GIẢNG LUẬN DUY BIỂU HỌC
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 1996
KỆ
THỨ 11
Tuy
vô thường vô ngã
Tàng
thức vẫn gồm thu
Mọi
pháp trong thế gian
Hữu
lậu và vô lậu
Bản
thân thức thứ tám là Vô thường và vô ngã, và nội dung
nhận thức của nó cũng vô thường vô ngã, những hạt giống
nó cất giữ cũng vô thường và vô ngã, những cái tâm sở
nó tương ưng cũng vô thường vô ngã. Những tàng thức nó
gồm thâu trong nó tất cả vạn pháp thế gian, trong đó có
những hiện tượng hữu lậu và vô lậu. Những pháp hữu
lậu là những pháp còn nằm trong thế giới sinh diệt sầu
đau. Còn những pháp vô lậu là những pháp trong thế giới
của bất sanh, bất diệt, của Niết-bàn, của bản môn.
Hữu
lậu nghĩa là còn có thể rơi rớt trở lại, còn có thể
rỉ ra, rịn ra, lọt xuống, còn vô lậu là không có lọt nữa.
Lậu đây có nghĩa là rịn ra như cái lu hay cái bình chứa
mà bị nứt, nước trong đó rịn ra nên gọi là lậu “Đêm
khuya khắc lậu canh tàn”. Vô lậu là anasvara. Các pháp có
thể chia làm hai loại: một gọi là hữu lậu và hai là vô
lậu. Ví dụ mình có một niềm vui là cho mình khỏe mình tươi
cười, niềm vui đó gọi là hữu lậu hay vô lậu. Khi mà chúng
ta có sự hiểu biết nào đó, tìm ra được cái sự thật
về cái điều đó và chúng ta không còn bị rơi vào sự tức
giận hờn trách móc nữa thì cái hiểu biết đó gọi là vô
lậu. Một phen đã hiểu rồi, đạt tới cái thấy rồi thì
mình không còn rơi xuống nữa. Nhưng cái hữu lậu và vô lậu
không hẳn là trái, chống nhau. Khi mình nhìn thấy hết bản
chất nó thì nó là vô lậu nhưng nếu mình không thấy thì
mình thấy không có sanh có diệt, có bắt đầu có chấm dứt,
không có không không. Hiểu rồi, đạt tới cái thấy rồi
thì mình không còn rơi xuống nữa. Nhưng cái hữu lậu và
vô lậu không hẳn là trái, chống nhau. Khi mình nhìn thấy
hết bản chất nó thì nó là vô lậu nhưng nếu mình không
thấy thì mình thấy không có sanh có diệt, có bắt đầu có
chấm dứt, không có không không. Đứng về phương diện tích
môn là chúng ta sống trong thế giới hữu lậu nhưng mà chúng
ta đứng về phương diện bản môn thì những cái đó không
còn nữa. Những cái mà chúng ta vừa thấy có sanh có diệt,
có thường có đoạn, có đi có tới, có một có nhiều, nó
không còn sanh diệt, thường đoạn, đi tới nữa thành ra tất
cả đều trở thành vô lậu hết. Cho nên hữu lậu hay vô
lậu đều do cái thấy của mình mà ra cả. Ví dụ chúng ta
giúp một em bé đói hay cứu một con sâu, con kiến cho chúng
thực phẩm thì hành động đó có thể là hữu lậu. Tức
là nó có đem tới niềm vui có đem tới phước báo. Nhưng
mà có khi chúng ta làm việc đó mà vô lậu. Ta làm đứng về
phương diện bản môn mà làm chúng ta không bị không gian và
thời gian và hình thức lôi kéo, không kẻ công, kể trạng
gì hết. Chúng ta cũng làm y chang như mọi người nhưng hành
động đó là vô lậu. Ví dụ như mình tới một cô nhi viện
người ta đưa mình cuốn sổ vàng để ký tên cho tiền. Nếu
mình nghĩ rằng mình như thế này mà cho ít hơn một trăm ngàn
thì coi không được và quyết định cho một trăm ngàn. Thì
con số một trăm ngàn đó là hữu lậu nhưng nếu người ta
đưa sổ đó mình cũng ký nhưng không nghĩ đây là sổ vàng.
Mình cũng cho một trăm ngàn nhưng mà mình không nghĩ là môt
trăm ngàn thì xứng với hành động hay danh dự của mình thì
đó là hành động vô lậu. Nó vô tướng, làm mà chỉ có
tình thương thôi không hề nghĩ là tôi đang giúp cô nhi đây,
tôi đang giúp người khổ. Thành ra cũng một trăm ngàn, cũng
chữ ký trên sổ vàng nhưng một bên là hữu lậu, một bên
là vô lậu. Công đức hữu lậu so với công đức vô lậu
nó không thấm vào đâu. Công đức hữu lậu nó có, mình cho
100.000 đ, em bé mồ côi được hưởng chứ, nhưng đó là hữu
lậu. Thành ra những pháp hữu lậu là những pháp còn nằm
trong vòng luân hồi sinh tử. Nó có thể làm cho đỡ khổ hay
làm cho khổ thêm. Còn những pháp vô lậu có thể ngăn không
cho mình bị rơi xuống thấp hơn nữa và đưa mình tới sự
giải thoát tự do không vướng mắc. Đứng về phương diện
hữu lậu nghĩ đến công đức hay tội lỗi nhưng đứng về
vô lậu chắc không thể nói với ý niệm về công đức hay
tội lỗi. Không so sánh được. Nó khác lắm. Nó không có
sự kể công, không danh, không lợi nó rất tự nhiên nó phát
xuất từ cái thấy về tự do. Thành ra trong chùa, trong Phật
đường đáng lý mình phải tiếp xúc với những pháp vô lậu.
