BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
VỤ TỰ
THIÊU CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC
Hòa
Thượng Thích Đức Nghiệp
Với
mục đích nêu gương Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi của
Phật giáo Việt Nam mà Hòa thượng Thích Quảng Đức đã quên
mình vì đạo, vì dân, đồng thời ghi lại tất cả sự thật
về vụ tự thiêu này để các Phật tử chúng ta, ở trong
và ngoài nước, hiện tại và tương lai phải nghĩ gì, và
làm gì cụ thể trên tiến trình hoằng pháp, lợi sinh và góp
phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới chung của Dân tộc
và Đạo Pháp. Tôi viết hồi ký đặc biệt này với tư cách
là chứng nhân Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam tại
Sài Gòn, trong suốt cuộc vận động của Phật giáo năm 1963
đối với chính quyền Ngô Đình Diệm.
Sở
dĩ có công cuộc vận động này, là phát xuất từ chính sách
kỳ thị tôn giáo và gia đình trị của chế độ ông Diệm
từ cuối năm 1954 đến cuối năm 1963, từ vĩ tuyến 17 tới
Cà Mau Việt Nam. Lý do phong trào Phật Giáo Việt Nam năm 1963
được thành công rực rỡ, có một không hai, là vì có chính
nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân và phù
hợp với xu thế tiến bộ, dân chủ và bình đẳng chung của
toàn thế giới. Thêm vào đó, bấy giờ Phật giáo lại áp
dụng phương pháp bất bạo động để giác ngộ cho đối
phương. Nói chung, biến cố lịch sử 1963 xảy ra, được như
sau và chỉ đặc biệt chú trọng riêng về vụ tự thiêu của
Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Xuyên
qua những dữ kiện lịch sử, thì việc cố tình kỳ thị
tôn giáo của chế độ ông Diệm đã tiềm phục từ lâu,
cụ thể thì từ 1957 tới 1963 qua những bản phúc trình của
Phật giáo Trung Việt. Đặc biệt vào lễ khánh thành nhà thờ
Đức Mẹ La Vang tại Quảng Trị, trùng hợp với đại lễ
Phật Đản hàng năm, từ ngày 8-4 đến 15-4 Âm lịch trên toàn
quốc. Vào dịp lễ khánh thành này, ông Diệm, ông Nhu, ông
Cẩn, Giám Mục Ngô Đình Thục cùng đi dự lễ. Trên đường
tới nhà thờ tại Quảng Trị, phải đi qua thành phố Huế,
thấy trang hoàng cổng chào nhà thờ và cờ Phật giáo rợp
trời, ông Diệm mới hỏi người tùy tùng và được trả
lời : Đây là cờ Phật giáo. Do đó, ông Diệm liền hạ lệnh
cho Quách Tòng Đức, Đổng lý văn phòng phủ Tổng Thống,
cùng đi theo : "Hãy gởi gấp công điện, khắp nơi phải hạ
cờ Phật giáo xuống !". Đó là nguyên nhân chính xảy ra cuộc
tranh đấu Phật giáo chống chính quyền ông Diệm vào mùa
Phật Đản, năm 1963.
Tiếp
đến là vụ thảm sát các hàng Phật tử hồi 9 giờ tối,
đêm ngày 15-4 ÂL (8-5-63) trước đài phát thanh Huế để nghe
tin tức về đại lễ Phật Đản, do các công lực của chính
quyền gây ra.
Kết
quả là tám (8) Phật tử chết tại chỗ; và bốn Phật tử
bị thương phải mang vào bệnh viện cấp cứu !
Sáng
hôm sau, Hòa thượng Hội Chủ, Thích Tịnh Khiết, Tổng Hội
Phật giáo Việt Nam, khẩn cấp triệu tập một phiên họp
bất thường, gồm các vị lãnh đạo cao cấp Phật giáo, tại
chùa Từ Đàm, Huế để tìm phương tiện đối phó với chính
quyền và chính thức soạn thảo một bản Tuyên Ngôn gồm
5 điểm như sau để gởi tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm
:
1.
Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công
điện triệt hạ giáo kỳ Phật giáo.
