BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
TỪ MỘT
KỶ NIỆM XA
Cao
Huy Thuần
Được
uống rượu đầu năm và bàn gẫu câu chuyện cũ rích là chuyện
trí thức, tôi có vui miệng kể lại cho bạn bè hoàn cảnh
đặc biệt, trong đó, lần đâu tiên, tôi đã hiểu và đã
cảm nhận một cách thấm thía hai chữ trí thức. Chuyện cũ
đã mấy mươi năm, tưởng kể để mua vui trong chốc lát,
ai ngờ chủ nhà ép ra viết thành chữ nghĩa. Văn tự hà tằng
vi ngã dụng (chữ nghĩa nào dùng được việc gì cho ta –
Thơ Nguyễn Du) …
Tháng
5 năm 1963, tôi có việc riêng phải vào Sài Gòn. Xong việc
tôi ghé Nha Trang vài hôm thăm người quen trước khi ra lại
Huế. Tôi đang tắm biển ở Nha Trang thì nghe tin lựu đạn
nổ trước đài phát thanh Huế, đêm mồng 8, khi dân chúng
tập trung trước đài để yêu cầu nghe lại cuốn băng ghi
âm buổi lễ Phật đản. Lựu đạn nổ, máu của chín em bé
áo lam thấm vào trang đầu của một giai đoạn lịch sử vừa
bật mở, và tôi đang tắm biển ở Nha Trang …
Khi
tôi trở lại Huế, mắt tôi không thấy những xôn xao, như
tôi nghĩ, trong thành phố và giữa trường Đại học, vốn
muôn thuở hiền lành; nhưng tai tôi đón nhận không biết bao
nhiêu là tin tức từ mọi nơi, từ mọi giới, thầm thầm
thì thì, rồi giục giã, thôi thúc. Tin tức từ tai này chuyền
qua tai khác, từ miệng nọ lan đến miệng kia, như một hơi
gió bị ép, có ai ngờ cơn bão cũng chỉ là triệu triệu cơn
gió bị ép mà thôi.
Tôi
về Huế chưa kịp ráo mồ hôi thì phải chuẩn bị vào lại
Sài Gòn cùng với một số nhân viên giảng huấn khác của
trường Đại học. Chúng tôi, cũng giống như hàng trăm giáo
chức khác ở Đại học Sài Gòn, Đà Lạt, phải tập trung
học tập chủ nghĩa nhân vị trong ba ngày tại một trung tâm
dựng lên giữa đường Sài Gòn – Biên Hòa, gọi tắt cho
tiện là “Trại Lồ Ồ”, bởi vì nó nằm gần suối Lồ
Ồ. Tổ chức cho Đại học, đầu não của trí tuệ, Trại
vận dụng tất cả trí tuệ của các chuyên viên nhân vị
chủ nghĩa và trang hoàng bằng tất cả hình thức uy nghi trong
buổi khai mạc, với sự hiện diện của các nhân vật cao
cấp trong Chính phủ. Lần đầu tiên tôi được đi học cùng
lớp, cùng thầy, với các vị giáo sư cũ khả kính của tôi,
ăn cùng một món canh, ngủ cùng một thứ màn, rửa chân cùng
một gáo nước, tẩy não cùng một chân lý sáng ngời. Tôi
không biết quý vị đã thông hiểu chủ nghĩa như thế nào
sau mấy ngày học tập; riêng tôi, tôi chỉ giữ lại trong
đầu mỗi một câu chuyện đùa của Thiếu tướng Tám, chỉ
huy Trại. Ông Thiếu tướng kể câu chuyện tếu này để nhập
đề cho một bài giảng về cái quái gì đó trong chủ nghĩa
nhân vị hoặc trong Quốc Sách Ấp Chiến Lược: trong một
buổi học tiếng Anh, bà giáo Mỹ chấm một chấm (.) giữa
một tờ giấy trắng mênh mông và yêu cầu mọi người cho
biết “bức tranh” đó gợi lên hình ảnh gì trong đầu.
