dịch ra tiếng
Pháp, bây giờ chúng ta đã có bản dịch bằng tiếng Anh và
bản dịch bằng tiếng Quan thoại căn cứ trên đó. Vì vậy
cho nên, chúng ta có thể biết được quan điểm của Thầy
An Huệ, có khác với quan điểm của Thầy Dhamapala. Cái nhìn,
cái hiểu về Duy Biểu có khác, chúng ta đã biết rằng Duy
Biểu của Thầy Thế Thân (Vashub-handhu) sau này đã tiếp nhận
những kiến thức và những tuệ giác của Thầy Trần Na.
Thầy
Trần Na là một thuyết gia rất lỗi lạc. Thầy rất giỏi
về Nhận Thức luận và về Luận lý học. Thầy đưa yếu
tố nhận thức luận và yếu tố luận lý học vào trong Duy
Biểu học và tạo thành Duy Biểu mới. Và khi mà Thầy Huyền
Trang đi qua đại học Nalanda thì được học Duy Biểu mới.
Nhận thức luận là một môn triết học đặt vấn đề là:
“Trí thức của chúng ta có thể đạt tới cái thực tại
hay không?” chúng ta biết rằng sau khi Thầy Huyền Trang về
nước, Thầy có xướng xuất ý niệm và ba cảnh, tức là
ba phạm vi nhận thức. Thức thứ tám thì đạt được tới
cảnh nào; thức thứ bảy thì đạt được tới cảnh nào;
thức thứ sáu thì đạt được tới cảnh nào, gọi là cái
lý thuyết về tam cảnh, Thầy Huyền Trang có truyền lại một
bài kệ ngắn mà chúng ta phải biết về ba cảnh: “Tánh cảnh
bất tùy tâm”. Nghĩa là cái thực tại này, cái thực tại
trong chính bản của nó (the reality in itself, the thing in itself).
Ví dụ như cái hoa này. Cái hoa này qua nhận thức của tôi
có thể là nó khác. Nhưng bản thân thực tại của cái hoa,
tôi không chắc tôi đã dính tới được, sờ mó tới được,
đạt tới được, cái đó gọi là tánh cảnh. Còn hình ảnh
cái hoa ở trong đầu tôi, có thể chỉ là, một hình ảnh
đới chất mà thôi, tùy theo cái giá trị nhận thức của
tôi và những hạt giống ở trong tôi. Như là ở bên Đức
có một hôm cô Chân Không nói chuyện với một anh chàng Việt
Nam về nhận thức thì cô mới chỉ cái nón len ở trên bàn,
và cô nói: “bây giờ, anh nhìn cái nón len đi thì anh có cái
nhận thức như thế nào?” người thanh niên nói: “Cái này
là cái nón len chứ có gì đâu!” thì cô Chân Không nói: “Khi
tôi nhìn cái nón len tôi thấy cô Chân Vị”. Thì cái anh kia
đâu thể thấy được cái điều đó. Cái nón len của anh
ta có thể có màu sắc của cái quá khứ của anh ta. Anh ta
có thể có cái nội kết vui hay buồn, ưa hay ghét về cái
nón len. Anh đem cái nhận thức của anh, anh trùm lên cái nón
len. Và nón len của anh là nón len của đới chất cảnh. Còn
nón len của cô Chân Không cũng là nón len của đới chất
cảnh, tại nón len có dính líu tới cô Chân Vị. Còn nón len,
tự thân nó là tánh cảnh. Thì trong số hai người đó, người
nào đạt được tánh cảnh của cái nón len, chuyện đó là
chuyện chúng ta phải cẩn thận.