2.
Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc
biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa giáo đã được
ghi trong đạo dụ số 10.
3.
Yêu cầu chính phủ chấm dứt trình trạng bắt bớ và khủng
bố tín đồ Phật giáo.
4.
Yêu cầu cho Tăng Ni Phật tử được tự do truyền đạo và
hành đạo.
5.
Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những
kẻ chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền
bù xứng đáng.
Đến
ngày 10-5-1963, bản tuyên ngôn gồm năm nguyện vọng nêu trên
đã được gởi đi khắp nước. Riêng tại Sài Gòn, đã được
một sĩ quan Đại úy, người Phật tử, đích thân từ Huế
mang vào chùa Ấn Quang và Xá Lợi đầy đủ bản Tuyên Ngôn
nói trên cùng những hình ảnh về vụ thảm sát các Phật
tử và chính quyền Huế.
Ngay
sau đó, theo văn thơ chỉ thị của Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết, đã thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo
Việt Nam, gồm tất cả 11 tập đoàn giáo phái Phật giáo,
dưới sự lãnh đạo tối cao của Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết, để trực tiếp gặp Tổng Thống Diệm hầu mong giải
quyết đẹp đẽ mọi vấn đề giữa Phật giáo và chính phủ.
Song, không đạt được bất cứ việc gì cho Phật giáo. Bởi
vậy, Ủy Ban Liên Phái bắt buộc phải hành động theo phương
pháp bất bạo động.
Ở
Sài Gòn, hành động đầu tiên là cử Thầy Thích Thanh Minh
ra Huế để kiểm tra mọi biến cố giữa Phật giáo và chính
quyền hữu quan.
Tiếp
theo Thượng tọa Thiện Minh ở ngoài Huế vào tường trình
mọi sự việc đã xảy ra.... Đồng thời cho mời cá nhân
tôi đến chùa Ấn Quang dùng cơm trưa với Thượng tọa Tâm
Châu và Thượng tọa Thiện Hoa. Sau bữa ăn, Thượng tọa Thiện
Minh có mời tôi giữ chức Trưởng ban ngoại giao và điều
hành mọi Phật sự trong Ủy Ban Liên Phái. Thêm ý kiến, Thượng
tọa Thiện Hoa đề nghị tôi giữ chức Đại đức Tổng Tư
Lệnh, còn Thượng tọa Tâm Châu, chủ tịch Ủy Ban Liên Phái,
thì hoàn toàn tán thành cả hai ý kiến của hai Thượng tọa
Thiện Minh và Thiện Hoa. Biết rằng lúc đó tôi là Giám đốc
Trường Trung Học Vạn Hạnh của Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt
tại miền Nam, đồng thời tôi là giáo sư Anh ngữ tại các
trường Trung học Vạn Thắng, Nguyễn Công Trứ và Thăng Long
tại Sài Gòn. Nghĩa là tôi chưa đi học tại Mỹ.
Bấy
giờ, phải nói rằng : Ở Huế thì có chùa Từ Đàm, Báo Quốc,
Linh Quang và Diệu Đế; ở Sài Gòn, thì có chùa Ấn Quang,
Xá Lợi, Giác Minh và Từ Quang. Tất cả đều là trung tâm
đầu não để xuất phát những cuộc biểu tình, tuyệt thực,
thuyết pháp và họp báo để đương đầu có hiệu quả đối
với chính quyền. Đặc biệt, lúc đó, Sài Gòn là thủ đô
của ông Diệm và các phái bộ ngoại giao cũng như các nhà
báo quốc tế đều tập trung ở đây, dễ đương đầu có
hiệu quả đối với chính quyền.
Ngày
21-5-1963, giáo lệnh của Hòa thượng Tịnh Khiết ban bố khắp
nơi, đều phải tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân Phật
tử tại đài phát thanh Huế.