Một người trả lời: cata-strophic, và thản nhiên cắt nghĩa:
đó là cái bụng của vợ tôi khi mang bầu. Mọi người cười
tán thưởng. Có lẽ tôi sẽ cười to hơn nếu ông Thiếu tướng
nói: đó là bụng của cô bồ của tôi …
Tôi
nhớ câu chuyện tếu không mấy nhân vị đó bởi vì ông Thiếu
tướng sắp được học chữ catastrophic mà không cần phải
nhìn một cái bụng mênh mông. Ông học chữ đó trong ngày
bế mạc Trại. Vinh dự tối cao, Trại bế mạc với sự hiện
diện của chính ông Ngô Đình Nhu. Từ sáng sớm học viên
chúng tôi đã đứng chào đón ông Nhu từ trực thăng bước
xuống, theo sau cả một đoàn tùy tùng cao cấp, sĩ quan, bộ
trưởng. Ông Nhu ban huấn từ, dĩ nhiên là về chủ nghĩ nhân
vị. Tôi nghe mơ màng nhưng sực tỉnh ở đoạn cuối, khi ông
bước qua chuyện mấy trái lựu đạn ở đài phát thanh. Tất
cả đều là Việt Cộng, Việt Cộng khoác áo thầy tu, Việt
Cộng ném lựu đạn. Chúng tôi, đầu não trí thức, có nhiệm
vụ tố cáo hành động dã man của Việt Cộng trước dư luận
thế giới đang bị tuyên truyền nhiễm độc.
Xong
bài huấn từ bế mạc, ông Nhu bước lên trực thăng. Ông
Nhu không cao, nhưng hình như ai cũng thấp hơn ông một cái
đầu.
Chúng
tôi lại tập trung vào lớp, và bây giờ không phải để học
nhân vị nữa, mà để biểu quyết một kiến nghị tố cáo
Việt Cộng dã man ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế.
Quyết nghị của Giáo chức đại học tất nhiên phải do chính
giáo chức đề xướng, luận bàn, viết ra thành văn, và biểu
quyết. Do đó, các chuyên viên nhân vị chủ nghĩa rút lui,
kể cả Thiếu tướng Tám, nhường quyền điều khiển cho
chính quý vị giáo sư. Ba bốn vị trí thức cao cấp hăng hái
động viên, cổ vũ chúng tôi suốt cả buổi sáng, nhiệt thành
nhất lại là ông thầy cũ của tôi ở trường Luật Sài Gòn,
mà tôi vốn kính trọng từ ngày đọc những bài viết về
kinh tế của ông trong báo Phổ Thông xuất bản ở Hà Nội
trước 1954. Dưới sự điều khiển của một giáo sư có uy
tín, đồng thời lại là một nhân vật cao cấp trong chính
quyền, chuyện biểu quyết là chuyện tất nhiên. Chúng tôi
ăn trưa, và tiếp tục thảo luận về văn bản quyết nghị
trong buổi chiều.
Buổi
chiều, sự việc xảy ra một cách bất ngờ. Sau khi các vị
đại tri thức đề nghị bản văn biểu quyết, một chàng
thanh niên trong phái đoàn Huế ra trước hội trường phát
biểu, và chàng ta đặt câu hỏi một cách ngây thơ, nhưng
bất ngờ: quý vị đoan chắc rằng Việt Cộng ném lựu đạn
ở Huế, nhưng quý vị ở tận Sài Gòn, Đà Lạt; vậy tại
sao quý vị không hỏi chúng tôi là những người ở Huế?
Ai ném lựu đạn?
Cả
hội trường nín lặng. Nín lặng như khi nhìn một bàn tay
đang thắp diêm, châm nến. Thành khẩn, tha thiết, nóng hổi,
chàng thanh niên kể rõ mọi chuyện từ đầu đến đuôi, từ
gốc đến ngọn, từ khi xe quân đội bao vây quần chúng đến
quang cảnh súng nổ trước đài phát thanh. Cả hội trường
nín lặng, kinh ngạc. Khi vị thầy khả kính của tôi tiếp
tục tiếp tục lại nhiệm vụ điều khiển công việc biểu
quyết, sự nhiệt thành của ông không làm tan nổi nhiều ngượng
ngùng trong không khí. Bây giờ thì chuyện biểu quyết không
còn đương nhiên nữa, mà phải thúc ép. Sức ép đang lên
thì một chàng thanh niên khác, cũng từ phái đoàn Huế, ra
giữa hội trường nêu lên vấn đề trí thức và sự thật.
Quý thầy thường dạy học trò phải yêu sự thật, xin quý
thầy tiếp tục dạy cho chúng tôi bài học đó.
Thảo
luận kéo dài từ chiều đến tối, và từ sau buổi ăn tối
đến khuya. Tố cáo Việt Cộng thì tố cáo; nhưng nhét vào
bản văn biểu quyết mấy chữ Việt Cộng ném lựu đạn thì
không đủ cánh tay giơ lên. Catastrophic ! Buổi họp tan, và
Trại bế mạc khi ban chỉ huy biết có đánh nữa cũng không
thắng. Chín năm nhân vị: thách thức đầu tiên trong đại
học. Buổi tối đi ngủ, Hoàng Văn Giàu và Ngô Văn Bằng khoan
khoái phủi chân chui vào màn: hai chàng điếc không sợ trực
thăng. Năm 1964, tờ Lập Trường đăng Nhật Ký Lồ Ồ của
Hoàng Văn Giàu; tôi muốn được xem lại quá.