Nhưng có thể là tại vì nhận thức mình kém cõi nên thấy
vì tiếp xúc với cái vô lậu cứ tiếp xúc với cái hữu
lậu. Ví dụ cái thùng Phước Sương trong chùa đó nó là vô
lậu hay hữu lậu? Nó tùy theo mình hết cả. Có người họ
không thích bỏ tiền vào thùng Phước Sương vì sợ Thầy
không biết, nhất là nếu mình định cúng những số tiền
lớn sợ Thầy không biết là mình hết lòng ủng hộ Thầy,
thành ra hành động đó là hữu lậu. Còn nếu như mình im
lặng bỏ tiền vào thùng Phước Sương không muốn ai biết
đến, biết là chùa cần tiền để làm những chuyện đáng
làm mình chia sẽ tiền dành dụm của mình cho chùa một cách
tự nhiên mà không cầu được phước báo thì đó là hành
động vô lậu. Thành ra cái thùng Phước Sương hay món tiền
là hữu lậu hay vô lậu mà cái thấy của mình khi làm những
cái đó là hữu lậu hay vô lậu. Vì vậy cho nên hạnh phúc
mà do hành động vô lậu đưa đến cho mình thì nó lớn hơn
nhiều vì nó có tự do, nó vô tướng thành ra tất cả các
pháp trong thế gian có thể được xem là hữu lậu hay vô lậu.
Hữu lậu là còn vướng mắc luân hồi còn vô lậu là có
tự do, mà không phải chia hai cái pháp đó ra và nói những
cái này là hữu lậu, còn những cái kia là vô lậu.
KỆ
THỨ 12
Hạt
giống, sanh hạt giống
Hạt
giống, sanh hiện hành
Hiện
hành, sanh hạt giống
Hiện
hành, sanh hiện hành.
Đây
là đường lối vận hành của vũ trụ. Ta nên biết hạt giống
là nguồn năng lượng nó phát hiện ra hiện tượng. Nó có
bốn loại: hạt giống sanh ra hạt giống là tại sao vậy?
Tại vì hạt giống thì vừa chuyển vừa hằng. Tàng thức
vừa chuyển vừa hằng thì tất cả những gì thuộc tàng thức
cũng vừa chuyển vừa hằng. Vậy cho nên mỗi hạt giống trong
ta đều vừa chuyển vừa hằng. Vì vậy cho nên hạt giống
sinh hạt giống, hạt giống của giây phút trước sinh hạt
giống giây phút sau. Không có gì nằm im không chuyển biến
cả. Ví dụ như hạt giống về vui, buồn, giận của mình
đó nó nằm trong tàng thức mà nó cựa quậy tại vì nó chuyển
mà nó hằng. Hạt giống sinh hạt giống. Hạt giống nó có
nhiều tính chất. Trong Nhiếp Đại Thừa Luận Thầy Vô Trước
có đưa ra sáu tính chất của hạt giống:
1/
Sát na diệt tức là nó biến chuyển từng sát na vì vậy cho
nên hạt giống sinh hạt giống đó. Nó sinh ra nó.
2/
Quả câu hữu tức là cái quả nó sanh ra nó cũng có một lần
với nhân. Ví dụ như khi mình gieo hạt giống xuống đất
thì nó sinh ra một cây bắp con và cây bắp con nó có mặt
đồng thời với hạt bắp. Hạt bắp đang còn dù nó có thay
đổi. Ví dụ khi người ta nói câu gì đó mình giận thì cái
hạt giống giận của mình nó biến thành ra cái giận. Vì
vậy vừa hạt giống mà vừa hiện hành nó có mặt đồng
thời với nhau. Không phải có hiện hành thì hạt giống nó
mất đi đâu, nó cũng còn đó, nên gọi là quả câu hữu.
3/
Hằng tùy chuyển luôn luôn tiếp tục tùy theo cái đà chuyển
biến.
4/
Tính quyết định tức là tánh của nó, nó duy trì được.
Tính cách lành hay dữ, hay không lành không dữ, nó đều giữ
được. Hột bắp luôn luôn còn là hột bắp, hột mè luôn
luôn còn là hột mè. Nó là hạt giận thì nó luôn luôn giữ
được căn cước của nó là hạt giống giận, nó là hạt
giống sợ hay buồn thì nó giữ được tánh cách sợ hay buồn.
Đó là tính quyết định.
5/
Đãi chúng duyên, đãi là đợi, chúng là những, duyên là điều
kiện. Tức là những hạt giống nó nằm đó, có mặt đó
và nó đợi những điều kiện thuận lợi để phát hiện,
hữu lậu hay vô lậu cũng vậy.