Tại
Sài Gòn, chùa Ấn Quang vâng lệnh tổ chức rước linh từ
chùa Ấn Quang tới Xá Lợi để làm lễ cầu siêu. Mặc dầu
Phật giáo có báo tin trước cho chính quyền Sài Gòn biết,
tối hôm trước, ông Quách Tòng Đức, Đại diện Tổng Thống
phủ; ông Nguyễn Phú Hải, Đô trưởng Sài Gòn Chợ Lớn và
ông Quận Trưởng quận 5, đều đã có mặt tại chùa Ấn
Quang để xin ngưng việc rước linh tới chùa Xá Lợi. Nhưng
việc rước linh và diễn hành đầu tiên vẫn được tiến
hành như đã dự định của Ủy Ban Liên Phái.
Vào
14 giờ, ngày 30-5-1963, đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
ở Huế đã ra chỉ thị cho các cấp Phật giáo phải tổ chức
tuyệt thực đòi hỏi chính quyền thực thi năm nguyện vọng.
Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái chúng tôi tuân luyện tổ chức
ngay một cuộc biểu tình tại Công trường Lam Sơn trước
quốc hội, từ 12 giờ 5 phút tới 5 giờ chiều, rồi diễn
hành, căng biểu ngữ, về tới chùa Xá Lợi tuyệt thực suốt
48 giờ. Dịp này có Hòa thượng Thích Quảng Đức tham dự
và Ngài có gởi một bức tâm thư xin tự thiêu lên Ủy Ban
Liên Phái, để ngày 27-5-1963. Tuy nhiên, Ủy Ban Liên Phái bác
bỏ nguyện vọng tự thiêu này.
Sau
cuộc tuyệt thực đó, Ủy Ban Liên Phái lại tổ chức rước
linh hàng tuần vào mỗi buổi sáng ngày chủ nhật, để luân
phiên cầu siêu tại các chùa trong Sài Gòn; Chợ Lớn, Gia Định,
là trụ sở chính của mỗi giáo phái trực thuộc Ủy Ban Liên
Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam.
Thế
nhưng, về phía chính quyền, ông Diệm vẫn cứ trơ trơ trước
dư luận lên án gắt gao của nhân dân Việt Nam và thế giới.
Độc ác và bất nhân hơn nữa là ông Diệm lại còn hạ lệnh
bắt bớ thêm, phong tỏa thêm các chùa trên toàn quốc, thậm
chí ông còn cho những thuộc quyền thẳng tay cắt đứt điện
nước và tuyệt đường lương thực của các chùa chủ yếu.
Bởi
vậy, vào 8 giờ tối ngày 10-6-1963, hai Thượng tọa Tâm Châu
và Thiện Hoa có cho xe vào Ấn Quang, mời tôi (Thích Đức Nghiệp)
ra Xá Lợi bàn Phật sự gấp. Khi tới Xá Lợi, tôi gặp hai
vị Thượng tọa đang ngồi phòng khách.
Thượng
tọa Thiện Hoa nói là :
-
Phật giáo mình đương bị lâm nguy quá, nhất là tại Huế
hiện nay....
Thượng
tọa Tâm Châu nói theo :
-
Ngày mai, buổi sáng chủ nhật, tới phiên tôi rước linh và
cầu siêu tại chùa Phật Bửu Tự, do Hòa thượng Thích Minh
Trực tổ chức, tại đường Cao Thắng, Quận 3. Vậy Thầy
về hỏi lại ý nguyện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức,
hiện đương tụng kinh Pháp Hoa tại Ấn Quang. Nếu Hòa thượng
đồng ý, thì ngay sau khóa lễ ở Phật Bửu Tự, trên đường
về Xá Lợi, Thầy tìm mọi cách có hiệu quả nhất, để
Hòa thượng Quảng Đức được tự nguyện tự thiêu, đồng
thời để cứu nguy cho Phật giáo hiện nay.
Khi
về, tôi gặp ngay Hòa thượng Quảng Đức ở chùa Ấn Quang.
Sau
khi tôi hỏi : - Hòa thượng còn giữ nguyện tự thiêu như
lá thơ Hòa thượng đã gởi cho Liên Phái trước đây không
?
Hòa
thượng mừng rỡ trả lời : Tôi sẵn sàng tự thiêu để
cúng dường Tam Bảo và để giác ngộ cho chính quyền mau mau
thỏa mãn năm nguyện của Phật giáo.
