BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
HUẾ - NƠI
MỞ ĐẦU PHONG TRÀO PHẬT GIÁO
MIỀN NAM VIỆT
NAM NĂM 1963
Lê
Cung *
Phong
trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 mở đầu ở Huế
rồi nhanh chóng lan rộng ra khắp các đô thị miền Nam. Nó
đã góp phần tích cực vào sự cáo chung của chế độ độc
tài, gia đình trị, giáo trị Ngô Đình Diệm (1-11-1963), tạo
ra một bước ngoặt quan trọng đối với cục diện chính
trường miền Nam có lợi cho phong trào cách mạng và được
xem như là “sự mở đầu phong trào đô thị sau hơn 9 năm
dưới chính quyền phát-xít Mỹ - Diệm ... được ghi nhận
như một sự kiện lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống
nhất” [1] .
Các
công trình nghiên cứu về phong trào Phật giáo miền Nam Việt
Nam năm 1963 đều khẳng định Huế là nơi mở đầu phong trào.
Song vấn đề đặt ra là tại sao Huế đóng trọn được vai
trò này lại chưa được trả lời một cách cụ thể. Tham
luận này góp phần lý giải vấn đề đã được đặt ra.
Trước
hết, Huế là trung tâm chính trị - văn hóa thứ hai ở miền
Nam sau Sài Gòn. Huế vốn là kinh đô cũ của nước Việt Nam,
nơi tập trung nhiều nhà khoa bảng; Huế có Viện đại học
mà đa số con em miền Trung về đây học tập; Huế là nơi
mà đa số nhân dân là tín đồ Phật giáo, giới lãnh đạo
Phật giáo miền Nam, kể cả tăng già và cư sĩ đều đóng
trụ sở tại Huế, nhưng dưới chính quyền Ngô Đình Diệm,
âm mưu “Thiên chúa giáo hoá” miền Nam trở thành một trong
những chính sách nổi bật; Huế lại ở vị trí tiếp giáp
với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Điều quan trọng nhất
là Huế có cả một bề dày về truyền thống yêu nước,
là nơi có phong trào cách mạng diễn ra rất sớm, hết sức
sôi nổi và giành được những thắng lợi hết sức to lớn,
... Tất cả đã trở thành một lực cản hết sức to lớn
đối với chính sách thống trị của chính quyền Ngô Đình
Diệm ở Huế.
Do
tính chất và đặc điểm Huế như vậy cho nên chính quyền
Ngô Đình Diệm đã thiết lập ở Huế một bộ máy cai trị
“cực mạnh” và cho thi hành một chính sách thống trị hết
sức tàn bạo đối với những người kháng chiến và khủng
bố một cách ác liệt đối với những người mà chúng cho
là đối lập, với tham vọng bắt nhân dân Huế phải đi theo
quỹ đạo của chúng, để đẩy lùi lực lượng cách mạng,
cột chặt miền Nam nước ta trong sự phụ thuộc vào chủ
nghĩa thực dân mới.
Bộ
máy cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Huế được
xem như là một “triều đình thứ hai” sau Sài Gòn, mà kẻ
chỉ đạo tối cao là lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn (em
ruột Diệm). Ngoài bộ máy chính quyền Thừa Thiên, chính quyền
Ngô Đình Diệm đã thiết lập ở đây một bộ máy cai trị
cấp miền (gồm các tỉnh từ Quảng Trị vào Bình Thuận và
Tây Nguyên), như: Toà đại biểu Chính phủ, Nha cảnh sát và
công an Trung Việt, Toà tổng lãnh sự Mỹ, Đội công tác đặc
biệt miền Trung, Đảng Cần lao Nhân vị, Phong trào cách mạng
quốc gia của Ngô Đình Cẩn, ..... Cùng với bộ máy cai trị
này còn có Ngô Đình Thục (anh ruột Diệm) làm Tổng giám
mục địa phận Huế.