6/
Dẫn tự quả. Nó đem lại kết quả của chính mình. Hạt
đậu thì đem kết quả của hạt đậu, hạt vừng thì đem
lại cây vừng, tức là nó tự đem kết quả của chính mình.
Hạt giống nào đem đúng cái quả, nó đưa tới cái hiện
hành của hạt giống ấy. Như vậy ta có sáu tính chất của
một chủng tử: sát na diệt, quả câu hữu, tính quyết đinh,
đãi chúng duyên, dẫn tự quả.
Hiện
hành sanh hạt giống. Khi mà hạt bắp nó thành ra cây bắp
rồi thì cây bắp nó là ra trái bắp, rồi lại làm ra hạt
giống. Khi hạt giống giận của ta đùng đùng hiện hành thành
cái giận rồi thì cái hiện hành ấy lại gieo thêm những
hạt giống giận khác. Hiện hành sanh hiện hành. Tại vì hiện
hành cũng có tính cách sát na diệt. Cây bắp của giờ phút
này không phải là cây bắp của giờ phút trước. Tôi của
giờ phút này không phải là tôi được sinh ra bởi tôi của
giờ phút trước.
KỆ
THỨ 13
Hạt
giống hay hiện hành
Đều
tương tức, tương nhập
Một
do tất cả thành
Tất
cả đều do một
Ở
đây chúng ta có thể thấy được ý niệm trùng trùng duyên
khởi của kinh Hoa Nghiêm trong này. Tương tức (interbeing) là
cái này trong cái kia. Tương nhập (interpenetration) là cái này
đi vào cái kia. Trong thế giới phân biệt của mình thì sự
vật nó ở ngoài nhau, như cái bình trà nó ở ngoài cái cành
cây. Cái cành cây nó ở ngoài bình trà. Hai cái nó tách biệt,
nó riêng ra.
Trong
thế giới của quán chiếu, khi chúng ta dùng những chìa khóa
vô thường, vô ngã thì chúng ta bắt đầu thấy chúng khác.
Chúng ta nhìn vào bình trà thì ta thấy có đất nước có lửa
có không gian, có thời gian có không khí, và nếu cứ nhìn
cho sâu thì thấy rằng không có hiện tượng nào trong vũ trụ
mà không có mặt trong bình trà cả. Tại vì bình trà được
làm bằng toàn là những chất liệu không phải bình trà. Cũng
như hoa được làm toàn bằng chất liệu không phải là hoa.
Xét cho kỹ thì mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tới với
nhau làm ra một bình trà, hay làm ra một bông hoa và trong bông
hoa này hay trong biùnh trà này có đủ hết. Cái bông hoa này
chứa đựng cả vũ trụ và bình trà này cũng chứa dựng cả
vũ trụ. Cho nên tương nhập nghĩa là tất cả vũ trụ đi
vào trong một cái và một cái đó cũng đi vào tất cả trong
vũ trụ (Interpenetration). Khi mà dùng chìa khóa vô thường vô
ngã để mở cửa thực tại thì chúng ta thấy cái tính cách
tương tức của sự vật. Trong cái một nó chứa đựng cái
nhiều, và trong tất cả mọi cái mà ta gọi là nhiều điều
có cái một đó hết. Và vì vậy cho nên bình hoa cũng là bông
hoa, bởi vì không có bông hoa thì cũng không có bình hoa. Bông
hoa cũng là đám mây vì nếu không có đám mây thì không có
bông hoa. Bông hoa là đất, nếu không có đất cũng không có
bông hoa. Đó là gọi là tương tức (Interbeing). Hạt giống
hay hiện hành, đều tương tức, tương nhập. Một do tất
cả thành, tất cả đều do một. Cái tất cả nếu mà có
được là do cái một. Chính cái một nó làm ra tất cả. Cái
ý niệm về một là do cái ý niệm về nhiều nó làm ra và
cái ý niệm về nhiều cái do cái ý niệm về một nó làm
ra. Ví dụ như cái bút này ta để ngang thì ta thấy nó bên
trái một bên phải. Cai ý niệm về một là do cái ý niệm
về nhiều nó làm ra. Cái ý niệm về nhiều là do ý niệm
về một làm ra. Cái ý niệm về trên là do cái ý niệm về
dưới nó làm ra. Ý niệm nó làm ra nhau. Thành ra ý niệm về
một và về nhiều ban đầu mình sử dụng nhưng sau mình cũng
vượt thoát.
Vào
thế kỷ rhứ tư, thứ năm khi hai anh em Thầy Vô Trước và
Thế Thân làm ra Duy Thức. Thì Duy Thức chưa mang giáo lý của
Hoa nghiêm trong thân nó. Vì vậy cho nên có lúc người ta nói
giáo lý Duy Biểu nó mới là Quyền Thừa chứ chưa phải là
Đại Thừa. Thì khi Thầy Huyền Trang về nước Trung Hoa vào
thế kỷ thứ bảy, đem giáo lý Duy Biểu về thì Duy Biểu
chưa có màu sắc của Hoa Nghiêm, như giáo lý trong bài tụng
thứ 13 và 14 này. Nhưng mà sau Thầy Huyền Trang có Thầy Pháp
Tạng, đưa giáo lý Hoa Nghiêm và trong Duy Thức trong cuốn Hoa
Nghiêm Kinh Huyền Ký, nghĩa là ghi chép điều huyền diệu trong
kinh Hoa Nghiêm, Thầy đã đem giáo lý Duy Biểu ra và cho vào
đó những chất liệu của giáo lý Hoa Nghiêm nghĩa là giáo
lý tương tức và tương nhập. Thầy Huyền Trang sinh năm 602
và tịch năm 664. Sống có 62 tuổi mà làm nhiều việc lắm.