Tôi
(Thích Đức Nghiệp) nói thêm :
- Vậy
Hòa thượng hãy đi nghĩ và sáng mai, con sẽ tổ chức cho Hòa
thượng tự thiêu cho Hòa thượng được thành tựu viên mãn.
Song
Hòa thượng nói thêm :
-
Đại đức cho tôi được lễ tạ Phật và Thượng tọa Thiện
Hoa, tôi sẽ nói : Ngày mai tôi phải đi xa vì Phật sự, đồng
thời cho tôi viết một lá thơ gởi cho Tổng Thống Ngô Đình
Diệm.
Tôi
trả lời đều được cả, nhưng tuyệt đối Hòa thượng
không nên để cho ai biết việc tự thiêu này. Sau đó, tôi
đến phòng Thượng tọa Thiện Hoa mới ở Xá Lợi về để
xin ít tiền mua sắm xăng để thiêu và vải để viết biểu
ngữ cho sáng ngày mai. Tiếp theo tôi gọi anh lái xe ô tô Austin
của Phật tử Trần Quang Thuận gởi ở Ấn Quang và nhờ anh
ta đi mua xăng và vải, đồng thời tôi nhờ anh ấy chở Hòa
thượng Quảng Đức đi dự lễ tại Phật Bửu Tự.
Kế
đó, tôi họp ngay mấy Thầy lại để phân công vào việc
sáng mai :
Thầy
Chân Ngữ có trách nhiệm đổ hết xăng từ đầu tới chân
Hòa thượng Quảng Đức khi cùng ngồi trên xe Austin để đi
tới ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trước
tòa Đại sứ Cao Mên.
Thầy
Trí Minh phải ngồi cùng hàng ghế trước để bảo anh lái
xe phải dừng lại ở ngã tư đường nói trên, rồi làm bộ
chữa xe để Hòa thượng bước xuống đường và ngồi tự
thiêu.
Thầy
Hồng Huệ giữ trật tự, Tăng Ni đi thành hai hàng và xe của
Hòa thượng từ từ đi ở giữa.
Tôi
(Thích Đức Nghiệp) đi bên cạnh xe của Hòa thượng. Khi xe
ngừng lại Hòa thượng bước xuống, tôi trao tay Hòa thượng
bao quẹt và bao diêm để Hòa thượng tự bật lửa thiêu.
Bùng
cháy ! Ngọn lửa ngất trời ! Không thể nào tả xiết nỗi
bàng hoàng của tất cả Tăng Ni và những người đứng xung
quanh ! Lệ rơi ! Tiếng khóc vang lên !
Lập
tức, tôi yêu cầu hai mươi vị Tăng Ni ra nằm chặn ở bốn
đầu đường để xe cứu hỏa không thể vào nơi thiêu của
Hòa thượng Quảng Đức. Biết rằng trong lúc tự thiêu này,
có cả Simon Michaud, đại diện hãng thông tấn AFP của Pháp;
Malcome Browne, đại diện AP của Mỹ và Neel Shihanm, đại diện
UPI; đều chứng kiến tận mắt và xe của Đại tướng Hakins
Mỹ cũng tới chỗ hỏa thiêu này.
Sau
30 phút, thi hài của Hòa thượng Thích Quảng Đức được
rước về chùa Xá Lợi trên một lá cờ Phật giáo. Tới cổng
chùa ông Mai Thọ Truyền nằm lăn trên đất dưới thi hài
của Hòa thượng từ cổng tới cửa nhà giảng. Rồi những
làn sóng người bốn phương tràn tới chùa Xá Lợi để kính
viếng một Bồ tát đã thiêu thân. Đài phát thanh trong nước
và khắp thế giới đều kính cẩn đưa tin tự thiêu này.
Thật
vậy, tin này đã làm rung chuyển lòng người trên khắp địa
cầu, năm châu bốn biển, đã làm cho cả một chế độ gia
đình trị và kỳ thị tôn giáo của ông Diệm phải lung lay.
