GIẢNG LUẬN DUY BIỂU HỌC
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 1996
KỆ
THỨ 6
Giá
trị một đời người
Tùy
thuộc vào phẩm chất
Mọi
hạt giống đang nằm
Trong
chiều sâu tâm thức.
Đời
mình có giá trị hay không, có hạnh phúc hay đau khổ đều
tùy thuộc vào cái phẩm chất của những hạt giống trong
tâm thức chúng ta. Thành ra nếu chúng ta muốn hiểu một người
thì chúng ta nhìn vào cái phẩm chất của những hạt giống
trong người đó và người đó không phải là người duy nhất
chịu trách nhiệm về những hạt giống của người đó. Tại
vì Mẹ người đó, Cha, Ông Bà, Xã hội, Tổ tiên người đó
đều chịu trách nhiệm. Khi thấy được cái điều đó rồi
thì mình không đổ hết trách nhiệm lên người đó nữa.
Tại vì hiểu tức là thương, thấy được tức là thương,
bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể là nạn nhân của ông
bà, xã hội, học đường trong quá khứ. Và vì vậy cho nên
khi mà muốn giúp đỡ một người, muốn vạch một đường
lối tu học cho một người thì mình phải nhìn vào người
đó và thấy được những hạt giống chìm sâu trong tiềm
thức người đó. Đó gọi là quán cơ, không phải là người
ta tới thì mình dạy ào ạt những gì mình có sẵn. Phải
nhìn vào, thấy cả cái chiều sâu của người đó và mình
mới đề nghị một phương pháp tu học và biết cách hướng
dẫn người đó tu học. Thành ra một vị Giáo thọ giỏi không
phải là vì đó có những bài giảng tiền chế trong người
hễ bất cứ ai tới là trút ra thao thao bất tuyệt. Một Giáo
thọ giỏi là biết quán chiều sâu để thấy những hạt giống
trong tiềm thức người kia và thấy rồi thì mới biết mình
nên dạy như thế nào, hành xử và nói năng như thế nào để
giúp đỡ được. Đó là quán cơ những hạt giống của người
đó.
Cách
thức tu học là chuyển hóa những hạt giống không đẹp và
gieo trồng những hạt giống mới tưới tẩm những hạt giống
tươi mát tốt đẹp những hạt giống mà lâu nay không ai động
tới và tưới tới. Mình hiểu và thương thì mình phải tưới.
Thứ hai là nhận diện những hạt giống khổ đau trong người
đó và tìm cách chuyển hóa những hạt giống đó. Vì vậy
Tăng thân là quan trọng vì đó là một đoàn thể tu học mà
trong đó người nào cũng có con mắt quán cơ, tại vì nếu
mình không có quán cơ bạn mình thì không có hiểu được
những nỗi đau khổ, những niềm vui của bạn cùng tu với
mình và có ở chung với họ mười năm cũng không giúp đỡ
gì được người đó. Một Tăng thân đúng tên của nó là
một Tăng thân trong đó mỗi cá nhân có khả năng quán cơ,
đều biết cách nhận diện được những hạt giống vui khổ
của từng bạn cũng tu với mình. Nếu biết được cách đó
rồi thì mình biết cách chạm vào những hạt giống khổ đau
và đợi khi nào mình thấy người kia rất vững chãi rồi
mình mới tìm cách giúp chuyển hóa những hạt giống xấu.
Mình là người Sư huynh, Sư đệ, Sư muốn mình phải biết
quán cơ, nếu mình sống với bất cứ ai đó chưa được là
mình chưa biết quán cơ. Biết quán cơ thì mình bắt đầu
cuộc sống được với người đó. Người nào cũng có những
hạt giống hạnh phúc cả. Chúng chỉ yếu hay mạnh mà thôi,
có thể là xưa nay chưa ai động tới những hạt giống hạnh
phúc đó. Mình là người thiện tri thức của người đó.
Đó là công trình tu học của mình. Sự thành công của mình
nằm ở khả năng thấy được, tưới tẩm được. Khi mà
mình chỉ thấy được nơi người kia những tham, giận, kiêu
căng thôi là tại vì con mắt mình chưa có sáng. Trong Phật
học ta thấy rằn tất cả những hạt giống đều có trong
người đó, hạt giống của hạnh phúc hạt giống giác ngộ
có sẵn. Ở Pháp triết gia Kean Paul Sartres chủ thuyết hiện
sinh, nói rằng: con người là một tổng thể của tất cả
những hành động của mình (Phomme est la somme de sex actes). Cái
hành động đây theo danh từ Phật học là Nghiệp (karma). Nghiệp
có nghĩa là hành động. Khi mà hành động đó là một nhân
thì gọi đó là karma hetu (nghiệp nhân). Khi mà hành động
đó đưa tới kết quả thì gọi là karmaphala (nghiệp quả).
Nghiệp nhân và nghiệp quả và con người là tổng thể của
những nghiệp của mình mà nghiệp đây có thể là hạt giống.
Bất cứ một thân nghiệp, một ý nghiệp, khẩu nghiệp nào
của mình cũng gieo vào trong mình những hạt giống cả. Giá
trị của một con người tùy thuộc vào giá trị hành động
của mình. Bài kệ số 6 này nhắc mình tới câu của Jean Paul
Sartres. Giá trị của một đời người, tùy thuộc vào phẩm
chất mọi hạt giống đang nằm trong chiều sâu tâm thức.
Tại cái nghiệp nhân và nghiệp quả của mình, nó nằm hoàn
toàn trong tâm thức của mình. Nó không mất đi đâu cả. Tất
cả những hành động của mình dều được cất giữ và duy
trì trong tàng thức của mình. Tại vì tàng thức của mình
có tác dụng giữ lại và duy tì. Khi nghe chữ nghiệp ta phải
hiểu rằng chữ nghiệp có nghĩa là hành động. Có ba loại
hành đọng (nghiệp): hành động bằng tư tưởng (ví dụ như
ta có tư tưởng về phá thai. Chưa phá chỉ mới có tư tưởng
nghĩ tới thôi mà đã làm cho vũ trụ rung rình rồi. Hay là
ý niệm giết người hay ý niệm ăn cắp, những tư tưởng
đó đã làm rung rinh vũ trụ rồi). Đó là ý nghiệp, ý là
hành động rồi. Kế đến là hành động của thân. Khi mình
hành động những việc như giết chóc, ăn gian, dâm dục hay
những hành động cứu người giúp đỡ. Đó là thân nghiệp.
Những lời nói mình để làm khổ người ta hay là để tưới
tẩm những hạt giống thương yêu hiểu biết hay hạnh phúc
của người ta. Đó đều là những hành động cả gọi là
khẩu nghiệp. Những hành động, những nghiệp của mình đều
được giữ nguyên vẹn tỏng thức thứ tám của mình (tàng
thức). Trong năm điều tâm niệm mà các Thầy và Sư cô luôn
nhớ. Điều thứ năm là “Tôi được phát sanh trên cái hành
động của tôi, chỉ có cái hành động nó đi theo tôi mà
thôi, không còn gì đi theo tôi cả”. Khi mà mình chết nghĩa
là chuyển từ hình thái sinh mạng này sang hình thái sinh mạng
khác thì mình phải bỏ hết. Tất cả những người mình thương,
mình ghét, tài sản của cải mình, những sự nghiệp bỏ hết,
chỉ có hành động của tôi đi theo mà thôi. Tàng thức nó
giữ gìn tất cả những hành nghiệp đó. Không phải chỉ
có ý nghiệp không mà thôi đâu. Cả thân và khẩu nghiệp
đều trở về trạng thái hạt giống để đi theo mình sang
hình thái khác. Đó là điều tâm niệm thứ năm của người
thực tập theo lời Bụt dạy.
KỆ
THỨ 7
Tác
dụng Alaya
Là
tiếp nhận duy trì
Và
làm biểu hiện ra
Hạt
giống cùng tập khí.
Tác
dụng và công năng của thức A lại gia là tiếp nhận những
hạt giống. Tiếp nhận từ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, từ
học đường, bè bạn, xã hội. Tiếp nhận xong rồi còn duy
trì nữa, giống như đất. Tiếp nhận duy trì rồi còn làm
biểu hiện ra nữa. Vại vì các hạt giống đó luôn luôn biểu
hiện ra thành những cái mà mình nhận thức được nên gọi
là hiện hành. Khi hạt giống mà nó tiềm tàng thì mình không
sờ mó được, nhưng khi gặp những điều kiện thuận lợi
thì những hạt giống đó biểu hiện ra. Gọi là những hiện
hành (actual dharma). Ví dụ những hạt giống của giận, khi
cười, nói thì đâu thấy. Nhưng khi người ta động tới thì
nó hiện hành, nó biểu hiện. Cái hạnh phúc và khổ đau của
mình cũng vậy. Tổ tiên mình có trong mình và có khi tổ tiên
mình hiện hành ra trong cách mình cười, mình nói mình suy nghĩ.
Đó là về kinh nghiệm mà nói. Thân thể mình cũng là một
hiện hành từ A lại gia, rồi xã hội mình cũng là một hiện
hành của A lại gia, rồi đất nước mình và cả thế giới
đều là hiện hành của A lại gia. Nên nhớ rằng A lại gia
đây là A lại gia cộng đồng. Tại vì có A lại gia riêng
và A lại gia chung. Cũng như hạt giống của mình cũng là A
lại gia riêng và chung. Cũng như những hạt giống của mình
cũng có tính cách riêng và chung, cũng có tự tướng và cộng
đồng.
Ví
dụ Làng Hồng, Làng Hồng là một biểu hiện, chúng ta có
Làng Hồng chung của chúng ta nhưng mỗi người trong chúng ta
đều có Làng Hồng riêng. Làng Hồng của Sư cô Đoan Nghiêm
nó khác Làng Hồng của Sư chú Pháp Đăng. Làng Hồng có tự
tướng và cộng tướng của nó. Có một người mua giấy máy
bay từ Cali sang Làng Hồng. Tới nơi rồi đi mấy ngày trên
xóm Thượng Làng Hồng mà vẫn chưa tiếp xúc được với
Làng Hồng. Dễ sợ như vậy đó. Đó là một thiếu phụ người
Hoa Kỳ mà tôi gặp đi trên xóm Thượng như một bóng ma. Tới
được rồi, gặp được người Làng Hồng, mà không tiếp
xúc được với người Làng Hồng. Thành ra Làng Hồng của
người đó là một Làng Hồng rất riêng của người đó,
không phải của mình. Thành ra Làng Hồng cũng có cái tự tướng
và cộng tướng của nó. Nếu nói tôi biết Làng Hồng rồi,
tôi tới đó rồi thì câu tuyên bố đó chỉ giá trị nào
đó thôi. Đó là Làng Hồng của bạn chưa chắc gì là Làng
Hồng của tôi. Cũng như nước Pháp vậy, nước Pháp với
mình cũng là nước Pháp có tự tướng và cộng tướng.