Dưới
bàn tay bạo chúa của Ngô Đình Cẩn, chính quyền Ngô Đình
Diệm đã triển khai chính sách “tố Cộng, diệt Cộng”
hết sức ác liệt với mục đích tiêu diệt tận gốc mầm
móng cách mạng trong nhân dân. Những cuộc lùng bắt và tra
tấn dã man đối với những người bị chế độ xem là cộng
sản và đối lập đã diễn ra trên một quy mô lớn và có
tính thường xuyên. Theo Công văn số 164-VP/CT/1-M (16-8-1956)
của Tỉnh trưởng Thừa Thiên gửi Đại biểu chính phủ tại
Trung Việt thì trong vòng chưa đầy một tháng rưỡi (từ 29-6
đến 08-8-1956), theo lệnh của Ngô Đình Cẩn, nhân viên ban
khai thác Nha cảnh sát và công an Trung Việt đã bắt tra tấn
và giam cầm 25 người với tội gán cho là “hoạt động cộng
sản”, trong đó có tới 22 người trú tại Huế. Về vụ
này, chính tay chân chính quyền Ngô Đình Diệm tại Huế cũng
phải thú nhận rằng đây là “việc bắt người sai nguyên
tắc ... là những việc đã xảy ra hiển nhiên trong một
tỉnh” [2] .
Trong
những cuộc “chỉnh huấn”, chính quyền Ngô Đình Diệm
sử dụng nhiều thủ đoạn hết sức nham hiểm nhằm khủng
bố những người kháng chiến, những người yêu nước. Có
những người không chịu nổi sự truy bức của chúng trong
các lớp “chỉnh huấn” đã thắt cổ tự tử, như trường
hợp ông Phạm Lách (ở Diêm Tụ, Phú Vang), học viên lớp
“chỉnh huấn” tại xã Nghi Giang (quận Vinh Lộc) đã thắt
cổ tự tử đêm 16-5-1957 [3] ; ông Dương Cật cũng là học
viên lớp nói trên đã tự sát ngày 20-5-1957 [4].
Những
cuộc tra tấn của thủ hạ Ngô Đình Cẩn hết sức dữ dội.
Có người bị bắt, ngay sau “cuộc sơ vấn” của địch
đã tìm cách tự sát như ông Phan Châu (ở Phú Lộc) bị bắt
lúc 22 giờ ngày 23-8-1956 thì đến 2giờ 20 sáng 24-8-1956 đã
nhảy giếng tự tử [5] . Có những người phải tìm cách tự
quyên sinh khi biết tin sắp bị bắt như trường hợp ông Nguyễn
Đình Cát (ở Phú Lộc) đã uống thuốc độc tự tử ngày
22-02-1957 [6] .
Đến
đầu những năm 1960, khi phong trào cách mạng miền Nam có những
bước phát triển nhảy vọt từ thế giữ gìn lực lượng
sang thế tấn công trực diện vào thành trì của “Việt Nam
cộng hoà” thì chính thời kỳ này, chính quyền Ngô Đình
Diệm càng ra sức bắt bớ, khủng bố giam cầm những người
yêu nước và những người không cùng tín ngưỡng. Ban an ninh
Thừa Thiên trong một phiên họp ngày 11-11-1960 đã xử
an trí tại Trung tâm cải huấn Thừa Thiên 32 người từ 6
tháng đến 2 năm, trong đó có tới 31 người ở Huế và 1
người bị đưa ra truy tố trước toà án quân sự. Hoặc có
trường hợp mãn hạn án 4 năm tù vẫn bị địch bắt quản
thúc thêm 4 năm nữa, vì theo chúng “tuy đã mãn hạn án, nhưng
thuộc thành phần nguy hiểm, hiện còn mang nặng tư tưởng
cộng sản, tha ra không có lợi cho công cuộc an ninh, cần lưu
giam để giáo hoá”, như trường hợp của ông Hoàng Giám
và Lê Sỹ tức Thiệu đều quán thôn Hiền Sỹ, quận Phong
Điền” [7] .