Vì thế, ông Diệm đã thúc giục hai bên, Ủy Ban Liên Bộ
và Ủy Ban Liên Phái, sớm ngồi hội nghị và cùng ký bản
thông cáo chung.
Cũng
chính nhờ công đức hy sinh cao cả của Hòa thượng Quảng
Đức mà ông Diệm ra lệnh phải giải tỏa tất cả các chùa,
đồng thời dùng máy bay dân sự đặc biệt để đón Hòa
thượng Tịnh Khiết, Thượng tọa Mật Nguyện, Thượng tọa
Trí Quang, Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Huyền Quang
và Đại đức Thích Đức Tâm từ Huế vào Sài Gòn, để tiến
hành gấp thủ tục và nhân sự cho phái đoàn Đại diện Ủy
Ban Liên Phái, đi dự hội nghị cùng Ủy Ban Liên Bộ tại
hội trường Diên Hồng, Sài Gòn, từ ngày 14 tới sáng ngày
16-6-1963. Kết quả hội nghị này là hai bên đã nhất trí
đưa ra một bản thông báo chung, trong đó có chữ ký của
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Bởi
vậy, danh sách của hai phái đoàn gồm những thành viên chính
thức như sau :
I.
Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ gồm có :
1.
Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ kiêm Bộ Trưởng kinh tế.
2.
Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng quốc phòng kiêm B. T.
Phủ Tổng Thống.
3.
Ông Bùi Văn Lương, Bộ Trưởng bộ nội vụ.
II.
Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam gồm có :
1.
Thượng tọa Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn.
2.
Thượng tọa Thích Tâm Châu, Ủy viên.
3.
Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Ủy viên.
4.
Thượng tọa Thích Huyền Quang, Thư ký.
5.
Đại đức Thích Đức Nghiệp, Phụ tá thư ký.
Sự
thật chính phủ ông Ngô Đình Diệm ký thông cáo chung với
Phật giáo, chỉ là một kế hoãn binh để tạm thời xoa dịu
khí thế của Phật giáo đương lên, được mọi người trong
nước và ngoài nước tích cực ủng hộ về mặt ảnh hưởng
và công luận.
Chẳng
những như vậy, mà sau đám hỏa táng thi hài của Hòa thượng
Quảng Đức tại An Dưỡng Địa lại có một hiện tượng
phi thường, đó là trái tim bất tử của Ngài không cháy và
vẫn tồn tại như một hình thể Bông Sen. Bên cạnh đó, ngày
7-7-1963, ông Nguyễn Tường Tam, nhà văn Nhất Linh trong Tự
Lực Văn Đoàn, đã tự sát để noi gương vô úy và từ bi
của Hòa thượng Quảng Đức. Nhân vụ án này, cô Deepe đại
diện tuần báo Newsweek tại Sài Gòn, đã viết một câu đầy
ý nghĩa đã báo trước sự sụp đổ của chính phủ ông Diệm.
"Sau
vụ tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức, cái chết của
Nhất Linh sẽ đóng thêm một cái đinh vào quan tài ông Tổng
Thống Diệm (After the most venerable Quảng Đức 's self-immolation,
Mr Nhat Linh 's suicide willdrive one more nail into President Diệm 's
coffin)".
Và
chính đám táng ông Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) đã rước
tới cổng chùa Xá Lợi, rồi mang di ảnh và bát nhang của
ông vào làm lễ Phật và xé khăn tang cho mấy chục ngàn người
vào sáng ngày 3-7-1963, bất chấp sự có mặt của công an và
cảnh sát ông Diệm. Tôi đứng ra điều đình với ông Mai
Thọ Truyền để tang gia và bạn bè, hiếu quyến được vào
thấp hương và hành lễ thoải mái.
Về
phía Phật giáo, chúng tôi đã kiên nhẫn trông chờ sự thực
thi thông cáo chung của chính phủ. Trái lại, sự vi phạm và
ngấm ngầm phá hoại thông cáo chung mỗi ngày thêm trầm trọng.