Năm 662 Thầy thọ giới lớn và trong những pháp môn mà Thầy
đi Ấn Độ học và mang về có pháp môn Duy Thức. Có thể
nói Thầy là Tổ sư của Duy Thức Trung Hoa. Trước đó đã
có Thầy Chân Đế dạy về Duy Thức rồi (Paranarta). Nhưng
Thầy Huyền Trang có nhiều đệ tự xuất sắc trong đó có
Thầy Khuy Cơ. Thầy Huyền Trang đã sáng tác ra một tác phẩm
Duy Thức Học rất đầy đủ gọi là Thành Duy Thức Luận
chú giải và Duy Thức Học trở nên một môn học rất phổ
biến sau đó. Thầy Pháp Tạng sinh sau Thầy Huyền Trang 41 năm.
Thầy cũng gốc Khương Cư cùng quê hương với Thầy Khương
Tăng Hội Sơ tổ của mình. Thầy Huyền Trang đi Ấn Độ bằng
đường bộ còn Thầy Pháp Tạng đi từ Khương Cư qua Việt
Nam bằng tàu thủy và không biết Thầy có ở Việt Nam trước
khi sang Trung Quốc hay không nhưng chắc chắn là có ở Quảng
Đông. Sau Thầy Huyền Trang có Thầy Nghĩa Tịnh cũng đi Ấn
Độ và cũng đi thỉnh kinh. Thầy Huyền Trang đem về rất
nhiều kinh điển. Thầy Nghĩa Tịnh đi bằng đường biển
và cũng đem về rát nhìeu kinh và Thầy cũng mở một trung
tâm dịch kinh rất lớn. Còn Thầy Pháp Tạng từ bên Khương
Cư đi qua và Thầy ở miền Nam trứoc và sau đó mới lên miền
Bắc và Thầy tham dự vào trung tâm dịch kinh của Thầy Nghĩa
Tịnh. Thầy nhỏ hơn Thầy Huyền Trang chừng 41 năm. Điều
mà chúng ta cần biết đây là Thầy Pháp Tạng là người đầu
tiên đưa giáo lý Hoa Nghiêm vào Duy Thức và từ thế kỷ thứ
7 và 8 cho đến bây giờ công tác của Thầy Pháp Tạng không
được tiếp nối. Và chính bây giờ mình tiếp nối công việc
của Thầy Pháp Tạng là mình đưa vào cho thật đầy đủ
giáo lý Hoa Nghiêm vào trong Duy Biểu Học.
Trong
Năm Mươi Bài Tụng này có được hai bài tụng đại diện
cho giáo lý Hoa Nghiêm và đưa Duy Biểu học lên Đại thừa
viên giáo. Ta biết rằng trong kinh Hoa Nghiêm có hình ảnh gọi
là Đế Châu nghĩa là những viên ngọc của Đế Thích. Ở
cung trời của vua Đế Thích có những tấm màng lưới làm
bằng những viên bảo châu. Mỗi viên bảo châu có nhiều mặt
và có hàng trăm ngàn hàng triệu viên bảo châu kết lại làm
thầnh cái lưới gọi là đế châu. Và khi người ta nhìn vào
mọt hạt châu thì người ta thấy tất cả những hạt châu
ở trong đó. Ngày xưa khi mình quán tưởng Bụt mình nói: Ngã
Thử đạo tràng như đế châu, tức là cái đạo tràng mà
trong đó con đang thực tập nó giống như là màn ngọc của
vua Đế Thích (indras net). Thập phương chư Bụtảnh hiện trung
tức là các đức Bụt trong mười phương đều ảnh hiện
trong cái đạo tràng của con cả. Tại vì đạo tràng ở trung
tâm tu học của mình chỉ là một cái bàn thờ và một đức
Bụt ngồi thôi. Nhưng trong mình quán tưởng Bụt thì mình
muốn lạy tất cả những đức Bụt trong mười phương thế
giới chứ không chỉ lạy một Bụt.