Nhà
giam của chính quyền Ngô Đình Diệm tại Huế chật ních tù
chính trị. Theo công văn số 3630/TTNA-CT-BM (12-12-1961) của Tỉnh
trưởng Thừa Thiên gửi tổng Quản đốc các Trung tâm cải
huấn Sài Gòn thì: “Số phòng ốc hiện chứa của Trung tâm
cải huấn Thừa Thiên chỉ vừa đủ 600 can nhân mà hiện nay
đã giam đến 700 người nên không thể nhận thêm can nhân
để hướng nghiệp”[8] .
Đối
với Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm xem như là ma quỷ.
Cũng như với lực lượng cách mạng, Phật giáo cần phải
bị triệt hạ. Do đó, đối với những người muốn “vào
Đảng Cần lao là phải tuyên thệ: đem hết thể xác và linh
hồn cho đến hơi thở cuối cùng để chống cộng sản vô
thần, chống Phật giáo ma quỷ và chống các đảng phái quốc
gia” [9] .
Huế
là nơi mà Phật giáo chiếm đa số trong nhân dân, do đó tại
đây, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách
kỳ thị nặng nề đối với Phật giáo ngay từ những ngày
đầu, như trường hợp một huynh trưởng Phật tử ở
Khuôn hội Kim An, Kim Long (Huế) đã bị giết chết một cách
thê thảm mà nguyên nhân chỉ vì”đã hoạt động tổ chức
đoàn cung nghinh Xá lợi trong đại lễ Phật đản năm 1955”
[10] . Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm huỷ bỏ ngày
Phật đản trong danh sách các ngày nghỉ lễ dành cho công chức
và binh sĩ. Tiếp theo, những cán bộ và viên chức dù là tín
đồ Phật giáo cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm ép buộc
phải về Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long để học
tập chủ thuyết Nhân vị. Khi về đây, họ chỉ nghe các linh
mục giảng gần như hoàn toàn là giáo lý Thiên Chúa giáo,
mua chuộc họ theo Thiên Chúa giáo; đồng thời chỉ trích giáo
lý của Phật giáo.
Những
tín đồ Phật giáo có thế lực kinh tế cũng là đối tượng
“ưu tiên” bị chế độ đàn áp và khủng bố. Thật vậy,
từ năm 1957, Ngô Đình Cẩn và tay chân đã tạo ra “Vụ án
gián điệp miền Trung” giả tạo. Với vụ án này, hầu hết
các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị vào Khánh Hoà, không có
tỉnh nào không có người bị Ngô Đình Cẩn và tay chân ghép
vào tội làm gián điệp cho Pháp, song tập trung nhất là tại
Huế. Bằng những lời tố cáo của các nạn nhân, Nguyệt
Đạm và Phong Thần, tác giả cuốn “Chín năm máu lửa dưới
chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm” đã cung cấp cho
chúng ta một bức tranh hết sức sinh động về tính chất
dã man của những đòn tra tấn hiểm độc; về những thủ
đoạn tống tiền; về cách thức phi tang những nạn nhân bị
giết hại ... do Ngô Đình Cẩn và tay chân gây ra. Sau đây
là một số trường hợp tiêu biểu:
Ông
Nguyễn Văn Yến, chủ khách sạn Morin (Huế) đã không đồng
ý cho Ngô Đình Cẩn mua lại khách sạn với giá rẻ mạt,
liền bị gán tội làm gián điệp cho ngoại bang. “Ông Nguyễn
Văn Yến đã bị bắt giam ở Chín Hầm và chịu tất cả cực
hình: đổ nước, quay điện, cực hình assis debout nhìn bóng
đèn 500 watt để da mặt phồng lên, ông này tiêu tan hết sự
nghiệp, mẹ và vợ buồn rầu nên qua đời” [11] .
Ông
Phan Văn Thí, chủ hiệu buôn Đức Sinh, số 77 Trần Hưng Đạo
(Huế) bị gán tội làm gián điệp cho Pháp, đã bị bắt giam
ngày 12-9-1957 và bị tra tấn hết sức dã man: “Ông Đức
Sinh đã phải trả một giá quá đắt: Nộp cho tên trùm mật
vụ Phan Quang Đông 1.500.000$00, phải làm văn tự bán cho Đông
một cái nhà 2 triệu đồng mà thực ra ông Đức Sinh không
lấy một đồng nào cả” [12] .