Vì thế, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đã công khai gởi một
văn thơ tới ông Diệm chủ ý là, kể từ ngày 14-7-1963, Phật
giáo sẽ tái phát cuộc vận động bằng phương pháp bất
bạo động để chính phủ mau chóng thực hiện bản thông
cáo chung mà hai bên đã ký sáng ngày 16-6-1963.
Tiếp
theo, văn thơ tái phát động này, vì chính quyền ông Diệm
thiếu thiện chí, ngày 17-6-1963, chư Tăng thuộc Ủy Ban Liên
Phái tại chùa Xá Lợi đã biểu tình trước tư dinh ông Frederic
Nolting, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, vì ông này đã thiên vị
ông Diệm, và tuyên bố với hãng UPI (United Press Intermnational)
của Mỹ rằng:
"Ở
Nam Việt Nam không có vấn đề kỳ thị tôn giáo và ngược
đãi các Phật tử".
Chính
vì lời tuyên bố trên, nên ông Frederic Nolting đã bị ông
Cabot Lodge thay làm Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn vào ngày 22-8-1963.
Và
tiếp đó, ngày 1-8-1963, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, lãnh
đạo tối cao của Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam,
đã chính thức gởi một văn thơ tới Tổng Thống Mỹ John
F. Kennedy, để phàn nàn về lời tuyên bố trên của ông Đại
sứ Mỹ Frederic Nolting là hoàn toàn không chính xác.
Cũng
nhắm theo xu thế chung, là đòi hỏi chính quyền ông Diệm
hãy thực thi nghiêm chỉnh bản thông cáo chung cùng buổi sáng
17-7-1963; tại chùa Giác Minh (hiện nay nằm trên đường Điện
Biên Phủ); Thầy Quảng Độ đã tổ chức cuộc biểu tình
gồm hàng ngàn Phật tử đi ra chùa Xá Lôi để thăm các vị
lãnh đạo Phật giáo đương tuyệt thực để yêu cầu chính
phủ áp dụng thực tiễn bản thông cáo chung, trong khi Thầy
Chánh Lạc lại hướng dẫn trên ba trăm Tăng Ni từ Xá Lợi
ra trước chợ Bến Thành để đòi thực thi bản thông cáo
chung. Dĩ nhiên hai cuộc biểu tình này đều bị đàn áp và
bắt bớ, giam tù.
Ngày
23-7-1963, Sư bà Diệu Huệ, thân mẫu của nhà bác học Bửu
Hội, cùng Sư bà Diệu Không tổ chức cuộc họp báo vào 8
giờ sáng tại chùa Xá Lợi và tuyên bố rằng :
- Nếu
chính quyền Ngô Đình Diệm không thực thi bản thông cáo chung,
thì Sư bà sẽ tự thiêu.
Cũng
trong cuộc họp báo này, đại diện hãng Thông tấn Reuter hỏi
tôi (Thích Đức Nghiệp) rằng :
- Đại
đức nghĩ gì về thái độ của chính phủ đối với bản
thông cáo chung ?
Tôi
trả lời :
- Đó
là nụ hôn của Judas (phản bội) đối với Chúa.
Tiếp
đến David Halberstam, phóng viên của tờ New York Times anh ta
hỏi:
- Ông
quan niệm thế nào về lời tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu
(Trần Lệ Xuân) rằng :
Mấy
ông sư trẻ chích thuốc mê vào Hòa thượng Quảng Đức, rồi
nướng sống ông (barbercue) ấy ?".
Riêng
tôi nhận thấy :
- Bà
Ngô Đình Nhu là hiện thân của Lady Macbet (âm mưu xúi chồng
để giết vua anh). Còn việc tự thiêu của Hòa thượng Quảng
Đức, xin anh Simon Michaud của hãng AFP và anh Malcome Browne của
hãng AP vui lòng trả lời giúp tôi, vì việc tự thiêu này
hai anh đều thấy tận mắt.
Sau
đó hai nhà báo Pháp và Mỹ đều xác nhận là chính xác và
thực tế, tuyệt đối không có vấn đề chích thuốc mê,
rồi thui sống Hòa thượng Quảng Đức. Tất cả mọi người
có mặt đều vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt....