Vậy
thì “tánh cảnh bất tùy tâm”, tức là cái thức tại trong
cái tự thân của nó không có bị dính líu không đi theo cái
tâm của mình. Không phải là tâm mình buồn mà cái cảnh đó
nó buồn. Không phải tâm mình vui, mà cái cảnh nó vui. Không
phải tâm mình thích mà cái cảnh nó hấp dẫn. “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
cái đó là cảnh tùy tâm. Còn cái này là tánh cảnh bất tùy
tâm. Khi người ta hỏi mình: “Tánh cảnh là gì?” - Tánh
cảnh là thực tại mà nó không có chịu méo mó theo nhận
thức của mình. Không phải vì mình ưa thích mà nó đẹp hơn;
không phải vì mình ghét bỏ mà nó xấu hơn. Như trong kinh
có nói về năm thứ dục lạc: tài, sắc, danh, thực,thùy với
sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ví dụ như
là tiếng, hương, hay là vị. Ví dụ như hương nước hoa chẳng
hạn. Nước hoa dầu là nước hoa Samsara hay Poison, nó chỉ
là nước hoa thôi. Còn cái chuyện mình dính vào nước hoa,
thích nước hoa và ghét nước hoa, hay là bị nội kết với
nước hoa… cái chuyện đó hoàn toàn là do mình, nó không
chịu trách nhiệm.
Ở
nước Pháp có thứ nước hoa gọi là Je revure, I will be back.
Tên này rất là hay. Tức là khi mình đã… Je revure có nghĩa
là em sẽ trở lại hoặc anh sẽ trở lại, khi mà người ta
bôi nước hoa đó, thì mình nhận thức được thứ nước
hoa dó và mình đồng nhất nước hoa đó với cái người đó,
cái đó là chuyện của mình. Nước hoa không có chịu trách
nhiệm. Rồi khi mà người kia, họ về nhà thì cái mùi nước
hoa đó trở thành một thứ nội kết; nội kết êm ái! Ở
trong Kiều có bốn chữ là “Hương gây mùi nhớ”thì mình
đổ tội cho mùi hương là không đúng. Cái trách nhiệm là
hạt giống ở trong mình, cái nội kết ở trong mình, nói đúng
là cái tâm của mình. Và vì vậy nên Bụt có nói ở trong
nhiều kinh là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nó không có
tội tình gì cả. Bụt có nói rõ ràng cái đó không phải
là dục. Sắc, thanh,hương, vị, xúc và pháp không phải là
dục, không phải là khổ. Chính cái sự vướng mắc của mình
vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mới chịu trách nhiệm.thành
ra cái tâm của mình, nó đoán định, nó quyết định sự
vướng mắc của mình chứ không phải là tánh cảnh. Tánh
cảnh bất tùy tâm là như vậy.
“Độc
ảnh duy tùy kiến”. Còn độc ảnh thì hoàn toàn tùy thuộc
ở nơi kiến phần của thức. Kiến phần là phần chủ thể.
Tại vì thức có hai phần: phần đầu là kiến, phần thứ
hai là tướng, bây giờ mình quên cái phần thứ ba đi là tự
thể phần. Và nó không cần phải có gốc ở tánh cảnh. Mình
có ở trong tâm thức của mình rồi. Cho nên khi mà Hàn Mạc
Tử nói rằng: “Làm sao giết được người trong mộng?”
thì người trong mộng đó là một hình ảnh độc ảnh. Giết
người trong mộng thì khỏi phải đi tù. Còn giết người
ở tánh cảnh thì nguy lắm. Mà những cái đau khổ của mình,
nhưng cái trầm luân của mình không phải do cái người ở
tánh cảnh mà do cái người ở độc ảnh rất nhiều.
Đối
chất thông Tình, Bản”. Đới chất cảnh có liên hệ tới
Tình và Bản. Cái này mình học từ trước rồi. Tình là người
tình, đó là thức thứ bảy. Bản là thức thứ tám. Thức
thứ bảy nó phát hiện rừ thức thứ tám và nó ôm lấy thức
thứ tám. Đới chất là một sáng tạo phẩm của thức thứ
bảy khi tiếp xúc với thức thứ tám mà đối tượng đó
không phải là tánh cảnh, đối tượng đó là đới chất.
“Đới chất thông Tình, Bản” tức là cái cảnh đới chất,
cái cảnh không phải là tánh cảnh, không phải là độc ảnh
cảnh, nó là một cái cảnh có đèo theo một chút bản chất
của tánh cảnh, cái cảnh đó có liên hệ giữa Tình và Bản,
tức là giữa thức thứ bảy và thức thứ tám.