Tâm
thức cũng vậy. Vì vậy tâm thức cộng đồng của chúng ta
làm bằng hạt giống. Và những hạt giống đó biểu hiện
thành ra hiện hành, thành ra thế giới. Biểu hiện thành ra
hiện hành, thành ra thế giới. Biểu hiện những hạt giống
và tập khí đó ra. Tập khí mình dịch là habit energy. Khí
là một loại năng lượng (energy). Tập có tính cách xông ướp,
có tính cách làm thành ra một thói quen. Ngựa theo lối cũ.
Có những thói quen cũ ngàn đời, có những thói quen mới.
Tu tập mà làm ra những thói quen, tập khí mới. Ví dụ thói
quen cũng là mỗi khi nghe người ta nói câu nào thì mình nhăn
mặt, không muốn nhăn mặt của cứ nhăn. Bây giờ muốn có
thói quen mới là khi nghe câu nào không vừa ý thì mình thở.
Ban đầu chưa phải là thói quen, từ từ rồi sẽ có tập
khí quen làm như vậy, không làm không được. Như là đánh
răng cũng vậy. Người mới tập đánh răng trước khi đi ngủ
thì hay quên, rất khó làm. Nhưng từ từ thành tập khí rồi
thì trước khi đi ngủ mà không đánh răng sẽ rất khó chịu.
Khi mình cầm tờ giấy và mình cuốn lại thì khi mình thả
tờ giáy ra nó vẫn cuốn lại. Nó thành tập khí rồi, nó
không chịu thẳng lại như xưa nữa. Mùa hè thỉnh thoảng
có con ruồi nó tới đậu đúng gò má mình. Mình xua nó đi
nó bay một vòng rồi lại đậu trúng chỗ cũ. Nó có tập
khí rồi. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta có rất nhiều tập khí.
Muốn biết tập khí của ta thì chỉ có một cách thôi. Đó
là chánh niệm. Khi có chánh niệm, ta nhận ra tập khí chúng
ta và chúng ta mỉm cười. Ta cứ mỉm cười hoài thì tập
khí đó sẽ chuyển hóa. Không có cách gì hơn đâu bằng cách
nhận diện tập khí mình.
Hút
thuốc chẳng hạn, nó là một tập khí. Một khi đã thành
tập khí rồi thì chúng ta không bỏ được. Phương pháp hay
nhất để bỏ tập khí là khi hút thuốc thì mình biết rằng
mình hút thuốc. Mà cái biết của mình cho mình thấy cái sự
hút thuốc đó liên hệ tới cái phổi của mình. Và cái phổi
của mình liên hệ tới những người mình thương, những người
trông cậy vào mình. Và nếu mình bị ung thư phổi thì tội
nghiệp cho họ. Không phải là tôi nghiệp cho mình mà thoi mà
còn tội nghiệp cho họ. Thành ra mình giữ gìn cho mình mà
cũng là giữ gìn cho những người mình thương “Giữ gìn
cho tôi và giữ gìn cho anh”. Chánh niệm thường cho mình những
cái thấy như vậy. Khi uống rượu cũng vậy. Đó là một
tập khí. Mỗi khi buồn thì cần chén rượu để quên; dần
dà nó thành thói quen. Thành ra khi mà thực tập chánh niệm
quen rồi thì mỗi khi cầm chén rượu lên mình sẽ nói: “Tôi
đang uống rượu và biết rằng tôi đang uống rượu”. Và
càng ngày cái thấy càng sâu thì cái thấy rằng uống rượu
nó đang tàn phá mình và tàn phá những người đang trông cậy
vào mình.
Hạnh
phúc cũng là tập khí. Ví dụ mình đi thiền hành mà thấy
an lạc. Ban đầu mình cố để được an lạc, ráng an lạc.
Lúc đó là tại mình tu chưa giỏi. Đến khi đi thiền hành
thì tự nhiên mình thấy an lạc, không cần cố gắng chi cả.
Mỗi khi đi thiền hành là đi mà không hấp tấp. Đi mà hưởng
sự an lạc của từng bước chân. Cái này phải tập, dần
dần mới thành tập thói quen. Ban đầu khi mới về Làng thấy
ai cũng đi thong thả cả, mình đi hấp tấp như bị ma đuổi
thì coi nó không được. Mình chỉ muốn coi cho nó được thôi.
Nhưng từ từ thành thói quen mình nếm được sự khỏe khoắn
thì mình mới tự nhủ “Đi đâu mà vội mà vàng, cho vấp
phải đá cho quàng phải dây”. Rồi khi mình nếm được cách
đi thảnh thơi đó rồi thì mình thấy mấy kiểu đi khác không
hấp tấp nữa. Mình bỏ những lối đi như ma đuổi và chỉ
đi thiền hành thôi.
Ởđây
ta có hai danh từ. Một danh từ ở bài thứ tư là huân tập
và danh từ ở bài thứ bảy là tập khí. Huân (vasana) là ướp
vào. Giống như trà đem ướp bông lài thì có mùi bông lài.
Nếu ở lâu Làng Hồng thì thế nào cũng thấm. Tập khí có
thể là xấu có thể là tốt. Hạnh phúc cũng là một tập
khí. Nếu mình có thói quen sống nhẹ nhàng hạnh phúc rồi
thì hạnh phúc là chuyện tự nhiên dễ dàng. Anh là người
có khả năng có hạnh phúc dù phải đối diện những hòan
cảnh khó khăn. Đó là lời khen ngợi đẹp nhất đối với
một người. Chị là người có khả năng sống nhẹ nhàng
trước mọi khó khăn. Đó là lời khen ngợi. Đó là vấn đề
tập khí do công phu thực tập. Cho tới bây giờ chúng ta chỉ
mới học về cái chức năng đầu tiên của tâm thức thôi.
Đó là chức năng A lại gia tàng thức. Chúng ta chưa học những
cái như tưởng tượng, tri giác, nó có liên hệ tới thức
thứ sáu, thức thứ bảy và các thức đầu. Chúng ta chỉ
mới học cái chức năng đầu là duy trì và biểu hiện thôi.
Điều này tâm lý học Tây phương hoàn toàn không nói tới.
Không nói tới sự tiếp nhận duy trì và làm biểu hiện những
hạt giống. Tuy là nó có những người Tây phương không cho
là căn bản, trong khi trong Duy Biểu học cho là căn bản.
Nếu
chúng ta chưa hiểu hết thì cũng không sao. Khi ta học các bài
kế tiếp thì ta sẽ hiểu những bài đầu sâu sắc hơn. Tại
vì một bài chứa đựng những bài khác cho nên càng học thì
càng hiểu những bài cũ. Có những điều mà trí của chúng
ta chưa chấp nhận được. Chúng ta phải để cho nó một cơ
hội một thời gian vì nó chưa quen. Ví dụ như khi nói Làng
Hồng là một chủ thể chủ quan và, một chủ thể khách quan.
Cái tri giác đó có thể chứa đựng những cái sai lầm tại
vì ta chưa tiếp xúc được với cái Làng Hồng khách quan.
Chúng ta có thể nghĩ là có một Làng Hồng của tri giác chúng
ta và một Làng Hồng của thực tại khách quan về Làng Hồng
mà một ngày nào đó ta sẽ nắm được cái thực tại khách
quan của Làng Hồng. Bây giờ đây ta chỉ có một hình ảnh
của Làng Hồng do tâm thức chủ quan chúng ta tạo ra thôi.
Chúng ta nghĩ như vậy. Nhưng ta không biết rằng cái Làng Hồng
mà ta nghĩ là thực tại khách quan đó, nó cũng do tâm thức
của ta tạo ra thôi. Tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng.
Điều đó có thể chúng ta chưa hiểu. Ta nên biết rằng cái
tàng thức của ta nó có tàng thức cá nhân và tàng thức cộng
đồng. Ta biết như vậy. Ta biết rằng cái Làng Hồng này
hay cái nước Pháp này nó do tâm thức cá nhân và tâm thức
cộng đồng tạo tác ra. Nhưng ta vẫn nghĩ rằng tâm thức
là một chuyện. Nhưng nó phải có cái gì ở ngoài tâm thức
và căn cứ trên đó ta mới có hình ảnh của Làng Hồng, dù
hình ảnh đó là hình ảnh của tâm thức cá nhân hay tâm thức
cộng đồng. Điều đó là điều mà từ từ ta sẽ thấy khi
ta đi sâu vào trong Duy Biểu học. Nhưng mà ít nhất ta phải
mở lòng chúng ta ra để chúng ta thấy rõ ràng rằng chúng
ta chưa thấy. Chúng ta mới bắt đầu học là tâm thức có
hai loại: tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng. Nhưng
mà cái thấy và cái hiểu của chúng ta về cái tâm thức cộng
đồng nó còn sơ khởi lắm. Ta thường hay bị ám ảnh là
cái thực thể khách quan bên ngoài và cái nhận thức chủ
quan của chúng ta và chúng ta hay so sánh đối chọi và tự
hỏi làm thế nào một ngày kia tôi bỏ được ý niệm chủ
quan của tôi và tôi đạt được nhận thức rất khách quan
rất trực tiếp về cái thế giới. Thì mình nên nhớ là trong
lúc này mình chỉ cần biết một chuyện thôi là cái thực
tại khách quan mà mình nghĩ rằng nó có mặt độc lập với
cái tri giác nhận thức của mình đó, chính là sáng tạo phẩm
của tâm thức cộng đồng.
KỆ
THỨ 8
Biểu
biệt A lại gia
Là
thế giới tánh cảnh
Độc
ảnh và đới chất
Mười
tám giới hình thành.
“The
manifestation of Alaya, could be perceived as the field of things in themselves,
as that of representations and of mere images. All are included in the
eighteen realms of beings”.
Hai
chữ biểu biệt nó có nghĩa là thức. Biểu có nghĩa là biểu
hiện ra. Biệt là nhận thức. Và thức có hai công dụng đó.
Một là làm biểu hiện ra và hai là phân biệt nhận thức.
Biểu hiện ra thì cố nhiên là hai phần, phần thứ nhất là
chủ thể nhận thức và phần thứ hai là đối tượng nhận
thức, (subject of cognition and object of cognition). Biểu biệt.
Vậy thì A lại gia tức là tàng thức nó biểu hiện ra những
cái nào. Đứng về đối tượng nhận thức thì ta nhận thấy
nó có ba loại đối tượng của tất cả nhận thức. Tại
vì nhận thức nó có nhiều loại. Thường thường khi mà chúng
ta nói đến nhận thức chúng ta nghĩ tớí ý thức mà thôi.
Nhưng ý thức là một trong những tác dụng của thức mà thôi.