“Năng
lễ, sở lễ tánh không tịch
Cảm
ứng đạo giao nan tư nghì”
Người
lạy là con và người bị lạy là Ngài cả hai chúng ta tánh
đều vắng lặng, không ai có ngã vì vậy sự cảm ứng của
con với Ngài không thể tưởng tượng được. Nếu như con
chỉ là con thôi và Ngài chỉ là Ngài, thì hai chúng ta có dính
gì với nhau đâu, làm sao mà có sự cảm ứng được? Ngã
thử đạo tràng như đế châu. Cái đạo tràng mà con đang
đứng giống như màn lưới ngọc của Đế Thích. Thập phương
chư Phật ảnh hiện trung, chư Phật trong mười phương đều
hiển hiện trong đó. Ngã kim ảnh hiện chư Phật tiền. Trước
mỗi đấng Thế tôn đều có con đứng trước hết. Các Ngài
vô lượng vô biên vô số thì con cũng vô lượng vô biên vô
số. Khi mình cuối xuống nhìn một đám bọt nước thì mình
thấy trong mỗi bọt nước dều có mình. Tự nhiên mình biến
thành hằng hà sa số. Ở đây cũng vây, trong thế giới của
Hoa Nghiêm cái một nó có mặt trong tất cả. Mình quán tưởng
rằng có bao nhiêu đấng Thế tôn trong vũ trụ thì có bấy
nhiêu con đang đứng trước. Và con lạy ở đây một cái thì
tất cả trong mười phương thế giới đều có lễ lạy. Ngã
thân ảnh hiện chư Phật tiền, đầu diện tiếp túc quy mạng
lễ. Và vì vậy cho nên mình thấy được trong hoàn vũ, nơi
nào mà có một đấng thế tôn thì nơi đó có mình đang lễ
lạy. Đó là sự quán tưởng để lễ lạy trong tinh thần
Hoa Nghiêm. Vậy đế châu là trong một viên bảo châu mà mình
nhìn vào sẽ thấy các viên bảo châu khác, không có viên bảo
châu nào mà không mang hình ảnh của viên bảo châu này. Đó
là phép quán chiếu về tương tức và tương nhập để thấy
rằng: “cái một nó chứa đựng chúng sinh tất cả nó chứa
đựng cái một”. Vì vậy một hạt giống của cái giận
nó chứa đựng tất cả những hạt giống khác, hạt giống
của từ bi, trí tuệ, giải thoát, giác ngộ… Nó có đủ
tất cả. Thành ra giải thoát không có nghĩa là vất những
cái mình không thích ra ngoài. Tại vì trong cái mình không thích
nó chứa đựng những cái mình thích ở trong. Ví dụ như rác
chẳng hạn mình không thích, nhưng nếu mình liệng rác đi
thì mình sẽ không có hoa. Cho nên mình phải giữ rác lại
vì mình thấy trong rác có hoa. Rồi mình sử dụng trí tuệ
để biến rác thành phân. Và từ phân đó từ từ biến thành
hoa. Thành ra ta có danh từ phiền não tức bồ đề. Những
cái khổ đau, những cái nặng nề của mình nó có chứa đựng
cái giải thoát, cái thảnh thơi trong đó nếu mình biết cách.
Hạt
giống hay hiện hành, đều tương tức tương nhập, mỗi hạt
giống hay mỗi hiện hành dù nó là tâm hay vật, thì trong mỗi
hiện tượng như vậy mình tìm thấy cái tính chất tương
tức và tương nhập của nó. Một do tất cả thành. Tất cả
đều do một. Nếu mình hỏi tàng thức của anh và tàng thức
của tôi là hai hay là một thì anh nên coi chừng. Tại vì nói
là hai cũng sai mà nói là một cũng sai. Tại vì ý niệm về
một và ý niệm về nhiều là những ý niệm mình bắt đầu
với, nhưng mình phải vượt thoát sau khi quán chiếu. An h và
tôi không phải là một cũng không phải là hai. Một là ý
niệm, hai cũng là ý niệm khác. Cả hai ý niệm đều không
phù hợp với thực tại. Thực tại vượt thoát cái ý niệm
về một và về nhiều.
KỆ
THỨ 14
Tàng
không một không khác
Không
chung cũng không riêng
Một
và khác không riêng
Chung
và riêng triển chuyển.
Khi
người ta hỏi có nhiều tàng thức phải không? mỗi chúng
ta có một tàng thức phải không? thì quý vị không được
chấp nhận mà cũng không được phủ nhận. Nếu quý vị trả
lời là kẹt. Vì tàng thức không một không khác. Vì trong
thực tại duyên sinh thì cái một là do tất cả làm thành.
Và cái tất cả cũng do cái một làm thành. Ví dụ cái trái
do cái phải làm ra và cái phải do cái trái làm ra. Cho nên
một tức là nhiều, nhiều tức là một. Cho nên mình vượt
thoát ý niệm về một và nhiều.
Tàng
không một không khác,
Không
chung cũng không riêng.
Tại
vì mình mới học rằng trong mỗi hiện tượng đều có tính
cách chung và riêng. Bây giờ mình phải vượt luôn cái ý niệm
về chung và riêng.
Một
và khác nương nhau,
Chung
và riêng triển chuyển.
Cái
một và cái khác nó nương nhau mà được thành lập, cái chung
và cái riêng cũng vậy, nó nương nhau mà phát triển và biến
chuyển. Vậy nên mình phải vượt thoát những ý niệm như
một và khác, chung và riêng. Ở đây, có khí vị của giáo
lý Tam Luận (Sam Lung).
Giáo
lý Tam Luận, một tông phái có mặt tại Á đông, một tông
phái học về trung đạo căn cứ tên ba bộ luận: Trung Quán
luân, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận. Chúng ta biết Trung
Luận, Madyamikasatra, là Thầy Long Thọ làm ra. Các Thầy như
Thầy Long Thọ Thầy Đề Bà những vị ấy sáng tạo ra những
bộ luận làm căn bản cho môn phái gọi là Tam Luận Tông mà
trong đó là Bách Luận, Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận,
theo Thầy Long Thọ thì chúng ta phải vượt thoát những ý
niệm về sinh, diệt, một, nhiều, đi, tới, thường, đoạn.