Tới
đây, tôi phải nói thêm rằng :
"Chính
nhờ ngọn lửa tự thiêu đầu tiên của Hòa thượng Quảng
Đức, đã vận động thêm sáu vụ tự thiêu khác của Tăng
Ni trên toàn quốc, kể cả đầu tháng 8-63 tới cuối tháng
10-63, cộng với những cuộc biểu tình, tuyệt thực, đình
công, bãi khóa của các giáo sư, sinh viên, học sinh và đồng
bào Phật tử".
Thí
dụ :
1.
Ngày 4-8-63, tại đài Chiến sĩ, trước tòa Tỉnh Trưởng Phan
Thiết, Thầy Nguyên Hương đã tự thiêu.
2.
Ngày 13-8-63, trong khuôn viên chùa Phước Duyên, quận Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên, Thầy Thanh Tuệ đã thực hiện tự
thiêu rất hào hùng và anh dũng.
3.
Ngày 15-8-63, tại quận Ninh Hòa gần tỉnh Nha Trang, Ni sư Diệu
Quang, người đầu tiên trong Ni bộ, cũng tự thiêu để noi
gương của Hòa thượng Quảng Đức.
4.
Ngày 16-8-63, tại chùa Từ Đàm Huế, Thượng tọa Tiêu Diêu
đã tự thiêu để cứu nguy Phật giáo và Dân tộc.
5.
Ngày 5-10-63, trước chợ Bến Thành Sài Gòn, Thầy Quảng Hương
từ Ban Mê Thuộc vào đây tự thiêu.
6.
Ngày 27-10-63, trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Thầy Thiện
Mỹ người sau cùng, đã tự thiêu trong khi phái đoàn Liên
Hiệp Quốc đang có mặt tại Sài Gòn và trước năm ngày khi
có cuộc đảo chính, 1-11-63.
Đối
lại, chính quyền ông Diệm đã dùng những thủ đoạn thâm
độc để triệt hạ Phật giáo. Thí dụ : "Dùng gậy ông đập
lưng ông" như cho thành lập hai tổ chức giáo gian với danh
nghĩa :
1.
Tổng hội Phật giáo Cổ Sơn Môn Việt Nam.
2.
Ủy ban Liên hiệp Phật giáo thuần túy Việt Nam để đánh
lừa dư luận quốc nội và quốc tế. Hơn thế nữa, ông Diệm
còn cho áp dụng "Kế hoạch nước lũ" và biểu tình của thương
phế binh nhằm phá hoại ngầm uy tín các vị lãnh đạo Phật
giáo đối với quần chúng đương nhiệt tình ủng hộ Phật
giáo.
Và
cuối cùng, ông Diệm đã cho lệnh bố ráp các chùa và bắt
giam tất cả Tăng Ni trên toàn quốc kể cả các vị lãnh đạo
Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam tại chùa Xá
Lợi Sài Gòn vào đêm 20-8-63. Tuy vậy, vào 17 giờ cùng ngày,
David Halberstam, ký giả báo New York Times đã đích thân lái
xe riêng tới chùa Xá Lợi và cấp báo rằng :
- Đêm
nay (20-8-63) ông Diệm sẽ cho quân lính và cảnh sát đặc biệt
vào khám chùa và bắt các Tăng Ni đấy. Vậy ông (Thích Đức
Nghiệp) có muốn t?ạn thì đi ngay với tôi.
Tôi
nói :
- Làm
ơn chờ tôi 10 phút để hỏi ý kiến mấy vị lãnh đạo xem
sao !
Tôi
liền gặp các vị Thượng tọa Tâm Châu, Trí Quang và Thiện
Minh hiện cùng ở trong chùa Xá Lợi. Các vị đều cương quyết
trả lời : "Không đi đâu hết, cứ ở đây, sống chết cùng
Tăng Ni và các Phật tử".
Ngay
sau đó, tôi đi ra gặp lại anh nhà báo nước ngoài :
- Xin
cảm ơn anh. Tôi không đi.