Về
lại Huế, không khí khác hẳn. Nhẫn nhục đã chuyển qua tranh
đấu, và tranh đấu công khai. Trong tháng 7, và nửa tháng 8,
sinh viên Phật tử đóng đô ở hai chùa Từ Đàm và Diệu
Đế, tổ chức phát thanh, dân chúng đi nghe càng ngày càng
đông. Từ Đàm ở bên này sông, Diệu Đế ở bên kia sông,
những cuộc biểu tình im lặng đi từ chùa này qua chùa kia,
dài suốt cả những con đường dài, đi suốt cả lòng thành
phố, im lặng, trang nghiêm, đạo hạnh, làm chảy nước mắt
những người không dám đi theo trong đó có tôi. Cả thành
phố xôn xao với những buổi phát thanh ở Diệu Đế, người
đi nghe xôn xao, người ở nhà nghe lại cũng xôn xao, đại
học bắt đầu xôn xao, sinh viên nôn nóng.
Tất
nhiên các loa phóng thanh ở Diệu Đế nhắm về phía Đại
học, và chĩa thẳng vào lương tâm những người trí thức.
Trong một thành phố nhỏ, có văn hóa cao, trọng trí thức,
trọng bằng cấp, trọng chữ nghĩa, trọng đạo đức, một
tiếng nói của Giáo sư đại học có giá trị như tiếng sấm
đầu tiên của cơn giông mùa hạ. Trời đất vần vũ từ
đầu mùa hè 1963, cây cối rung chuyển, đâu tia chớp đầu
tiên? Sợ, dĩ nhiên là sợ, ai mà không sợ chế độ đàn
áp? Mấy ai bắt chước được chị tiểu thương Đông Ba phơi
thây giữa chiến địa, ung dung như con thiên nga trắng muốt
dạo bơi giữa hồ? Nhưng mặt khác, phẫn nộ trước bất
công, áp bức, dối trá, miệt thị dâng tràn lên cổ, và tình
cảm liên đới với sinh viên thúc giục chân phải bước đi.
Đến
một giây phút nào đó, kỳ lạ thật, những chuyện khó khăn
nhất bỗng trở nên giản dị, chín núi Thái Sơn cũng nhẹ
như lông hồng. Không biết ai đã rót vào tai ai lời nói đầu,
anh Bùi Tường Huân nói với tôi? Anh Lê Tuyên nói với anh
Bùi Tường Huân? Hay là chỉ ánh mắt này nháy ánh mắt kia,
nghẹn ngào này gặp nghẹn ngào khác, không ai nuốt tủi nhục
trước sinh viên lâu hơn được nữa? Thoắt một cái, một
buổi họp giáo chức đại học được tổ chức, giữa mùa
hè, trong lúc mỗi người phân tán mỗi nơi. Con chim đầu đàn
bay, các con khác cũng bay theo, khó khăn là ở cái vẫy cánh
đầu tiên. Anh Lê Tuyên lúc đó là giám đốc Văn khoa của
Đại học Sư phạm, anh có đôi cánh dài. Anh Bùi Tường Huân
… Tôi thân với anh Huân vì tôi dạy ở trường Luật và
anh là khoa trưởng, chỉ có thế thôi, tôi không biết gì hơn
về anh Huân, và cũng chẳng hề muốn biết. Anh Huân có người
bạn thân là giáo sư Wulff, người Đức, dạy ở trường Y,
sau này là một nhân chứng quý báu của vụ đàn áp ở Huế.
Anh có một người bạn ngoại quốc khác nữa, ông Rose, người
Mỹ, mà tôi chưa hề gặp. Sau này, đọc quyển truyện Gặp
gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, tôi mới nghe nói ông Rose
là CIA. Cũng chẳng có gì lạ. Các trường đại học danh tiếng
nhất của Mỹ có lần đã la làng phản đối, bởi vì CIA
tuyển chọn nhân viên trong hàng ngũ ưu tú nhất ở các đại
học để phái đi làm Giáo sư ở khắp nơi. Anh Huân quen ông
Rose là chuyện của anh Huân; chuyện đó chẳng ăn nhập gì
với buổi họp đầu tiên của một số giáo chức đại học
Huế giữa đe dọa, khủng bố của mùa hè 1963. Chẳng lẽ
tất cả mọi chuyện lớn nhỏ vui buồn của giang sơn này
đều toàn là chuyện Việt Cộng ném lựu đạn với chuyện
CIA xúi dại xúi khôn? Lúc đó anh Huân là khoa trưởng, và
sự việc một khoa trưởng chọn thái độ đứng về phía
sinh viên đang tranh đấu ở Từ Đàm, Diệu Đế là một hành
động can đảm mà mọi người đang chờ đợi. Hành động
can đảm này lôi cuốn hành động can đảm khác. Và kết quả
là chúng tôi cũng phơi thây giữa chiến địa, không ung dung
bằng ai, nhưng thanh thản lương tâm. Mà đâu có phải để
làm cái gì ghê gớm! Chỉ để ra một tuyên ngôn.