Ông
Nguyễn Đắc Phương, thầu khoán ở Huế, bị vu cáo chứa
chấp thuốc phiện, buôn lậu và làm gián điệp cho Pháp, bị
Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt, tra tấn. Ông Phương bị chết
ngày 16-5-1957 do Cẩn ra lệnh xô từ trên lầu xuống. Các điều
tra sau đó cho biết ông Phương chết vì “đã được đấu
thầu tu bổ điện Thái Hoà và những công tác, trong lúc đó
bà Cả Lễ (chị ruột Ngô Đình Cẩn) không được đấu thầu”
[13] .
Ông
Bửu Bang, chủ hiệu Rồng Vàng, số 105 Trần Hưng Đạo
(Huế) bị bắt cóc ngày 16-5-1960 và bị gán tội hoạt động
chính trị, tống giam ở Chín Hầm. Ông Lê Văn Châu, chủ hiệu
sách Nam Hưng, số 125 Trần Hưng Đạo (Huế) bị bắt ngày
18-11-1960 phải chịu tống tiền mới được tha.
Ông
Trần Bá Nam, thầu khoán ở Huế, bị thuộc hạ Ngô Đình
Cẩn chặn bắt trong khi đang cùng vợ con đi xe từ Savanakhet
về Huế. Ông Nam bị gán tội làm gián điệp cho Pháp và bị
tra tấn dã man. Tay chân Cẩn “ép buộc ông Nam nhận tội
làm gián điệp để cưỡng đoạt tập chi phiếu ba triệu
đồng, do ngân khố Savanakhet cấp phát.
Không nhận tội làm gián điệp, không chịu ký chi phiếu,
nạn nhân bị đánh đập dần đến chết, thây bị liệng
xuống giếng phía sau sở vôi Long Thọ” [14] .
Dưới
bàn tay bạo chúa Ngô Đình Cẩn có biết bao nhiêu chiến sĩ
cách mạng, tín đồ Phật giáo bị chém giết hoặc bị quăng
vào nhà giam Chín Hầm. Ngay “bên cạnh chùa Từ Đàm, tháng
2-1962, một tăng sĩ trẻ tên Trần Kim Phú đã bị công an mật
vụ chế độ trùm bao bố, bóp cổ bắt cóc đem giam trên Chín
Hầm” [15] .
Trên
lĩnh vực văn học, những tác phẩm nào nặng lời chỉ trích,
bôi đen Phật giáo và đề cao Thiên Chúa giáo đều được
chính quyền Ngô Đình Diệm đánh giá cao, như tác phẩm “Văn
chương bình dân” của Thanh Lãng khi đề cập đến Phật
giáo thì cho rằng:”Đối với Phật cũng như đối với hạng
thầy tu, dân chúng đều bị coi khinh; theo họ Phật đi tu vì
bất mãn tình duyên, nhà sư đi tu vì thích oản chuối ... Người
Việt Nam có một quan niệm rất cao siêu về Trời mà họ coi
như một Thiên Chúa toàn năng. Người dân quê, qua các tài
liệu văn hoá, ta thấy luôn có tích cách chống đối Nho giáo,
Phật giáo, Lão giáo ... nhưng không bao giờ có ý tưởng chống
Trời” [16] .
Tác
phẩm “Xây dựng trên Nhân vị” của Bùi Tuân viết: “Chân
lý mặc khải của đạo công giáo cho ta biết Thiên Chúa đã
tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài (chỉ có Thiên
Chúa, thiên thần và Người là có vị. các loài khác đều
vô vị Chú thích của Bùi Tuân).
Triết
lý Đông phương cũng như tôn giáo Tây phương thừa nhận rằng
căn bản nhân vị là ở chỗ Trời tức là Thượng đế hay
Thiên Chúa vậy.