“Tánh,
chủng, đẳng, tùy ưng”. Đây là một câu để bổ túc cái
tánh cảnh và hạt giống, vân vân. Nó tùy theo từng trường
hợp kia mà đi đôi với nhau. Thành ra tính chất thiện, ác
hay vô ký, và những hạt giống mà từ đó chúng được phát
sinh, những cái đó… (đẳng là vân vân). Nó có liên hệ
tới chuyện phát hiện của những cảnh đó. Thành ra đây
là một bài kệ mà Thầy Huyền Trang truyền lại cho Thầy
Khuy Cơ. Khuy Cơ tức là một cao đệ của Thầy Huyền Trang,
rất giỏi về Duy Biểu. Và Thầy Khuy Cơ là Tổ tông phải
Duy Biểu tại Trung Hoa, bài này giúp chúng ta nhớ về ba tánh.
“Thông
ba tánh, ba lượng, tiếp xúc cả ba cảnh” đây trả lời
cho câu “phạm vi nhận thức rộng”. “Đủ thiện, ác, bất
định, biệt cảnh và biến hành”. Thiện, ác ở đây tức
là nói về tâm sở. (Mental Formations, Mental…), nó đi đôi
với thức thứ sáu, gồm có biến hành (5), biệt cảnh (5),
thiện (11), ác và bất định. Tức là có đủ loại tâm sở:
năm mươi mốt thứ. Trong khi đó thức thứ tám chỉ có tương
ưng với năm biến hành. Còn thức thứ sáu, tương ưng với
tất cả năm mươi mốt tâm sở, trong đó có những tâm sở
bất định. Tâm sở bất định là tâm sở có thể thiện
hay ác.
KỆ
THỨ 25
Là
gốc của thân, khẩu.
Có
thẩm mà không hằng.
Tạo
tác nghiệp dẫn mãn.
Đóng
vai kẻ gieo trồng.
“Là
gốc của thân, khẩu”. Tức là những động tác của thân
thể mình, nó có gốc rễ từ ý thức. Ý thức nó sai sử
thân làm. Và những lời nói của mình nó cũng phát sinh từ
ý thức. Đây là chúng ta đang nói về ba nghiệp, ba loại hành
động. Nghiệp là hành động. Hành động của thân thể, hành
động của lời nói và hành động của suy tư, hành động
của thân và miệng, nó có gốc rễ từ ý thức, cho nên nói
là gốc của thân khẩu.
“Có
thẩm mà không hằng”. Thẩm tức là suy tính, đo lường,
nhận thức. Mà không hằng, nghĩa là nó không có hoạt động
liên tục hay là có khi nó được ngừng nghỉ.
“Tạo
tác nghiệp dẫn mãn”. Tức là chính nó đóng vai trò hành
động. Hoạt động có hai loại: một hoạt động hấp dẫn,
nó kéo mình đi tới một phương hướng nào đó, gọi là dẫn
nhiệt. “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường” là trong trường
hợp mình chịu đi theo con ma. Còn nếu mà “Bụt đưa lối
Tăng dẫn đường” thì rất là hay, đi đường khác. Cái
đó gọi là dẫn nghiệp. Dẫn tức là đưa đường. Mãn nghiệp
tức là làm cho dính cái hành động đó. Tức là, hướng đi
là một chuyện mà còn hành động ở trong cái hướng đi đó
để cho nghiệp được chín mùi: nói chung về hay phía thiện
và bất thiện. Và những hành động (nghiệp) mà nó làm chín
đi cái nhân quả dị thục thì gọi là mãn nghiệp. Vì vậy
thức thứ sáu quan trọng lắm. Nó tạo tác ra hai loại nghiệp
là hướng đi của mình, và hành động đưa tới quả dị
thục của mình.
“Đóng
vai kẻ gieo trồng”. Nó là người làm vườn. Chúng ta đã
từng nói rằng thức thứ tám (alaya), nó là đất, nó là vườn,
nó giữ gìn hạt giống, nó làm mọc lên hoa, lá, trái. Và
bây giời chúng ta nói thức thứ sáu là người làm vườn,
tức là người gieo hạt giống, người tưới tẩm, người
chăm sóc. Cho nên vai trò của thức thứ sáu trong việc đưa
mình, dìm mình xuống địa ngục hay là đưa mình tới giải
thoát, đó là vai trò chính. Nó đóng vai trò khởi xướng.
Nếu mà gieo bắp thì sẽ được bắp. Gieo đậu thì sẽ được
đậu gieo gió thì gặp bão.