Ta biết rằng vai trò đầu tiên của thức là duy trì thế
giới, duy trì sinh mạng của mình. Duy trì các hạt giống đang
nằm trong tâm thức của mình. Nói như vậy để ta nhớ rằng
tâm thức có nhiều tác dụng có nhiều chức năng và chức
năng tri giác chỉ là một chức năng của thức mà thôi.
Ở
đây ta đang nói tới chức năng biểu hiện của thức. Thì
thức A lại gia cá nhân cũng như cộng đồng nó biểu hiện
ra làm ba loại đối tượng gọi là cảnh. Cảnh là đối tượng
của nhận thức (tiếng Phạn là visaya). Có khi chúng ta nói
là đối tượng nhận thức (danh từ mới, danh từ triết học
Tây phương). Có khi chúng ta gọi nó là tướng, tướng phần
(nimitta bhaga) tức là đối tượng nhận thức đó. Nó ngược
lại với cái kiến phần tức là chủ thể nhận thức. Có
khi chúng ta gọi là sở duyên, (alambhaga) sở duyên là đối
tượng của tâm thức, duyên ở đây tức là nhận thức. Nó
ngược lại với danh từ năng duyên là phần chủ thể. Trong
Duy Biểu học nói rằng thức căn bản của ta là A lại gia
nó biểu hiện ra bằng ba đối tượng nhận thức, có khi đạt
tới đối tượng này có khi đạt tới đối tượng kia. Đó
là nội dung của bài kệ.
Thứ
nhất là thế giới tánh cảnh tức là tự thân của thế giới,
tự thân của thực tại (la chose en soi, thing in itself, danh từ
của Kant). Tánh thức là bản chất của nó. Thế giới tánh
cảnh. Cảnh này từ chữ visaya mà ra. Tánh cảnh là thực tại
trong cái tự thân của nó mà có khi chúng ta không thể đạt
được. Ví dụ như núi Pyrénées nó có tự thân của nó, cái
tánh cảnh của núi Pyrénées. Còn cái hiểu biết, cái trí
giác của ta về núi Pyrénées có thể rất sai lầm. Có thể
là không dính dáng gì với tự thân của núi Pyrénées cả.
Cái nhận t hức của ta không có đạt tới tánh cảnh. Ví
dụ mình thương một hay ghét một người, đối tượng của
cái thương hay cái ghét của mình không hẳn là tự thân của
người đó. Cái tâm thức của mình nó biểu hiện ra một
cái đối tượng và mình thương cái đối tượng đó. Ví
dụ mình, là ông B yêu một người có tên là cô A, cái tự
thân của cô A và tạo ra trong tâm thức của ông một hình
ảnh của cô A chứ không hẳn là ông thương cái thực tại
cô A. Cũng như mình chụp hình, đưa cái máy như vầy và cái
máy của mình nó biến hiện ra một cái hình riêng trên phim
hình và mình chụp cái hình riêng đó. Mình không chụp được
cái thực tại của người đó, mình chỉ chụp được cái
hình người đó thôi. Khi mình yêu hay mình ghét thì mình tạo
ra một hình ảnh về người kia để mình yêu hay mình ghét.
Đối tượng yêu, ghét của mình đôi khi nó không dính dáng
gì đến thực tại của người kia hết. Ví dụ như khi có
người la ó nói xấu Thầy Nhất Hạnh là thế này, thế kia
thì việc nói xấu không dính dáng gì đến thực tại của
Thầy Nhất Hạnh cả. Tại vì trong cái nhận thức của mình
có những cái tưởng tượng, cái sáng tạo sai lầm về tâm
thức. Ví dụ như khi mình yêu thì người kia trở thành rất
đẹp, rất tuyệt vời. Và hình ảnh đối tượng của tình
yêu của mình thường rất xa vời. Nhưng khi cưới người
đó rồi, ở vài ba năm thì biết đối tượng, cái hình ảnh
mà mình ôm ấp mong nhớ mình không ngủ được để mà mình
nghĩ tới, là hình ảnh do mình sáng tạo đến chín mươi phần
trăm. Cho nên cái tánh cảnh (la chose en soi) mình không có đạt
được. Tâm thức mình, nó nương theo tánh cảnh mà tạo ra
một hình ảnh khác về thực tại đó và cho đó là thực
tại.
Và
cái hình ảnh kia, cái hình ảnh méo mó về thực tại kia là
một thứ cảnh khác gọi là đới chất cảnh. Tức là cảnh
giới mang theo một chút bản chất của tánh cảnh nhưng nó
không là tánh cảnh. Người mà mình yêu hay ghét đó không
phải là người có thực ở trong cuộc sống mà là cái người
do mình sáng tạo ra. Đó là đới chất cảnh. Thi sĩ Hàn Mặc
Tử yêu cô nào đó, nhưng không được cô ấy yêu lại, rất
đau khổ nhưng không bỏ được cô đó. Cho nên ông nghĩ rằng
nếu mình giết được hình bóng cô trong người mình thì mình
sẽ được giải thoát. “Làm sao giết được người trong
mộng”. Tại vì hình bóng của người trong mộng nó cứ đi
theo mình như một bóng ma. Giết người trong mộng chắc không
bị tù đâu, vì người trong mộng là đới chất cảnh, khi
nào giết tánh cảnh thì bị ở tù liền. Nếu có hình ảnh
người nào đó trong người mà mình giết hình ảnh đó thì
mình buông bỏ được và sẽ được giải thoát. Những nhận
thức của chúng ta những ước mơ, những thù hận của chúng
ta đều có những đối tượng đới chất cảnh rất nhiều.
Chúng ta thù ghét, chúng ta mê đắm những hình ảnh mà chúng
ta tự tạo trong tâm chứ chúng ta không thì ghét và mê đắm
cái thế giới thực tại. Cứ nghĩ đi, quý vị nghĩ là quý
vị biết núi Pyrénées, có thể là quý vị thấy vài cái hình,
có thể là quý vị leo núi vài giờ đồng hồ. Thật ra núi
Pyrénées nó giàu có hơn nhiều. Chính cái bản thân của chúng
ta mà chúng ta chưa đạt tới nữa. Thiền quán là nhìn sâu,
nhìn kỹ để đạt tới cái thực tại. Thực tại trước
hết là thực tại bản thân và kế đến là thực tại của
thế giới và trong quá trình đó mình phải buông bỏ những
hình bóng của tâm mình tạo tác. Ví dụ mình nghe những tên
như Mao Trạch Đông hay công trường Concorde. Khi nghe danh từ
đó thì trong tâm thức mình hiện ra những hình ảnh. Những
hình ảnh mình cho là đối tượng nhận thức của mình, nhưng
những đối tượng đó, phần lớn là những cái đó là do
tâm thức của mình nương vào cái đó để tạo dựng ra chứ
không phải là tự thân của thực tại. Rất là nguy hiểm.
Trong đời sống hàng ngày của mình nếu mình sống có chánh
niệm thì mới cảnh giác được. Cái người mình thương và
người mình ghét chưa chắc là mình đã thực sự ghét hay
thật sự thương cái bản thân của người đó. Có thể mình
chỉ ghét hay chỉ thương cái hình ảnh của người đó mà
mình tạo ra. Đôi khi mình mang tâm niệm hận thù trong suốt
ba bốn mươi năm mà mình chỉ hận thù cái hình ảnh do mình
tạo ra mà thôi.
Vì
vậy cho nên trong ánh sáng của Duy Biểu học chúng ta sống
trong thế giới của đới chất cảnh nhiều hơn thế giới
của tánh cảnh. Tâm thức của chúng ta không có đạt tới
thực tại, chúng ta biến chế ra một hình ảnh mà chúng ta
gọi là thế giới thực tại và chúng ta giam hảm chúng ta
trong thế giới đó. Ví như cụ Nguyễn Du nói: “Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Cụ nói rằng thế giới trong đó mình sống là do cái tâm
thức mình tạo ra. Khi tâm hồn của mình nó đen tối và u
buồn thì mình thấy cái gì cũng đen tối và u buồn hết.
Và cái thế giới mà mình thấy là thế giới của thực tại.
Đó là thế giới do tâm mình tạo tác.
Và
thế giới thứ ba là Thế giới độc ảnh. Thế giới này
chỉ cái hình ảnh thôi, không theo cái chất liệu gì cả.
Ví dụ khi ta nhìn vào tờ giấy này ta tin chắc là ta thấy
được thế giới tánh cảnh, là ta nhận thấy được cái
tự thân của tờ giấy. Nhưng mà có thể nói rằng tờ giấy
này chỉ đạt tới thế giới của đới chất cảnh mà thôi.
Thường thường là như vậy. Tâm thức chúng ta nó nương vào
thế giới tánh cảnh và nó tạo ra thế giới đới chất cảnh.
Như ta sống ba mươi năm với một người mà có thể có những
sự thật về người đó mình không nắm được. Không phải
chỉ mới bắt đầu mới gặp người đó mình không có hình
hảnh chính xác về người đó. Có thể sau khi sống hai ba
mươi năm mình vẫn chưa nắm được thực tại của người
ó. Đôi khi người đó thương mình cứ tưởng người đó
ghét mình. Đôi khi người đó không bao giờ có chủ tâm muốn
tiêu diệt mình mà mình cứ nghĩ là người đó muốn làm tình
làm tội mình. Tất cả những cái đó là những sáng tạo
của tâm thức và tất cả những cái mà mình ôm ấp giận
hờn, mình ăn htua đủ đó chỉ là đới chất cảnh chứ không
phải là tánh cảnh. Thành ra chúng ta hãy nhìn lên, nhìn ra,
nhìn xung quanh ta trời xanh kia, mây trắng kia, những trái núi
kia, những người có mặt xung quanh kia, những con chim kia mà
chúng ta tin rằng thuộc về thế giới của tánh cảnh, chúng
có thể chỉ thuộc về thế giới đới chất cảnh mà thôi.
Thành ra tôi ngồi đây uống trà với anh, anh ngồi đó anh
có thể chỉ là nằm trong thế giới đới chất của tâm thức
tôi mà thôi, vậy mà tôi cứ tưởng là anh thuộc về thế
giới của tánh cảnh, anh thuộc về thế giới hoàn toàn khách
quan. Thật ra là tôi đã tạo cho ra anh.