Chiều
hôm đó, các loa truyền thanh ở Diệu Đế phát đi khắp thành
phố bản tuyên ngôn của giáo chức đại học Huế. Tin bay
vào Sài Gòn. Và bay qua bên kia Thái Bình Dương. Phong trào đấu
tranh trong đại học bùng lên.
Anh
Tuyên, anh Huân và toàn bộ sinh viên tranh đấu đều bị bắt
vào đêm 20.8, đêm quân đội tổng tấn công vào chùa chiền,
và bị giam giữ lâu nhất, cho đến ngày ông Diệm bị lật
đổ. Ra khỏi tù khi “cách mạng” thành công, anh Tuyên cười
bảo tôi: “Chúng nó tra hỏi tôi ai viết bản tuyên ngôn,
tôi không khai cho cậu.”. Tôi tìm được hướng đi và lẽ
sống từ ấy.
Sau
đảo chính 1.11.1963, hai sự việc làm tôi suy nghĩ về vấn
đề trí thức. Sự việc thứ nhất là nhiều nhà văn tên
tuổi, nhiều trí thức có tiếng ở Sài Gòn viết trên báo
nhiều bài tự bạch trong đó các anh tự trách mình, tự trách
trí thức đã “đánh đĩ lương tâm”, “đánh đĩ ngòi bút”,
“dính máu ăn phần”. Mấy chữ này bây giờ nghe đã quá
quen tai. Năm 1963, đó là những lời sám hối đầu mùa. Ý
thức về sự dễ khiếp nhược, dễ a-dua của trí thức trước
một chế độ độc tài có tầm cỡ lớn khiến các anh đặt
vấn đề cảnh giác của trí thức trước chính trị: cảnh
giác ngay từ đầu, đừng để chế độ bước từng bước
vào tội lỗi, đừng vui chân đi đêm với chế độ, đừng
nghe cò kè trả giá, và đừng sáng mắt trước “vàng ngoài
bốn trăm”. Không phải tất cả – bởi vì trí thức không
phải chỉ là bằng cấp, chữ nghĩa hoặc chuyên môn – nhưng
ít ra phải có một số trí thức nào đó tự lấy nhiệm vụ
lau chùi hàng ngày tấm gương trí thức chung để trí thức
cùng nhau soi lương tâm của mình, để giữ cho nhau chiếc lưng
đứng thẳng, không thua bất cứ ai một cái đầu. Các trí
thức đó, với sự góp sức chung của mọi người có lương
tâm, giữ gìn và phát huy một chức năng vô cùng quan trọng
trong các nước chậm tiến, vốn là con mồi của bao nhiêu
hình thức trì trệ, một chức năng vốn sẵn thích hợp với
truyền thống trọng đức, trọng tài, trọng hiền trong xã
hội Việt Nam: chức năng tri thức. Đây không phải là chức
năng đối lập, mà là độc lập.
Sự
việc thứ hai làm tôi suy nghĩ là câu nói của một vị lãnh
đạo Phật giáo, cảnh cáo khuynh hướng đắc thắng bắt đầu
manh nha nơi một nhúm người vừa thoát khỏi áp bức ngày
hôm qua: “Coi chừng, chúng ta đã không chết đói mà sẽ chết
no”. Khiếp! Chính trị là cái nhan sắc gì mà ai cũng dễ
si mê đến thế. Và quyền lực, “Tâu lạy Bà, Bà có nhiều
phép lạ”. Bà là Thượng Đế! Hôm qua tôi tù mọt gông.
Hôm nay tôi gông cả thiên hạ. May quá, thời cuộc 1963-64 chẳng
hề cho phép lực lượng mới nào thiết lập trật tự mới,
cho nên những kẻ ngồi tù hôm qua chưa quên chiếc gông của
mình. Nhưng câu cảnh cáo đậm đà mùi vị ẩm thực của
vị lãnh đạo giữ nguyên giá trị thiên thu của tiếng chim
vỗ cánh báo mùa biển động. Bởi vì, nếu “người quân
tử ăn chẳng cầu no”, như đức Khổng Tử dạy, là vì người
quân tử ăn cơm với rau má, chứ nếu người quân tử được
ăn quyền lực thì người quân tử ăn vỡ bụng cũng chẳng
biết no.