Tám khái niệm này là những khái niệm căn bản mà chúng ta
phải vượt thoát gọi là bát bất là tám cái không phải.
Thứ
nhất là không sanh, không diệt. Sinh là một ý niệm trong đầu
mình. Sinh có nghĩa là từ cái chỗ không có gì cả rồi tự
nhiên nó có. Trước khi mẹ sinh mình ra không có gì cả rồi
tự nhiên nó có. Trước khi mẹ sinh mình ra mình chưa là ai
hết. Tự nhiên mình thành ra một người. Before may mother gave
me birth I was nobody. Gfter that I becam sombody. Quán chiếu cho kỹ
thì thấy rõ là không phải như vậy. Không thể nào từ cái
không mà thành ra cái có được. Trước khi sinh mình đã có
rồi, dưới những hình dáng khác. Nhưng tại mình mù quáng
nên không thấy đó thôi. Ví dụ như mây là tiền thân của
mưa. Vì không thấy tiền thân của mưa là mây nên mình nói
mưa mới sanh ra nhưng thực mưa chỉ là sự tiếp nối của
mây thôi. Chúng ta cũng vậy, chúng ta không có từ không mà
trở thành có. Và vì vậy cho nên ý niệm về sinh nó không
đúng. (Rien ne se crée).
Không
có gì được tạo tác ra cả. Ví dụ như năng lượng nó biến
thành vật chất thì cũng là sự tiếp nối mà thôi. Thành
ra đến ngày sanh nhật mình không hát happy birthday mà hát happy
contiuation day. Và đến ngày chết cũng vậy. Không phải là
từ có mà trở thành không. Vì đã có thì không thể nào trở
thành không được. Ví dụ đem tờ giấy này đốt ra tro thì
tờ giấy không trở thành không mà thành ra những thứ khác.
Ví dụ nó thành hơi nóng đi vào trong vũ trụ, nó trở thành
tro sau này xuống đất nó có thể biến thành bông hoa. Thành
ra tờ giấy nso không trở thành hư không được, dù mình có
đốt nó thì nó vẫn tiếp tục đi luân hồi như thường,
vì v ậy cho nên ý niệm về sinh là một ý niệm sai lầm cần
vượt thoát.
Ý
niệm về diệt cũng vậy. Bất sinh diêc bất diệt (không sinh
cũng không diệt). Đó là phép quán của Tam Luận Tông. Bất
thường diệt bất đoạn, ý niệm về thường và ý niệm
đoạn. Thường tức là nó cứ như vậy hoài hoài, còn mãi
cái linh hồn của mình. Hoặc là nói khi mình chết linh hồn
và thể xác mình sẽ mất tiêu không còn gì nữa nên gọi
là đoạn. Thành ra ý niệm về thường phải vượt thoát,
ý niệm về đoạn cũng phải vượt thoát. Cái này với cái
kia là một hay là hai? Phi nhất phi dị. Một cũng không đúng
mà khác cũng không đúng. Ý niệm về tới và đi cũng vậy.
Tôi từ chỗ đó tới và tôi sẽ từ đây tôi đi. Trước
khi sanh tôi mới từ chỗ khác và sau khi chết tôi sẽ đi về
cõi khác. Con người là ai xuống cõi trần làm chi, tám ý niệm
đó cần phải vượt để cho ta thấy bản chất về thực
tại gọi là trung đạo bát bất.
Trung
đạo là con đường ở giữa, con đường mà không bị kẹt
vào ý niệm. Bất sanh diệc bất diệt. Bất thường diệc
bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất khứ.
Đó là tám ý niệm cần được vượt thoát. Đây ta chỉ đưa
ra hai ý niệm: một và tất cả, chung riêng ta cũng phải vượt
thoát.
Cho
nên trong Duy Biểu học ta thấy có khí vị của Hoa Nghiêm,
khí vị của Tam luận. Tàng không một không khác, không chung
cũng không riêng, một và khác nương nhau, chung và riêng triển
chuyển.
KỆ
THỨ 15
Vô
minh diệc minh sanh
Tàng
chuyển thành vô lậu
Gương
trí soi mười phương
Bạch
tịnh và vô cấu.