Ví
dụ như Bụt chẳng hạn. Bụt trong chúng ta thuộc về thế
giới đới chất hay tánh cảnh? Chúng ta đạt tới con người
đích thực của Bụt chưa? Hay là chúng ta chỉ sáng tạo ra
được một hình ảnh của Bụt bằng một số tài liệu mà
ta gom góp được trong kinh điển hay trong những điều mà người
ta nó. Có thể hình ảnh của Bụt mà ta có thể gần với
Bụt tự thân hơn là hình ảnh khác của Bụt mà ta có trước
đây năm mười năm. Tuy nhiên hình ảnh mới nhất này của
Bụt vẫn còn mang tính chất đới chất như thường. Và do
công trình tu tập và quán chiếu của chúng ta mà ngày càng
hình ảnh đới chất đó nó càng đi sát với thực tại tánh
cảnh của Bụt. Đôi khi ta có những hình ảnh về Bụt về
Cha ta, Mẹ ta, về anh em ta, về đồng bào của ta những sự
vật đang bao quanh ta và ta sống trong thế giới của đới
chất cảnh mà ta cứ đinh ninh là ta sống trong trong tánh cảnh
của thực tại tự thân. (Le monde en soi). Tôi ngồi uống trà
với anh, tôi thở và tôi mĩm cười nghĩ rằng hình ảnh của
anh có thể chỉ là hình ảnh của thế giới đới chất và
đêm đó tôi nằm mơ và thấy tôi tiếp tục uống trà với
anh. Thì ra hình ảnh trong giấc mơ của tôi về anh là hình
ảnh trong thế giới độc ảnh. Nó không còn là đới chất
nữa. Trong giấc mơ ta thấy những người thân, những người
lạ, những chuyện vui những chuyện buồn. Thế giới trong
mộng là thế giới độc ảnh. Ban đêm chúng ta nằm mơ, chúng
ta cũng khóc, cũng cười, cũng giận cũng sợ cũng vui vững
tin rằng những cái đó có thật cho tới khi chúng ta thức
dậy thì ta mới biết thế giới mà chúng ta đi qua là thế
giới của độc ảnh. Nhưng không phải chúng ta chỉ tiếp
xúc với thế giới độc ảnh khi ta nằm mơ. Đôi khi chúng
ta thức cũng vậy. Nếu chúng ta nhắm mắt lại và hình dung
hình ảnh của một người mà ta gặp cách đây hai mươi năm.
Hình ảnh người đó thuộc về thế giới độc ảnh. Ta không
đang ngồi uống trà với người đó. Ta chỉ hình dung người
đó thôi. Hình ảnh người đó hiển hiện trong ta thuộc về
thế giới độc ảnh. Vậy thì thức A lại gia của chúng ta
có rất nhiều hạt giống trong đó có hạt giống của đối
tượng nhận thức.
Thế
giới tánh cảnh, thế giới đới chất cảnh và thế giới
độc ảnh cảnh cũng phát hiện từ thức A lại gia. Ví dụ
ta nhắm mắt lai và hình dung ra tháp Eiffel ở Paris thì hình
ảnh Eiffel trong ta là độc ảnh. Còn nếu ta lên Paris đứng
trước tháp Eiffel thì trong ta có lúc đó có Eiffel của thế
giới đới chất. Còn tánh cảnh của tháp Eiffel thì chưa chắc
ta sờ mó được. Nhưng điều mà ta biết hình ảnh đới chất
có nương tựa vay mượn từ thế giới tánh cảnh. Thành ra
những cái yêu ghét của mình thường là đối tượng của
đới chất hay độc ảnh. Mười tám giới hình thành. Mười
tám giới là gồm ba cặp sáu: mắt (nhãn căn), tai (nhĩ căn),
mũi (tỉ căn), lưỡi (thiệt căn), thân (thân căn), ý (ý căn),
gọi là sáu căn cứ để phát sinh ra nhận thức và sáu trần
là sáu loại đối tượng của sáu căn kia là: hình sắc, âm
thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là mười hai cái gọi là
thập nhị xứ (ayatana). Khi mắt tiếp xúc với sắc nó phát
khởi ra tác dụng nhận thức mà ta gọi là cái thấy hoặc
cái nhận thức, cái nghe (nhĩ thức), cái ngửi (tỉ thức),
cái nếm (thiệt thức), cái chạm (thân thức), và cái biết
(ý thức). Pháp ở đây là đối tượng của ý (manas). Đối
tượng của ý (manas) là pháp (dharmas) mà pháp tức là dharmas
nó nằm trong ba thế giới này: thế giới tánh cảnh (vật
tự thân), thế giới đới chất cảnh (thế giới biến hiện
do tâm thức) và thế giới độc ảnh (thế giới của những
hình ảnh thuần túy). Tất cả là mười tám giới. Thập bát
giới tức là mười tám lĩnh vực của hiện hữu. Khi có người
khách tới hỏi Bụt thế giới là gì, thế nào gọi là tất
cả mọi sự vật? Bụt trả lời tất cả mọi vật nó gồm
trong mười tám giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức. Ngoài
ra nó không còn gì cả. Thành ra mười tám giới nó gồm tất
cả những lãnh vực của hiện hữu. Nó biểu hiện từ tâm
thức của chúng ta, tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng.
Khoa
học cho chúng ta vài dữ kiện để chúng ta lay đỗ những
nhận thức quá ngây thơ của chúng ta. Ví dụ như là khi khoa
học nói với chúng ta về vật chất và năng lượng (matters
and energy). Khoa học nói vật chất là sự cô đọng của năng
lượng và năng lượng là sự pha loãng của vật chất và
năng lượng là hai cái cùng một bản chất. Khi đặc thì nó
là vật chất, khi loãng nó là năng lượng và năng lượng
là sự pha loãng của vật chất. Kỳ trước mình học rồi.
Thành ra ta thấy vật chất và năng lượng là hai cái cùng
một bản chất. Khi đặc thì nó là vật chất, khi loãng nó
là năng lượng. Một gram vật chất mà biến thành năng lượng
thì nó có thể dời sông lấp biển được. Ví dụ như một
gram uranium khi mà biến thành năng lượng nguyên thử thì có
thể gớm lắm. Và năng lượng có thể biến thành vật chất.
Ví dụ như ánh sáng mặt trời là năng lượng. Nó biến thành
ra cải, lúa gạo, lúa mì… Tất cả những thực phẩm chúng
ta ăn mỗi ngày đều do năng lượng mặt trời làm ra cả.
Tất cả mọi loài trên chúng sanh trên trái đất đều tiêu
thụ mặt trời như thực phẩm. Cây cối mọc lên là nhờ
mặt trời. Nếu không có cây cỏ thì các loài thú vật không
có thức ăn. Trâu bò ăn cỏ, con người cũng ăn rau cỏ nhưng
ăn luôn thú vật mà ăn những thực phẩm đó. Khi ta chỉ ăn
thịt bò, heo thôi thì chúng ta cũng ăn cây cỏ như thường
và cũng ăn mặt trời như thường. Vì vậy cho nên, có một
sự thật mà ta cần biết là mỗi loài sinh vật trên trái
đất đều ăn năng lượng mặt trời.
Mặt
trời là Cha. Cha đi làm về nuôi con và trái đất là Mẹ,
sinh ra con, tất cả sinh vật trên mặt đất. Mặt trời là
một khối lửa, một khối vật chất vĩ đại, và cái khối
vật chất đó mỗi ngày được đem ra pha loãng (là sức nóng
và ánh sáng) để nuôi muôn loại. Khi chúng ta có một ý niệm
về vật chất và năng lượng thì ta thấy cái thương. Cái
cây dùng làm bàn để cất nhà. Một cục đá có thể dùng
làm một cái cối xay. Tất cả những hiện tượng vật chất
đó, nó có thể như phục vụ cho sự sống của chúng ta. Thân
thể của chúng ta là sinh lý. Bằng cái thân thể của chúng
ta có thể cày ruộng, có thể gánh nước, có thể nấu cơm,
thân thể ta phục vụ cho sự sống. Đó là những hiện tượng
vật lý và sinh lý. Những hiện tượng tâm lý cũng vậy như
là sự suy nghĩ cũng có thể tạo ra nhiều việc hay ho và nuôi
sống con người. Tình thương của chúng ta cũng có thể biến
thành năng lượng. Cũng như sự thù ghét của chúng ta cũng
vậy. Nó có thể gây ra biết bao đau khổ giết chóc. Vì vậy
cho nên các gốc cây, cái tảng đá, cái thân thể chúng ta
đều là năng lượng. Niềm vui nỗi khổ chúng ta đều là
năng lượng. Tất cả những nguồn năng lượng đó đều phải
xuất từ tâm thức cộng đồng của chúng ta mà tâm thức
là một cái gì rất mầu nhiệm. Tâm thức đó biểu hiện
ra chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Mà đối
tượng nhận thức là ba lãnh vực mà ta gọi là tam cảnh.
Khi mà ta nghiên cứu về mười tám lãnh vực của hiện hữu
thì mười tám lĩnh vực của hiện hữu trở thành đối tượng
của nhận thức chúng ta. Ta đọc lại bài kệ thứ tám: “Biểu
biệt A lại gia, là thế giới tánh cảnh, độc ảnh và đới
chất, mười tám giới hình thành”.
KỆ
THỨ 9
Tất
cả mọi hiện hành
Đều
tự biểu, cộng biểu
Dị
thục khi dự vào
Giới
và Địa cũng thế
Hiện
hành là một danh từ đi đôi với danh từ hạt giống. Hạt
giống cũng là hiện hành mà nó nằm vào thế tiềm phục,
ta không nhận thức được. Tới khi mà nó biểu hiện ra thì
ta mới nhận thức được và ta gọi là hiện hành. Vì vậy
ta gọi là tiềm thế và hiện thế. Đứng vào thế tiềm tàng
thì ta gọi đó là chủng tử, còn đứng vào thế biểu hiện
thì ta gọi đó là hiện hành. Ví dụ cái giận và cái buồn
trong tôi nếu nó đang nằm trong tiềm thế thì quý vị không
thấy được nhưng khi mà tôi giận tôi buồn cái mặt tôi
đỏ lên thì quý vị mới thấy. Lúc đó nó hiện hành nó
đứng về phía hiện thế. Tất cả mọi hiện hành tức là
mọi hiện tượng của thế giới từ vật lý sinh lý và tâm
lý đều tự biểu, cộng biểu, tức là những biểu hiện
chung và riêng. Nhìn sâu vào mỗi biểu hiện chung và biểu
hiện riêng của hiện tượng đó. Ví dụ như cái giận của
tôi. Khi tôi chưa giận những hạt giống giận của tôi nằm
ở thế tiềm tàng và không ai thấy. Họ nói ông này không
giận, không đúng. Ông này có hạt giống giận trong tâm. Khi
hạt giống giận đó biểu hiện ra quý vị nhìn cho kỹ cho
sâu vào cái giận đó thì quý vị sẽ tháy được cái bản
chất của cái giận đó. Nó đang hiện hành. Bản chất của
nó là tự biểu và cộng biểu tức là nó có tánh cách cá
nhân, vì nó là hạt giống cái giận trong tâm thức tôi. Và
khi hạt giống giận đó được tưới tẩm thì cái giận đó
phát hiện. Đó là cái giận của tôi. Đó là tính cách tự
biểu của hiện tượng nầy.