Cho
nên người trí thức, đứng trước chính trị và quyền lực,
có cái trách nhiệm tự cảnh giác mình và cảnh giác người
ngay cả trong trường hợp chính phe của họ lên cầm quyền.
Ngay cả trong trường hợp đó, chức năng tri thức mà họ
gìn giữ vẫn phải độc lập, tỉnh táo đối với chức năng
chính trị mà chính bạn của họ đảm đương. Họ càng phải
lau chùi lương tâm của họ kỹ hơn nữa, bởi vì họ không
muốn bạn của họ rơi vào vết xe đã lăn xuống hố. Tri
thức không phải là người không biết uống rượu nhưng là
người nhàm chán say sưa trong chốn cung đình. Dù là với bạn.
Chúng
tôi chưa có ai say trong thời 63-64, tuy có người dự vào bàn
tiệc của chính trị, hoặc tự ý hoặc “bị” đề cử.
Một số ít vào Sài Gòn làm xe pháo mã trong một ván cờ chưa
biết ai là tướng. Hầu hết ở lại Huế làm báo. Làm nhiệm
vụ gìn vàng giữ ngọc cho lương tâm. Tờ Lập Trường ra
đời.
Mãi
đến sau này, khi đọc Weber, tôi mới thấm thía tên tờ báo
cũ của chúng tôi. Tôi thấy tội cho anh Tôn Thất Hanh khi bị
đề cử tham gia Thượng Hội Đồng Quốc Gia cùng với bác
sĩ Lê Khắc Quyến, cũng bị đề cử. Anh Hanh là người khoa
học, đâu có ưa gì chính trị. Ra đi, anh chết trong lòng rất
nhiều, bởi vì anh thừa biết chính trị là nhan sắc. Nhưng
anh phải đi, bởi vì nếu không thì không trả lời được
câu chỉ trích: “Bộ trí thức các anh chỉ có cái mồm biết
nói thôi sao?”. Anh Hanh và anh Quyến lúc đó phải tham gia
vào cái nhiệm vụ đạo đức mà Weber gọi là đạo đức
trách nhiệm (éthique de la responsabilité). Đây là đạo đức
của những người hành động, nghĩa là những người luôn
luôn phải nhìn vấn đề dưới tương quan giữa phương tiện
và cứu cánh, đôi khi vì hiệu năng mà phải dùng những biện
pháp trái với chính lương tâm của mình. Tờ báo của chúng
tôi nhắm đến một đạo đức khác mà Weber gọi là đạo
đức của niềm tin (éthique de la conviction). Đây là đạo đức
khiến con người hành động theo lương tâm mà không cần phải
để ý đến hậu quả. Tận cùng của đạo đức này là thái
độ của người theo thuyết bất bạo động tuyệt đối:
thà tôi chết chứ không cầm súng giết người. Anh chàng này
ngu chăng? Khùng chăng? Không, anh ta tin như vậy, và anh ta chỉ
muốn chung thủy với lòng tin của anh, với lập trường của
anh, mặc ai nghĩ gì thì nghĩ, và cho dù mặt trời có nổ ra
muôn mảnh trên đầu anh ta, anh ta vẫn tin như thế và hành
động như thế.
Tất
nhiên, trên thực tế, hai thứ đạo đức vừa nói không mấy
khi nằm ở trạng thái nguyên chất, trạng thái ròng: trách
nhiệm nào lại chẳng dựa trên lòng tin, và lòng tin nào lại
chẳng có ý thức về trách nhiệm? Thế nhưng sự phân biệt
hai thứ đạo đức trên lãnh vực lý thuyết làm sáng tỏ
hai thái độ khác nhau, một bên là của người cầm quyền,
một bên là của người trí thức, hai thứ đạo đức khác
nhau nhưng cần nhau và bổ túc cho nhau, như ngày với đêm,
như ngủ với thức. Cho nên tôi không thể thiếu anh, tôi cần
anh, tôi trọng anh; nhưng anh phải hiểu là anh cũng không thể
thiếu tôi, anh cần tôi, anh trọng tôi, anh trọng sự độc
lập của tôi dù cho điều đó có làm phiền anh. Để ngọn
hải đăng vẫn sáng khi con tàu lạc hướng. Để quyền lực
không phải là bạo lực.