Tức
là khi sự mờ ám của mình tiêu diệt nhờ công trình quán
chiếu thì sự sáng suốt nó phát sanh và khi đó tàng thức
nó chuyển thành vô lậu. Trước đó nó hữu lậu, chứa chấp
những hạt giống hữu lậu nhưng nhờ công phu tu hành quán
chiếu nó trở thành vô lậu. Ta biết vô minh là một trong
12 hữu tri (nhân duyên. Vô minh duyên hành, hành duyên thức,
thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu sanh, lão tử. Vì vô mình nên mới có thế giới
của hữu lậu, của sầu khổ. Có người nghĩ rằng mình muốn
không có lão, tử thì đừng có sanh, không có sanh thì đừng
có hữu, muốn không có thủ, không có ái, thọ, xúc, lục
nhập… hành, thì diệt vô minh. Và họ nghĩ là diệt vô minh
thì sạch tất cả và cũng không còn gì cả trên cõi đời
này chỉ chờ sang thế giới khác! Nhưng chính miệng Bụt nói
rằng: Vô minh diệc minh sanh. Hễ lấy bóng tối thì tự nhiên
có ánh sáng. Muốn hay không muốn cũng vậy. Khi minh sanh thì
có thế giới của mầu nhiệm, của giác ngộ, của giải thoát,
của Niết-bàn. Trong khi đó thì tàng nó chuyển thành vô lậu
hết. Tất cả những gì thuộc về tàng thức nó chung, riêng,
một, nhiều tất cả đều chuyển thành vô lậu hết.
Gương
trí soi mười phương
Đây
là tên mới của tàng thức. Trước đó nó cũng có nhiều
tên: nhất thiết chủng thức, dị thục thức, năng tàng, sở
tàng, ngã ái chấp tàng, a đà na thức. Bây giờ đây, sau khi
nó chuyển thành vô lậu hết thì tên mới nó là đại viên
cảnh trí. Đại là lớn, viên là tròn đầy, cảnh tấm kính,
tấm gương, trí, trí tuệ. Tàng thức trở thành một thứ
ánh sáng, một thứ trí tuệ giống như một tấm gương lớn
và tròn đầy nó phản chiếu được một cách tự do mọi
hiện hữu nhiệm mầu. Gương trí soi mười phương. Bạch tịnh
và vô cấu. Bạch tịnh thức và vô cấu thức (amalayvijnana
amala): không ô nhiễm, là hai tên mới của tàng thức khi giải
thoát., giác ngộ, an lạc thì nó trở thành đại viên cảnh
trí hay là vô cấu thức hay là bạch tịnh thức, ta thấy thức
thứ tám này nó giống như đất, như đại địa có công dụng
giữ gìn các hạt giống, có tính cách trung hòa, như một bà
mẹ và những thức khác như người làm vườn có thể tác
động trên đất. Nó vừa có tính cách vô phú vô ký, không
thiện mà cũng không phải ác. Nó có thể trở thành thiện
hay ác là do công trình của những thức khác.
Vô
phú là không bị che lấp. Nếu có mặt trời chiếu xuống
có ánh sáng có sức nóng, nó có mưa thì tất cả những hạt
giống trong đất sẽ được phát triển và trái đất sẽ
được sanh tốt. Còn nếu mặt trời, mây đen bao phủ mặt
đất thì trái đất nó không được sanh tốt và vì vậy cho
nên thức thứ tám nó không thụ động nhưng nó làm việc
rất lặng lẽ mầu nhiệm.
Trong
khi quán chiếu tu học thì mình sử dụng các thức khác. Ví
dụ khi ta nhìn bông hoa ta quán chiếu bông hoa ta đưa vào tàng
thức những hạt giống của sự quán chiếu và những hạt
giống của sự quán chiếu đó vào và tàng thức bắt đầu
làm việc âm thầm cũng như đất vậy. Nếu chúng ta là người
làm vườn giỏi thì ta có thể xới đất, nhổ cỏ bón phân
gieo hạt tưới đất nhưng điều quan trọng nhất là phải
tin rằng đất nó sẽ làm mọc những hạt giống của chúng
ta. Người làm vườn giỏi cách mấy cũng không làm thay được
công việc của đất, chính đất nó giữ gìn những hạt giống
và nó hiến tặng hoa trái của sự làm vườn. Và vì vậy
công tác của a lại gia thức, của tàng thức trong sự tu học
rất quan trọng. Ví dụ như khi Thầy giao cho mình một công
án hay đề tài để quán chiếu đó bằng ý thức của mình,
mình sẽ làm việc bằng trí năng của mình. Trí năng của
mình chỉ là người làm vườn thôi. Khi tiếp nhận một đề
tài qán chiếu của Thầy giao mình phải đem nó về như một
hạt giống và mình bươi đất và mình gửi đề tài nó vào
trong, và mỗi ngày mình phải tưới hạt giống.
Thành
ra cái đề tài của Thầy cho mình không được giữ nó trong
tay của trí thức mình, mình phải ươm nó vào đất. Nghĩa
là phải sử dụng tàng thức. Rồi thì trong đời sống hằng
ngày, chúng ta đi dứng nằm ngồi, ta tiếp tục tưới hạt
giống đó mà chính tàng thức nó giữ hạt giống đó. Một
buổi mai thức dậy ta chợt thấy một bông hoa của sự hiểu
biết. Hoa đó không phải do sự suy nghĩ của chúng ta làm ra
mà do sự cống hiến của tàng thức. Sự tu học là vậy.
Ta không chỉ thực tập bằng ý thức mà thôi. Ý thức tuy
quan trọng nhưng nó chỉ như người làm vườn. Những đề
tài tu học của mình, mình phải vùi vào đất của tàng thức
và mình phải tưới tẩm hằng ngày, đừng có bỏ luống.