Nhưng
mà nhìn cho sâu thì mình thấy tánh cách cộng biểu của cái
giận này. Tại vì những người quen, những người thân của
tôi, những người đã sống chung đụng với tôi, những người
đó đã đóng góp vào sự gieo những hạt giống của cái giận
trong tôi. Vì vậy cái giận trong tôi nó có tính cách tự biểu
nhưng nó cũng có tính cách cộng biểu. Mình giận đời, giận
người, giận hết tất cả mọi cái, cái đó là tại vì mình
vô mình, mình thiếu sự hiểu biết nên mới giận. Nhưng tại
vì Cha, Mẹ, Thầy, bạn, xã hội, cuộc đời không cứu giúp
mình. Và trong sự chung đụng hằng ngày vì thiếu chánh niệm
nên gây thêm hạt giống đau khổ cho mình làm cho hạt giống
giận trong mình ngày càng quan trọng. Vì vậy cho nên hạt giống
giận trong tôi không phải chỉ một mình tôi chịu trách nhiệm.
Đôi khi Ông Bà tôi, Tổ tiên tôi cũng chịu trách nhiệm, Cha
mẹ, bạn bè tôi và xã hội tôi chịu trách nhiệm. Thành ra
chỉ nhìn vào hạt giống giận đang hiện hành trong một người
mình cũng có thể thấy được tánh cách của tự biểu và
cộng biểu.
Bây
giờ mình lấy ví dụ khác: Làng Loubes Bernac trong đó có Làng
Hồng. Loubes là một làng nhỏ của nước Pháp, nó là một
hiện hành. Nó là một pháp, một sự vật mà mình đang tiếp
xúc. Nó là vật sở hữu chung của tất cả dân làng này và
của chung của tất cả những người Pháp. Thành ra Loubes là
một hiện tượng cộng biểu của tất cả những người Pháp,
ai cũng có thể hưởng, đi thăm, mua nhà, mua đất ở làng
này, dẫm những bước chân trên làng này. Nhưng với người
dân ở làng Loubes Bernac thì miếng đất này thân thiết hơn
vì mình có những người thân sinh ra từ đây và chết ở
đây, mình cày ruộng này cho nên đối với những người dân
làng thì Loubes có tính cách tự biểu. Trong cái chung có cái
riêng. Chúng ta những thiền sinh tới từ nhiều nơi, không
sinh trởng từ làng này, ta tham dự vào cái làng Loubes Bernac
thì làng Loubes đối với chúng ta vừa có tính cách cộng biểu
và vừa tự biểu. Đáng lý thì ta không về đây làm gì vì
nhiều người trong chúng ta không bà con sinh đẻ gì từ làng
này hết. Nhưng tại vì ở đây có một trung tâm tu học nên
chúng ta đã về đây và tham dự vào cái hiện hành của Loubes
Bernac. Nhưng đối với chúng ta thì Loubes nó không giống với
những người đang sống dưới làng. Chúng ta có hình ảnh
rất khác về Loubes. Loubes đối với chúng ta là Làng Hồng
là chỗ đi thiền hành, là chỗ thiền tọa, chỗ có pháp thoại,
pháp đàm rất vui. Mà cái Loubes Bernac đó chính là những người
sinh ra và lớn lên tại Loubes cũng không hề tham dự, không
tiếp xúc được. Thành ra trong mỗi chúng ta có một Loubes
Bernac riêng là tự biểu và cái Loubes Bernac chung là cộng biểu.
Và chúng ta sống với Loubes trong hai mặt đó tự biểu và
cộng biểu. Có khi có những anh chàng dưới làng Loubes lên
chơi, chúng ta đi chung với anh ta chúng ta nói “Loubes đẹp
quá hả anh?” Anh ta rất nghi ngờ. Anh ta không thấy ở đây
đẹp như mình thấy. Anh ta không hiểu tại sao cảnh vật như
thế này mà lại khen đẹp được. Thành ra trong Loubes có tính
chất cộng biểu và tính chất tự biểu.
Ví
dụ khác: Bây giờ nói đến cái thần kinh thị giác của tôi
nó liên hệ đến tôi rất nhiều. Những hạnh phúc những
đau khổ của tôi nó tùy thuộc vào thần kinh thị giác của
tôi. Nếu nó mờ thì tôi không đọc sách được và vì vậy
cái dây thần kinh thị giác của tôi nó có tính cách tự biểu
nhiều hơn cộng biểu. Nó là vấn đề riêng của tôi, đó
là hiện tượng tự biểu nhưng thật ra nó cũng là hiện tượng
cộng biểu. Tại vì tôi thấy rõ hay không thấy rõ nó có
liên hệ tới những người trong cộng đồng tôi, nhất là
khi tôi lái xe đưa các bạn tôi đi ra ga. Ngồi trên chiếc
xe buýt có ba bốn chục người, mình hoàn toàn giao sinh mạng
mình cho ông tài xế và cái thần kinh thị giác của ông tài
xế không phải của riêng ông mà nó liên hệ tới sinh mạng
của nhiều người. Tất cả những hiện tượng vật lý trong
thế gian như cây, cỏ, sông, núi, những hiện tượng sinh lý
như thân thể mình và thân thể người khác và hiện tượng
tâm lý như cái giận cái buồn cái sợ cái lo của mình và
nhiều người khác, tất cả những hiện tượng đó là hiện
hành và hiện tượng nào cũng có tính cách tự biểu và cộng
biểu. Không có thể tìm ra được hiện tượng thuần túy
tự biểu hay không có hiện tượng nào thuần túy cộng biểu.
Mặt trời là mặt trời chung rất công bằng cho tất cả mọi
người. Nhưng mà mặt trời của tôi nó khác với mặt trời
của anh. Ngày hôm đó tôi muốn đi pique nique thì tôi mong mặt
trời của tôi nắng suốt ngày còn một người nông dân đang
trong trời mưa để tưới tẩm những hạt giống anh ta vừa
gieo thì cũng ngày hôm nay anh ta mong mặt trời đừng xuất
hiện, mặt trời phải có mây che lấp và có mưa để cho những
cây hướng dương của tôi sớm mọc lên. Và cũng cùng mặt
trời đó cả miền Bắc khí hậu nó khác, miền Nam khí hậu
khác, bên Úc khí hậu khác, Âu Châu khí hậu khác. Thành ra
mặt trời kia có tính chất cộng biểu mà cũng có tính cách
tự biểu.
Ở
Việt Nam mặt trời không quý lắm vì trời nóng quá. Vì vậy
ta mong thỉnh thoảng có một đám mây đi qua che mặt trời
cho ta được mát chút xíu. Còn bên này hạnh phúc là mặt
trời. Thành ra trong Duy Biểu học nói rằng tất cả mọi hiện
tượng vật lý sinh lý hay tâm lý dều có tính cách tự biến
và cộng biến. Có nhiều khi nó mang nặng tính cách cộng biểu
có khi mang nặng tính cách tự biểu.
Một
ví dụ nữa là pháp luật nước Pháp, trên nguyên tắc là
được chế ra cho những người công dân Pháp nhưng mà những
người dân thấp cổ bé miệng, không đủ cơ hội để có
một nền giáo dục tói thiểu thì người dân đó không thừa
hưởng pháp luật đó bằng những người trí thức. Có những
người cảnh sát họ hống hách và tại miền quê họ có thể
đàn áp, chèn ép những người nông dân không biết luật.
Nhưng nếu những người dân quê đó mà biết luật mà quen
biết lớn trong thành phố thì anh cảnh sát kia không dám làm
bậy đâu. Cho nên trên nguyên tắc thì pháp luật là chung,
ai cũng có thể thừa hưởng nhưng mà pháp luật cũng có cách
cộng và tự biến. Ví dụ nữa là một cây nến. Khi ta đốt
lên một cây nên thì sẽ có nhiều vùng ánh sáng: vùng 1 gần
cây nến (độ sáng có thể là 10), vùng 2 sáng ít hơn (độ
sáng là 7) và vùng thứ 3 thì lại yêu shơn nữa (độ sáng
là 4). Trong khi đó ta đốt lên ngọn nến thứ hai. Ngọn nến
này cũng phát ra những vùng ánh sáng thứ 1, hai và ba. Ánh
sáng cây nến này nó soi sáng cho nó mười phần và nó soi
sáng cho các vật khác 10 hay 8, 7, 6, 5, 4 phần và nó cũng soi
sáng cho cái đèn kia 4 phần. Đèn kia cũng vậy. Vùng ánh sáng
riêng của nó có thể gọi là tự biểu nhưng mà trong cái
vùng ánh sáng đó nó có mặt vùng ánh sáng khác của cái đèn
kia gửi tới. Vì ậy cái vùng này không phải tự biểu mà
nó có cộng biểu nữa. Nhìn kỹ lại vùng nào cũng vừa có
tự biểu vừa có cộng biểu. Vùng nào cũng vậy, ta không
thể tìm ra bất cứ hiển hiện nào chỉ là tự biểu hay chỉ
là cộng biểu. Điều này rất quan trong trong Duy Biểu học.
Sư
chú Pháp Đăng vừa là hiện tượng tự biểu mà cũng là hiện
tượng cộng biểu. Chú dã tự tạo ra đời sống của mình,
sự nghiệp tu học của mình, tạo ra đời sống an lạc của
mình. Đó là hiện tượng tự biểu nhưng mà Cha Mẹ của Sư
chú, bạn bè, Thày tổ của Sư chú, Tăng thân của chú cũng
đóng góp cho sự tạo tác ra chú Pháp Đăng. Thành ra chú vừa
tự biểu mà vừa cộng biểu. Ví dụ khác như cuốn Đường
Xưa Mây Trắng. Theo nguyên tắc thì cuốn đó là do một người
viết, Thầy viết. Nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy đó cũng
là sáng tạo phẩm cộng đồng tại vì ông bà của tác giả
có tham dự vào việc viết cuốn đó, Thầy tác giả cũng có
tham dự, bạn tác giả, học trò của tác giả đều có tham
dự. Đó là một cuốn sách cũng có tánh cách cộng đồng.
Nhìn vào một thiếu nhi phạm pháp mà đang bị cầm tù. Hành
động phạm pháp của thiếu nhi đó là sản phẩm của gia
đình, học đường và xã hội của nó, vì vậy hành động
phạm pháp của nó, tất cả chúng ta đều phải gánh chịu
chung. Chúng ta không có còn buộc tội thiếu nhi đó như một
người chịu trách nhiệm duy nhất nữa. Nhìn được như vậy
thì chúng ta hiểu được nhiều hơn và thương được nhiều
hơn.