Thế
rồi, đúng 12 giờ 5 phút đêm 20-8-1963, sự việc khám chùa
Xá Lợi và bắt tất cả Tăng Ni về trại giam của công lực
ông Diệm xảy ra đúng như lời nhà báo Mỹ đã nói. Duy chỉ
có hai Tăng Sĩ là trốn thoát sang sở USOM bên cạnh chùa Xá
Lợi và sau đó riêng Thượng tọa Trí Quang xin t?ạn tại tòa
Đại sứ Mỹ. Còn chúng tôi Ủy Ban Liên Phái thì bị đưa
về trại giam của Đại tá Lê Quang Tung, trên đường nằm
giữa tổng tham mưu quân đội và phi cảng Tân Sơn Nhất.
Vì
thế sau đó ba ngày, Đại sứ Mỹ ông Cabot Lodge đã sang Sài
Gòn thay thế ông Frederic Nolting và tại New York một khối quốc
gia gồm 16 nước mà đứng đầu là ông Đại sứ Ceylan (Srilanka),
Tích Lan tại Liên Hiệp Quốc, đã ra công bố, lên án : Tại
Nam Việt Nam đã vi phạm nhân quyền của Phật giáo. Lúc đó,
Thượng tọa Nhất Hạnh đang dạy học tại Đại học Columbia,
New York, sau khi Thượng tọa đã học ở Đại học Princeton,
New Jersey và tốt nghiệp ở Đại học Columbia về ngành triết
học. Nghĩa là, Thượng tọa cũng ngồi tuyệt thực một tuần
lễ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc và tích cực vận động
Liên Hiệp Quốc công cử một phái đoàn sang điều tra tại
Sài Gòn, Nam Việt Nam. Kết quả Liên Hiệp Quốc đã cử một
phái đoàn gồm bảy người tới Sài Gòn 12 giờ 30 phút giữa
đêm ngày 24-10-1963 và trở về New York vào 6 giờ chiều, ngày
3-11-1963, sau khi có cuộc đảo chính ông Diệm, theo tài liệu
bản phúc trình của phái đoàn Liên Hiệp Quốc điều tra sự
việc tại Nam Việt Nam (Report of United Nations Fact Finding Mission
of South VietNam) trang 8 và 21.
Biết
rằng : Trước và trong thời gian phái đoàn Liên Hiệp Quốc
làm việc tại Sài Gòn, Thầy Thích Thanh Nhân (Thích Minh Thông)
đã bí mật hoạt động ráo riết cùng quý vị Tăng Ni, sinh
viên và Phật tử tổ chức biểu tình và hai vụ tự thiêu,
như :
- Vào
lúc 11 giờ 30 phút ngày 5-10-1963, Thầy Thanh Nhân đã bố trí
an toàn và tổ chức chu đáo cho Đại đức Quảng Hương tự
thiêu tại chợ Bến Thành Sài Gòn.
- Vào
sáng ngày 27-10-1963, Thầy Thanh Nhân tổ chức thành công cho
Đại đức Thiện Mỹ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà Sài
Gòn, trong khi đó có bốn người của phái đoàn Liên Hiệp
Quốc cũng chứng kiến.
Trước
ngày đảo chánh, phái đoàn Liên Hiệp Quốc đã gặp riêng
Đức Hội Chủ Tịnh Khiết tại chùa Ấn Quang, ngày 27-10-1963
và vào trại giam của Đại tá Lê Quang Tung, ngày 30-10-1963
đến 31-10-1963 và sáng ngày 1-11-1963 để phỏng vấn Hòa thượng
Trí Thủ, Thượng tọa Quảng Liên, Thượng tọa Tâm Giác,
Thượng tọa Tâm Châu, Đại đức Thích Đức Nghiệp, Thượng
tọa Thiện Minh và ông Mai Thọ Truyền.
Sau
đó, phái đoàn Liên Hiệp Quốc về khách sạn. Đúng 1 giờ
chiều, ngày 1-11-1963, tiếng súng Cách mạng quân đội bắt
đầu nổ, chấm dứt chế độ và mạng sống của ông Diệm,
ông Nhu.
- 8
giờ sáng, ngày 2-11-1963, tất cả quý vị lãnh đạo Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam và tôi được thả.