Thành ra thức tập chánh niệm hằng ngày là tưới tẩm những
hạt giống của sự tu học của mình hằng ngày. Một buổi
sáng nào đó mình chợt hiểu, chợt thấy, chợt cởi mở mình
không còn bị kẹt. Do đó tàng thức đóng vai trò rất quan
trọng của sự tu học. Nó không bị che lấp, nó vô ký nhưng
tác dụng của nó rất lớn. Ví dụ hôm qua tôi đi ngoài đường
Sainte Foy tôi gặp một ông rất quen mà không nhớ tên ông
ấy. Trên đường về nhà tôi cố tìm tên ông ấy bằng ý
thức của tôi. Chắc chắn là mình biết tên ông ta mà tìm
tòi nhức đầu cũng không ra. Thôi thì mình tạm quên đi, tôi
đi đọc kinh, đọc sách và đi ngủ và quên hẳn chuyện ông
đó. Nhưng mà trong đêm, trong hi ngủ tàng thức của mình nó
làm việc. Tại vì mình đã tìm tòi tiếp. Tùy rằng ý thức
của mình ngưng làm việc rồi nhưng tàng thức của mình vẫn
còn làm việc tiếp. Tuy mình đã quên ý định tìm tên ông
ta rồi nhưng sáng hôm đó trong khi đánh răng tự nhiên cái
tên của ông ta nhảy phóc lên ý thức của mình mà mình không
có suy nghĩ. Đó là công tác của thức thứ tám trong đêm.
Hồi nhỏ có một bữa tôi ra sân chơi một mình, thấy cái
lá rất đẹp nằm dưới đáy lu, mình muốn lượm chiếc lá
lên chơi nhưng cánh tay mình ngắn quá. Tôi lấy cái que dài
chọc và quấy chiếc lá lên. Nhưng quấy cách nào chiếc lá
cũng không chịu lên. Nên chán quá tôi vất chiếc que và đi
chơi. Nhưng đi chơi năm mười phút sau trở vào thì thấy chiếc
lá nó nổi lên mặt nước. Tại vì trong thời gian mình đi
ra ngoài ngõ chơi thì nước tiếp tục xoáy và nó đưa chiếc
lá lên mặt nước và mình về thì mình bốc chiếc lá liền.
Tàng thức của mình cũng vậy. Khi mà tàng thức mình nhận
được lệnh của ý thức để làm công việc nào đó thì
nó làm suốt đêm. Mình có thể ra lệnh cho nó “sáng mai thức
dậy lúc mấy giờ đó há?” thì nó có thể nhắc mình thức
dậy đúng giờ. Thành ra trong công tác của thiền quán học
hỏi… thì mình phải biết tin tưởng vào tàng thức của
mình nó làm tất cả những công việc. Và khi mình biết đường
lối làm việc của tàng thức mình thì sự tu học sẽ dễ
thành công. Mình phải có đức tin nơi đó. Tiến đến chúng
ta sẽ học về thức thứ bảy thức này còn có tên là Ý.
Chúng
ta học tới bài 15, ta sắp rời lãnh vực của thức thứ 8
để qua lãnh vực thức thứ bảy. Tuy nó vậy nhưng ta biết
rất rõ là ta không thể nào rời thức thứ tám cả. Ta phải
học để thấy liền, phản ứng liền trong đầu. Đừng bị
ảnh hưởng bởi những tiếng, những chữ người ta nói ra
để không thấy sự thật. Đó là một bài thi thử cho chúng
ta.
Trong
tinh thần tương tức, tương nhập thì trong thức thức bảy
có thức thứ tám, làm sao mà lìa nó được. Có một điều
là trong những bài kệ khác, trong những bài học về thức
thứ bảy, thức thứ sáu, và năm thức đầu ta vẫn tiếp
tục học thức thứ tám. Điều này chứng minh rất rõ các
điều vừa nói tức là một nó chứa đựng tất cả và chỉ
cần nhìn sâu sắc vào cái một là mình thấy được tất
cả. Cần thực tập để đừng dùng ý niệm cắt đứt thực
tại ra thành những mảnh nhỏ và cho rằng mảnh này là khác
với mảnh kia, là độc lập với mảnh kia. Không có chuyện
đó.
Học
Phật thì ta phải hành, ngay trong khi nghe giảng ta cũng phải
hành mới được. Đừng bị những ngôn từ và ý niệm đánh
lừa thì chúng ta mới giỏi. Ta đã có hai bản dịch bằng
tiếng Anh và tiếng Việt về tác phẩm ba mươi bài tụng (Trimsika)
của Thầy Thế Thân và Bát Thức Quy Củ Tụng của Thầy Huyền
Trang. Ta có thể tham khảo cả bản tiếng Việt, tiếng Anh.
Vị nào biết chữ Hán thì có thể tham khảo ca bản chữ Hán
nữa.
Sau
khi mà chúng ta đã đọc xong năm mươi bài tụng Duy Biểu rồi
ta mới đi vào các tác phẩm cổ điển như Tam Thập Tụng
hay Bát Thức Quy Củ Tụng. Ta sẽ nhận diện được gốc rễ
của những bài tụng mà ta học trong năm mươi bài tụng. Ta
sẽ biết bài nào trong năm mươi bài tụng có gốc rễ của
nó ở tác phẩm nào trong quá khứ.