Khi
một thanh niên bị vướng vào ma túy, anh ta dùng heroine và
cuối cùng không có tiền mua heroine để chích nên phải gia
nhập một đoàn buôn thuốc phiện lậu để có tiền. Ta thấy
người đó đang đi vào con đường tội lỗi, hại mình, hại
người vì hành động vướng vào ma túy và buôn bán ma túy
không phải là con đường đạo đức, nhưng nhìn kỹ vào tình
trạng thiếu niên đó ta vó thể khám phá ra những điều sâu
sắc. Có thể là thiếu niên đó trong thời thơ ấu không được
thương yêu. Mẹ Cha thiếu niên đó cãi lộn nhau, đã làm khổ
nhau và làm khổ chú bé đó. Thiếu tình thương, thiếu giáo
dục, thiếu thấy một cái gì đẹp, cái gì có ý nghĩa để
đi theo, thì người ta hay tìm sự quên lãng trong rượu, trong
ma túy, trong thuốc. Và vì vậy cho nên tất cả một xã hội
trong đó có cha mẹ, ông bà, học đường, văn hóa đã chịu
trách nhiệm về việc đã đẩy người thiếu niên đó vào
vòng nghiện ngập. Thành ra tình trạng nghiện ngập của thiếu
niên đó có tính tự biểu vừa có tính cộng biểu. Thiếu
niên đó tất nhiên là chịu trách nhiệm, nhưng tất cả những
người chung quanh thiếu niên đó cũng chịu trách nhiệm. Nếu
chúng ta thấy được điều đó chúng ta có thể hiểu và chúng
ta sẽ có thể thương được người thiếu niên đó. Chứ
nếu chỉ biết lên án và trừng phạt thì không thể nào giúp
được thiếu niên kia. Tại vì suốt đời của thiếu nên
đó đã từng bị trừng phạt trách móc la mắng rồi. Nếu
chúng ta chỉ biết trừng phạt trách móc la mắng thì không
bao giờ người thiếu niên đó thoát khỏi tình trạng kia.
Vì vậy cho nên những hành động như dùng những lực lượng
công an tổ chức đi lùng bắt khám phá những ổ ma túy là
nó ích lợi nhưng không phải là những hành động cơ bản.
Khi mà người ta tìm tới ma túy là vì người ta đau khổ muốn
tìm chỗ quên lãng, muốn trốn tránh đời. Tại sao người
ta lâm vào tình trạng đau khổ muốn lánh đời, trốn đời?
Tại vì người ta không có hạnh phúc. Gia đình không cho hạnh
phúc, học đường không cho hạnh phúc, xã hội không cho hạnh
phúc mà hiện giờ hàng chục triệu thanh thiếu niên trên thế
giới đang đi vào con đường đó. Thành ra hình phạt như bỏ
tù không phải là hành động có thể cứu người thiếu niên
kia qua cơn mê. Phải có tình thương, sự hiểu biết, phải
có phương thức để đem lại cho những người kia những ý
nghĩa những niềm vui trong sự sống thì mới giúp họ thoát
khỏi tình trạng tâm lý và xã hội nó dìm người đó xuống
vực thẳm. Tất cả những ví dụ đó đưa ra để quý vị
thấy rằng tất cả những hiện tượng tâm lý, vật lý hay
sinh lý đều là biểu hiện từ tâm thức như là một năng
lượng. Và hiện tượng nào cũng mang trong đó tánh cách tự
biểu và cộng biểu.
Dị
thục khi dự vào, giới và địa cũng thế. Chúng ta biết rằng
dị thục (vipaka) là một cái tên nữa của thức A lại gia.
Dị là khác và thục là chín. Thức A lại gia hay tàng thức
hay nhứt thiết chủng thức còn có tên mới này nữa là dị
thục thức. Di thục có ba nghĩa: dị thời nhi thục, dị loại
nhi thục và biến dị nhi thục.
Dị
thời nhi thục là không cùng chín một lúc. Ví dụ như ta hái
vào một trái mãng cầu, một buồng chuối và một trái mít
và đem cất vào kho. Trái mãng cầu có khi chín trước, buồng
chuối chín thứ hai và trái mít chín sau. Đó là dị thời
là khác thời. Những hạt giống của chúng ta do cha mẹ, ông
bà, bạn bè ươm vào và tưới nó chín trước chín sau tùy
thời gian. Thành ra đừng tự hỏi tại sao Thầy dạy hoài
mà chưa giỏi, tại sao đi thiền hành hoài mà chưa thấy an
lạc. Hạt giống nào cũng phải có thời gian chín mới được.
Sự thực tập là tưới tẩm những hạt giống trong chúng
ta. Ta tin rằng cứ tiếp tục tưới tẩm thì hạt giống đó
sẽ lớn lên đúng mức và tiếp tục chín muồi.
Dị
loại nhi thục là có nhiều loại hạt giống, nó khác thời
mà khác loại nữa. Nghĩa là trái chuối thì khi chín sẽ thành
trái chuối chín, mãng cầu khi chín thành mãng cầu chín chứ
không thành chuối được. Gọi là dị loại.
Biến
dị nhi thục nghĩa là khi chín thì biến dạng chứ không giống
như thời mới sinh. Ví dụ như trái cam mới sinh nó vừa xanh
vừa chát, vừa màu xanh mà khi chín thì biến thành màu vàng,
đỏ vừa ngọt. Thức A lại gia gồm đủ thứ hạt giống
và nó chín từ từ. Cái đau khổ và hạnh phúc của chúng
mình nó tùy thuộc vào sự chín tới của những hạt giống.
Hạt giống của hạnh phúc chín thì mình sẽ hạnh phúc còn
hạt giống của sự đau khổ chín thì mình sẽ đau khổ. Nhưng
mà dị thục thức là tổng thể của những hạt giống và
khi mà nó chín thì nó có sự tổng hợp và mình có thể thấy
được kết quả gọi là dị thục quả. Con người của mình
với tình trạng hạnh phúc đau khổ trong hiện tại là một
dị thục quả. Trái cây của mình trong giờ phút hiện tại
là kết quả của những hạt giống trong quá khứ.
Tôi
xin đem một ví dụ: tạm gạch một hàng ngang, chấm một chấm
tượng trưng cho mức hạnh phúc trung bình. Không hạnh phúc
lắm nhưng không đau khổ lắm. Có người A đó gieo trong ngày
hôm đó một hạt giống rất mạnh hoặc một người khác
gieo dùm cho người đó một hạt giống rất mạnh có thể
đưa người đó tới khổ đau hay hạnh phúc trong tương lai.
Và chúng ta hay vẽ một mũi tên. Ví dụ người đó làm một
hành động rất quả cảm đầy thương yêu và hành động
đó nặng chừng hai ba chục ký chẳng hạn. Hành động đó
khi mà chín sẽ đưa người đó lên có hạnh phúc. Thành ra
gieo một cái nhân (nghiệp nhân). Khi nghiệp nhân chín thì sẽ
đưa người kia đến mức này. Mức này thì hạnh phúc nhiều
hơn vị trí cũ phải không? Tới chỗ cao trên kia là nghiệp
quả. Trong tàng thức người đó vừa mới có một trái mãng
cầu hay trái mít gì đó vừa mới đặt vào, ta chưa biết
nghiệp quả và ta biết rằng hạt giống đã gieo thế nào
cũng tốt. Nhưng chiều hôm đó có thể người đó bị quyến
rũ và đã tạo ra một nghiệp khác không được tốt mấy.
Ví dụ người đó mắng chửi người khác và khiến cho người
khác mất hết niềm tin nơi mình và người đó bỏ tu học
và người đó xa thầy xa bạn đi luôn. Thành ra đó là hành
động không có xây dựng, người đó đồng thời gây vào
tâm thức của mình một nghiệp nhân xấu. So với nghiệp nhân
trước thì nghiệp nhân này nó nhẹhơn và sức mạnh của
nó yếu hơn. Chúng ta đơn giản hóa vấn đề nói rằng trong
tâm thức của người này chỉ có hai hạt giống thôi, hạt
giống thiện và bất thiện. Khi mà cái đó nó chín thì quả
dị thục sẽ đưa người đó về đâu? Theo nguyên tắc vật
lý học thì sau khi vẽ hình bình hành như vậy thì khi cả
hai hạt giống chín quả dị thục sẽ đưa người đó đi
về đâu? Theo nguyên tắc vật lý học thì sau khi vẽ hình
bình hành như vậy thì khi hạt giống chín thì quả dị thục
sẽ đưa người đó tới chỗ cộng lại chia hai của nghiệp
quả. Đây là địa vị của người đó trong tương lai khi
mà quả dị thục chín. Vì vậy dị thục có nghĩa là sự
kết hợp lại tất cả những nghiệp nhân khi mà nghiệp nhân
đó chín.
Ta
nhìn vào con người chúng ta tâm lý, sinh lý, hạnh phúc, đau
khổ của chúng ta thì chúng ta biết rằng đó là cái dị thục
quả trong giờ phút hiện tại. Nhìn lui thì chúng ta thấy những
nghiệp nhân mà chúng ta đã gieo, chúng ta nhận diện ra những
nghiệp nhân có trong quá khứ. Chúng ta nhờ Thầy, nhờ bạn,
nhờ cha mẹ những những điều kiện thuận lợi mà bây giờ
chúng ta được hưởng cái không khí trong lành an lạc của
Thiền hành. Ta nhìn trở lui ta thấy hết những nghiệp nhân
đã gieo ngày xưa. Chúng ta thấy rằng nếu những hạt giống
đó được tưới tẩm được chăm sóc được gieo trồng thêm
nữa thì ngày mai chúng ta sẽ khá hơn. Ví dụ như ta làm thêm
một hành động rất thiện thì cố nhiên hành động thứ
ba sẽ đưa ta lên khá hơn. Vì vậy cho nên khi ta nghe câu hỏi
của Jean Paul Sartres tức là “l’homme est la sôme de ses actes”.
Con người là tổng thể của những hành động của mình thì
mình biết rõ rằng là người của mình đây là tổng nghiệp
A cộng với B cộng với C chia ba.
Nghiệp
nhân là hành động ta làm ta gieo, nghiệp quả là kết quả
sau khi những nhân gieo đã chín. Vì vậy khi ta thực tập thiền
quán ta nhìn vào thân tâm ta trong hiện tại. Ta thấy trình
độ của hạnh phúc của sự nhẹ nhàng của sự giải thoát
của chúng ta. Rồi chúng ta phăng ra từ từ: trong quá khứ
chúng ta đã làm những việc gì, chúng ta đã được ai giúp
đỡ, chúng ta đã thực tập được những gì để hôm nay
được thanh thản đó, có được hạnh phúc đó, có được
sự tiêu giao đó, và ta đã làm những nghiệp nhân nào hôm
nay chúng ta vẫn còn những cái giận, cái buồn… vài cái
ganh ghét còn sót lại. Đó là hành động quán chiếu để
tìm ra những hạt giống năm xưa mà chỉ cần nhìn vào trái
cây là biết được hạt giống. Hễ tiếp xúc được hoa trái
thì mình có thể nhận diện hạt giống gieo ngày trước.
“Dị
thục khi dự vào, giới và địa cũng thế”.
Giới
là ba cõi trong đó chúng ta sống: cõi dục, cõi sắc và cõi
vô sắc và Địa là chín địa (từ địa thứ nhất là ngũ
thú tạp cư địa cho đến địa thứ chín là phi phi tưởng
phi phi tưởng xứ địa). Tam giới hay chín địa là những
cõi mà do tâm thức của nhiều người trong chúng ta cộng tác
để làm ra. Ví dụ như Làng Hồng chẳng hạn. Làng Hồng là
một sáng tạo phẩm của tâm thức cộng đồng. Thầy trò,
bạn hữu, đại chúng tu học, chúng ta đã dùng tâm thức của
chúng ta để sáng tạo ra Làng Hồng. Làng Hồng là thế giới
cộng biểu của chúng ta, chúng ta những người có tâm tu học,
chúng ta tạo dựng Làng Hồng để thừa hưởng và để tu
tập. Tam giới Cửu địa. Cửu địa là cõi mà tâm thức cộng
biểu của chúng ta cùng sáng tạo ra để chúng ta sống. Chúng
ta sống ở cõi dục, sắc hay cõi vô sắc hay là một thế
giới, một cõi nào đó thì cõi đó hoàn toàn do sáng tạo
phẩm của tâm thức cộng đồng của nhiều người. Dị thục
nó tìm tới và tham dự vào cái cõi giới và địa đó. Tại
sao bây giờ ta không ở Canada mà chạy sang Làng Hồng? Tại
vì chúng ta có cộng nghiệp với dân Làng Hồng? Đó là tham
dự vào giới địa. Tại sao bây giờ chúng ta không ở Bordeaux
mà lại lở Loubes. Tại vì trong chúng ta có một hạt giống
có liên hệ với hạt giống của những người đang ngồi
tại đây cho nên sáng hôm nay ta tìm tới đây. Vì thế cái
dị thục nó đi tìm cái đồng thanh tương ứng đồng khí
tương cầu để mà tham dự và có một sức mạnh nó kéo mình
tới. Để khi mình tham dự vào cái đó mà không đi tới tham
dự vào cái khác. Đó là những hạt giống đã được quyết
định sẵn trong dị thục quả. Dị thục quả là sự có mặt
của Làng Hồng và một Tăng thân tu tập. Dị thục nhân là
những hạt giống mình đã gieo trong quá khứ và chính những
hạt giống đó nó kéo mình tới chứ không phải người khác
kéo. Đó gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực này là thiện nghiệp.
Nhưng
nếu mà mình có hạt giống của ma túy thì mình đâu còn ngồi
đây, mình đang ngồi chỗ khác. Có những người bây giờ
đang ngồi xem video, phim chưởng hay đi nhậu nhẹt rượu thịt,
tại vì trong họ có những hạt giống nhậu nhẹt, rượu thịt
hay video bạo động còn mình thì có hạt giống Phật pháp
nên mình bị hút về đây. Thành ra chúng ta cứ nhìn vào dị
thục quả hiện giờ đây chúng ta biết ngay, sờ mó ngay được
những được hạt giống ta đã gieo trong quá khứ. Ngày hôm
nay ngồi trong nhà bếp nầy không phải là cái việc ngẫu
nhiên. Sự kiện mà ta ngồi đây, hôm nay, trong cái nhà bếp
nầy nó đã được quy định trước tức là những hạt giống
đã được gieo trước ở trâm tâm điền A lại gia của chúng
ta và hôm nay nó được tưới tẩm nảy nở và nó cho ta đủ
sức mạnh để chúng tới và tham dự trong cộng đồng tu học
nầy. Thành ra cữu địa hay là ba cõi là những cõi làm các
chúng sanh sáng tạo ra bằng tâm thức cộng đồng của họ.
Chúng ta chưa hiểu biết nhiều về tâm thức chúng ta đâu.
Tâm chúng ta mầu nhiệm vô cùng. Tâm chúng ta tạo ra Phật,
tạo ra ma, tạo ra thiên đường, tạo ra địa ngục. Thành
ra không có cõi nào mà tâm chúng ta không tạo được.
Dị
thục khi dự vào, giới và địa cũng như thế, chúng ta tham
dự vào giới thì dục giới có tính cách tự biểu mà cũng
có tánh cách cộng biểu. Cái dục giới đó là chung của chúng
ta. Nó có tính cách cộng biểu. Bây giờ xã hội Tây phương
được gọi là xã hội tiêu thụ nó là cái thế giới cộng
biểu nhưng mà các Sư cô, Sư chú các Phật tử ở đây chúng
ta đâu có tiêu thụ bằng những người hiện đang ở Paris
hay Bordeaux? Chúng ta đâu có trả tiền nhà nhiều như họ?
Cố nhiên là chúng ta đang sống thế giới cộng biểu, trong
cõi dục. Tất cả những quảng cáo trên truyền hình đều
là tưới tẩm những hạt giống dục của chúng ta. Nhưng mà
ở Làng Hồng chúng ta không có xem những quảng cáo đó nên
những hạt giống dục đó không bị tưới. Thành ra trong cái
chung mà đã có cái riêng rồi. Tuy ở Pháp trong xã hội tiêu
thụ nhưng mà người dân Làng Hồng không có bị ảnh hưởng
nặng nề bởi sự khêu gợi, sự kích động của những quảng
cáo. Trong khi những người ở Paris và các thành phố lớn
họ thuê nhà, rồi phải đi làm, rồi trả tiền nhà, tiền
điện, nước, thuế… Họ trả nhiều lắm thành ra họ làm
cực lắm. Phải làm như là con trâu thì mới có tiền để
mà trả đủ những nhu yếu đó. Trong khi đó tuy là chúng ta
cũng ở Pháp, cũng ở trong xã hội tiêu thụ, nhưng mà ở
đây nếu tính ra chúng ta trả ít hơn nhiều. Tiền thuế nhà
cửa, thuế đất, tiền ăn, tiền uống ít hơn nhiều. Những
ăn uống tiêu thụ của ta cũng vậy, so sánh thì nó ít hơn
người khác nhiều. Thành ra tuy là cùng cõi dục nhưng mà chúng
ta ít dục. Vì vậy ta lại thấy được mọt khía cạnh của
sự thật nữa là trong cái cộng biến, thế nào cũng có cái
tự biến. Vì vậy cho nên các vị hiền thánh cũng có thể
ở trong cõi dục nhưng không bị cái dục nó làm cho trôi nỗi
bềnh bồng. Cõi này có thể gọi là phàm thánh đồng cư.
Cũng xã hội tiêu thụ đó, cũng những cái dục vọng cám
dỗ người đó, nhưng mà những người thánh thiện thì họ
vẫn giữ được cái tự do an lạc, trong khi những người
phàm phu thì bị đắm chìm. Trong cái chung nó có cái riêng,
trong cái riêng nó có cái chung. Có cái đồng thanh tương ứng
đồng khí tương cầu.
Có
một lần Bụt ngồi trong tịnh xá Kỳ Viên, Ngài nhìn ra ngoài,
chỉ ra ngoài sân và nói chuyện với vài vị đệ tử xung
quanh. Ngài nói “Các Thầy thấy không? Nhìn ra mà coi, các
Thầy có thấy rằng những Thầy mà ưa pháp đàm đang ngồi
vây quanh Thầy Xá Lợi Phất phải không? Tại vì các người
đó ưa pháp pháp đàm với Thầy Xá Lợi Phất. Còn các Thầy
mà ưa giới luật, ưa học về tì ni thì ngồi quanh Thầy Ưu
Bà Ly. Còn các Thầy ưa học thuyết pháp thì đang quay quần
bên Thầy Phú Lâu Na. Tại vì Thầy Xá Lợi Phất pháp đàm
giỏi, Thầy Ưu Bà Ly giới luật giỏi và Thầy Phú Lâu Na
thuyết pháp hay. Có nghĩa là trong tâm mình có cái ý muốn,
cái sở thích, cái nghiệp lực của mình như thế nào thì
sự tham dự của mình vào cái giới vào cái địa đó cũng
vậy. Thành ra khi mình tìm tới một người bạn để mà chơi
tại vì mình với người bạn đó có sự đồng thanh tương
ứng đồng khí tương cầu, Affinities. Trong cái dị thục của
mình nó ghi chép đủ và dị thục của mình thì đến cái
giới và cái địa của mình rất tự nhiên. Đó là nghĩa của
câu “Dị thục khi dự vào, Giới và Địa cũng thế”.
Trong
bài kệ thứ chín chúng ta học rằng: Tất cả mọi hiện hành
trong tàng thức, chúng ta có tất cả điều tự biểu, cộng
biểu, dị thục khi dự vào giới và địa cũng thế. Nghĩa
là mọi hiện tượng mà chúng ta tiếp nhận, tri giác, hiện
tượng nào cũng mang trong nó tính cách tự biểu, cộng biểu,
tức là tính cách chung và riêng. Khi mà những trái cây chín
và tham dự vào những cái giới và những cái địa thì cái
dị thục đó cũng có tính cách tự biểu và cộng biểu. Giới
là tam giới và địa là cửu địa. Tam giới là: Cõi dục,
cõi sắc và cõi vô sắc. Cửu địa có khi gọi là cửu hữu.
Cửu này là cõi. Chúng ta thường nghe tứ sanh gồm bốn loại
tức là bốn loại sinh vật (sanh bằng bào thai - thai sinh -
như là con người, sanh bằng trứng như con chim con rắn - noãn
sinh, sanh từ nơi ẩm thấp - thấp sinh - và sanh bằng cách
biến hóa, như loài tằm con bướm). Cửu hữu là chín cõi
có khi gọi là cửu địa hoặc cửu chúng sanh cư hoặc cửu
hữu tình cư, chỗ cư trú của các loài hữu tình.
Địa:
1/
Cõi dục giới, trong này loài trời và loài người ở chung,
thú là đi về. Chúng ta có năm cõi để đi về: cõi trời,
cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và súc sanh). Cõi
này, đặc tính của nó là nhiều ham muốn, ngũ thú đồng
cư địa.
2/
Cõi phạm chúng thiên, trong này người ta có thân thể khác
nhau nhưng cách suy nghĩ giống như nhau. Cõi này cũng được
gọi là cõi trời của đệ nhất thiền thiên.
3/
Cực quang tịnh thiên, trng cõi trời này có rất nhiều ánh
sáng. Thân thể thì như nhau nhưng sự suy nghĩ khác. Gọi là
nhị thiền thiên.
4/
Biến tịnh thiên, cõi này có nhiều sự thanh tịnh. Thân và
tâm nó giống hệt như nhau. Còn gọi là tam thiền thiên thiên.
Cõi trời của tam thiền.
5/
Vô tưởng thiên, là cõi không có tri giác, cõi cao nhất của
tứ thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Còn
bốn địa chót thuộc về thế giới vô sắc, đó là bốn
địa cao nhất. Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sơ
hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Không
vô biên xứ: cõi này chỉ có không gian vô biên.
Thức
vô biên xứ: cõi này chỉ có thức vô biên.
Vô
sơ hữu xứ: cõi này người ta không thấy sự có mặt của
mọi hiện tượng.
Phi
tưởng phi phi tưởng xứ: là cõi không có tri giác mà cũng
không phải là không tri giác. Ba giới là cõi dục, cõi sắc
và cõi vô sắc.
Giới:
1/
Cõi dục, trong này nhiều ham muốn dục vọng.
Có
năm loại: ngũ thú.
2/
Cõi sắc, có bốn: Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ
thiền.
3/
Cõi vô sắc, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở
hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Tất
cả là chín địa hay chín cõi. Cửu hữu. Tứ sanh, cửu hữu.
Có khi gọi là cửu chúng sanh cư. Chín chỗ của loài chúng
sanh. Cửu hữu tịnh cư. Cũng là chỗ cư trú của chúng sanh.
Khi
mà cái quả dị thục chín thì tùy theo cái tính chất đồng
thanh tương ứng đồng khí tương cầu mà chúng tham dự vào
cái giới hay cái địa. Ví dụ Làng Hồng là một vùng nhỏ
ở Âu Châu là một vùng lớn. Mình thuộc về cái vùng lớn
nhưng mình tới tham dự vào cái vùng nhỏ. Sự tham dự vào
cái vùng nhỏ tùy thuộc vào bản chất của dị thục mình,
tại vì mình có nhiều sự gần gũi, nhiều sở thích với
địa phương đó, với giới đó, và địa đó. Ví dụ như
đây là cái thế giới thì cái dị thục của chúng ta nó tham
dự vào cả thế giới đó nhưng dị thục đặc biệt kéo
chúng ta vào tham dự một vùng riêng biệt. ví dụ như mình
ở Âu Châu thì cố nhiên là ta tham dự vào Âu Châu này chúng
ta có liên hệ với tất cả Âu Châu nhưng khi chúng ta về
Làng Hồng thì chúng ta tham dự vào cái địa này, chúng ta
ở đây chúng ta chia xẻ, chúng ta sống, chúng ta vui, chúng
ta buồn, chúng ta tạo nên cái địa này nhưng mà không có
nghĩa chúng ta bỏ cái kia (Âu Châu), ta vẫn còn tham dự với
cộng đồng kia, dị thục nó tham dự vào trong cái cộng và
cái tự, cái chung và cái riêng. Tuy là chúng ta tới Làng Hồng
tham dự cái địa này nhưng mà cái thành phố kia của Âu Châu
mà chúng ta đang có người thân quen vẫn còn đó, ta vẫn còn
tham dự vói thành phố đó nhưng hiện giờ ta đang tới tham
dự vào cái vùng nhỏ ấy vì mình có nhiều cái sở thích
giống nhau.
Có
tất cả chín địa. Khi mà ta tham dự vào một trong chín địa
thì không có nghĩa là dị thục chúng ta không tham dự vào
tám địa khác nhưng tham dự vào tám địa kia loãng hơn, trong
khi địa thứ chín đặc hơn. Ví dụ chúng ta đang ở nước
Pháp là làng Loubes Bernac. Loubes Bernac thì đậm hơn còn Paris
và các thành phố khác thì loãng hơn. Chúng ta có tham dự vào
cả hai. Dị thục ta tham dự vào tính cách chung và đồng thời
tham dự vào tính cách riêng nữa. Vì vậy cho nên mình đang
ở cõi không vô biên xứ thì tham dự vào cõi này rất đậm
đà, nhưng điều đó mình không có nghĩa là không tham dự
vào cái địa khác. Tại vì trong mình có thảy chín địa.
Và khi một địa biểu hiện đậm đà thì các địa kia bị
mờ đi. Như máy truyền hình khi mình mở đài đài thứ ba
ra thì đài này rất rõ nhưng không có nghĩa là các đài kia
không có. Dị thục là trái cây của tâm thức mình, khi chín
thì nó tìm tới, tham dự vào cái địa nó gần gũi với cái
nghiệp của mình nhất. Ví dụ trong tàng thức mình nó có
cái nghiệp của xì ke ma túy. Tự nhiên có hấp dẫn lực nào
đó, nó kéo mình tới sống chung với những người ưa ma túy.
Ở đây cũng vậy nó có chín địa, trái dị thục của chúng
ta nó đưa tới tham dự một cách sâu sắc cái giới, cái cõi
đó.
KỆ
THỨ 10
Là
vô phú, vô ký
Vừa
chuyển lại vừa hằng
Tàng
thức luôn tương ứng
Năm
tâm sở hiến biến hành
Vô
phú là không bị che lấp (unobstructed; anivrta) không bị làm
cho đen tối. Có một cái thức bị che lấp luôn luôn bởi
một màn vô minh đó là thức thức bảy (mạt na thức, manas)
còn thức thứ tám không bị che lấp. Tánh chất thứ hai của
thức thứ tám này là vô ký (undetermined: avya - kita). Tam tánh
là ba tánh: thiện, bất thiện, và vô ký. Mỗi hành động,
mỗi lời nói, mỗi tư tưởng của chúng ta đều thuộc vào
một trong ba tánh. Những hành động nào mà ích lợi cho mình
và cho người là thiện, hành động nào mà hại mình và hại
người là bất thiện hay ác và những hành động vô thưởng
vô phạt thì gọi là vô ký (undetemined). Vừa chuyển lại vừa
hằng. Chuyển là luôn luôn biến chuyển (always transforming.
Alwas changing: chuyển), hằng có nghĩa là hoạt động một cách
liên tục, gọi là hằng. Trong khi đó là các thứ khác như
thức thứ sáu, trong khi chúng ta đi ngủ thì nó ngưng hoạt
động, nên không gọi là hằng. Khi đi ngủ mà chúng ta nằm
mơ thì thức thứ sáu còn làm việc, nhưng có khi nó ngưng,
nó không vận hành. Vì vậy khi làm, khi nghỉ thì không gọi
là hằng. Mà sáu thức kia cũng vậy cái thấy, cái nghe, cái
ngửi, cái nếm, cái chạm, nó không hằng, nó không hoạt động
ngày đêm. Trong khi tàng thức làm việc ngày đêm không ngừng
nghỉ. Mà công việc chính của thức này là duy trì lại tất
cả mọi cái, tất cả những hạt giống trong nó, không làm
cho nó rã ra. Làm suốt ngày đêm, thức cũng làm việc mà ngủ
cũng âm thầm làm. Nhưng hằng không có nghĩa là thường. Hằng
là làm việc liên tục (flowing). Và vì vậy hai danh từ này
nó vẫn diễn tả được thức thứ tám. Giống như một giòng
sông. Dòng sông thì vừa chuyển lại vừa hằng. Nhìn thì thấy
như vẫn còn nguyên nhưng nó luôn luôn chuyển biến, không
ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông, không giống nhau
trong hai giây phút liên tục.
Vừa
chuyển mà vừa hằng. Trong bài Ruột đau chín khúc có câu
“Chúng ta còn đây trong cuộc đời hằng chuyển, sẽ xin đứng
bên nhau mà dựng lại quê hương. Vô phú và vô ký, vừa chuyển
lại vừa hằng, tàng thức luôn tương ứng, năm tâm sở biến
hành (five universala: xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư). Tương
ưng là nó ăn rơ với nhau, nó hợp với nhau gọi là tương
ưng (sampayuta). Sở dĩ gọi là biến hành vì nó vận hành là
một cách phổ biến. Thức nào trong tám thức cũng có nó cả,
đêm ngày gì tàng thức cũng làm việc với năm tâm sở biến
hành đó. Nhưng xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư đó nó không
giống nhau trong mỗi thức. Mỗi thức có cách làm việc riêng
cho nên xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư của tàng thức không
giống với xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư của thức thứ
bảy hay thức thức sáu. Tại vì hình thái nhận thức của
thức thức tám nó khác với hình thái nhận thức của các
thức khác. Hình thái nhận này gọi là Lượng (pramana) mode
of cognition. Có ba hình thái nhận thức gọi là Tam lượng:
khi mà nhận thức có tánh cách trực tiếp, đi thẳng mà không
đi ngang qua sự so sánh thì gọi là Hiện Lượng. Nó giống
như một trực giác (direct congition), tiếng Phạn của hiện
lượng là pratyaksa brahamana. Đó là tính cách nhận thức của
thức thứ tám. Nó không suy nghĩ, không so sánh, nhưng mà thức
này nó chỉ là hiện lượng thôi. Và năm tâm sở biến hành
(The five universala) cũng làm theo cách đó. Xúc, tác ý, thọ,
tưởng, tư, luôn luôn là trực tiếp, không qua trung gian suy
luận. Ví dụ như mình nhìn thấy lửa biết đó là lửa không
cần suy nghĩ gì cả. Đó là hiện lượng. Nhưng khi mình thấy
bốc hơi khói phía sau bức tường mình biết rằng sau bức
tường thế nào cũng có đống lửa. Đó gọi là Tỉ lượng
tức là nhận thức đạt được do sự suy nghĩ, sự so sánh.
Tỉ là so sánh, gọi là samana anumana pramana (tỷ lượng). Anumana
là tỉ là có sự so sánh. Nhưng thức thứ tám nầy không dùng
tỉ lượng. Nó không suy nghĩ, nó trực tiếp. Nhưng hiện lượng
và tỉ lượng đều có khi đúng có khi sai. Khi sai ta gọi là
Phi lượng. Vì có khi thấy khói sau bức tường mình chắc
mẩm là lửa nhưng té ra sương mù. Sương mù mà nói là lửa
thì gọi là phi lượng. Mà chúng ta sống với phi lượng nhiều
lắm, vậy mà ta vẫn chắc mẫm là hiện lượng. Như vậy
nhận thức của chúng ta thường có ba hình thái nhận thức
gọi là tam lượng: hiện lượng, tỉ lượng và phi lượng.
Trong hiện lượng của thức thứ tám nó có xúc, tác ý, thọ,
tưởng, tư và năm tâm sở đó, nó cũng hành động theo hiện
lượng. Tức là xúc cũng trực tiếp xúc, tác ý trực tiếp
tác ý, thọ cũng trực tiếp thọ, tưởng, tư cũng trực tiếp
thọ, tưởng, tư chứ không có suy luận vào trong đó, vì tính
chất của tâm sở nó đồng là tính chất của tâm vương.
Tâm sở là nội dung của tâm vương, cũng như những giọt
nước là nội dung của dòng sông. Vậy thì thức thứ tám
là tàng thức và cả năm tâm sở đó, chủ thể cũng như đối
tượng đều vô phú vô ký đều hằng và chuyển. Không những
cả tàng thức nó vậy mà mỗi hạt giống, mỗi đối tượng,
mỗi nhận thức mỗi tâm sở của nó đều như vậy hết.