Nói
cách khác, người do từ Thượng đế mà đến. Ở đây chúng
ta chủ trương nhân vị chủ nghĩa tức là mạnh dạn tỏ ra
mình có một quan niệm về người và vũ trụ và quan niệm
ấy thừa nhận có một đấng Thượng đế tạo dựng nên
người là loài có nhân vị ’ [17] .
Cả
hai tác phẩm trên đều đã được chính quyền Ngô Đình Diệm
xếp giải nhất trong số 13 tác phẩm được giải văn chương
toàn quốc năm 1957.
Đã
thế, từ ngày Ngô Đình Thục về làm Tổng giám mục địa
phận Huế, áp lực của Cần lao Thiên Chúa giáo Ngô Đình
Cẩn càng đè nặng lên đời sống tinh thần đối với nhân
dân Huế nói chung và tín đồ Phật giáo nói riêng. Chính Đỗ
Thọ, một tuỳ viên thân tín của Diệm cũng phải thừa nhận:
“Tại Huế, hàng năm ngày lễ Giáng sinh được tổ chức
rất tưng bừng. Cờ công giáo treo dọc đường ăn lan đến
cầu Tràng Tiền. Cổng chào dựng lên khắp nơi, nhất là phía
tả ngạn sông Hương. Điều này làm cho quần chúng Phật giáo
bất bình. Vì từ xưa những cuộc lễ lớn về công giáo chỉ
tổ chức quy mô bên địa phận Phú Cam mà thôi” [18].
Rồi
việc Ngô Đình Thục dựa vào thế lực người em làm tổng
thống đã buộc thuộc hạ của gia đình họ Ngô chuyển giao
viện Bài lao Huế cho toà Tổng giám mục để trọn quyền
khai thác. Ngày 2-6-1961, Bộ trưởng Bộ Phủ Tổng thống gửi
công văn cho Ngô Đình Thục cho biết: “Phủ Tổng thống chấp
thuận việc giao cho Quý Toà (Toà Tổng giám mục địa phận
Huế - TG chú thích) quyền khai thác Viện bài lao tại Huế
với trọn quyền sở hữu các tài sản liên quan đến Viện
này.
Tôi đã chuyển đến Bộ Tài chánh hồ sơ về việc nói trên
để hợp thức hoá vấn đề” [19] .
Điều
tệ hại hơn nữa, Ngô Đình Thục còn tổ chức một lực
lượng vũ trang riêng. Tờ Newsweek (New York) ngày 27-5-1963 cho
biết: “Ở vùng biển phía Bắc quanh Huế có nhiều đơn vị
nhỏ, trong những đoàn quân ấy được mệnh danh là “quân
đội Tổng giám mục” chịu trách nhiệm trực tiếp với
Tổng giám mục và có nhiệm vụ chủ yếu là để bảo vệ
nhà thờ và linh mục. Các linh mục được trang bị bằng vũ
khí Hoa Kỳ và phần nào được cố vấn Mỹ huấn luyện”
[20] .
Điều
cần chú ý thêm rằng, chính quyền Ngô Đình Diệm còn ban
hành nhiều nghị định bắt nhân dân miền Nam nói chung và
nhân dân Huế nói riêng, nơi mà đa số là tín đồ Phật giáo
phải hạn chế một số hoạt động kinh tế để thực hiện
tín điều Thiên Chúa giáo. Chẳng hạn, ngày 06-8-1961, chính
quyền Ngô Đình Diệm ra nghị định số 1182-BKT/NTT/NĐ quy
định: “Cấm hạ và bán thịt heo trên toàn lãnh thổ Việt
Nam cộng hoà 3 ngày trong tuần lễ: thứ Ba, thứ Sáu và Chủ
nhật cho đến khi có lệnh mới ... Trong ba ngày cấm trên đây,
thịt heo quay, thịt heo ướp lạnh của những ngày trước
còn lại cũng không được phép bán cho các tiệm, các chợ
mặc dầu dưới hình thức nào” [21] .
Chính
sách cai tri bạo tàn của chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị
chính những nạn nhân vạch trần. Đơn tố cáo ngày 16-11-1963
của ông Đức Sinh Phan Văn Thí viết: “Tại miền Nam Việt
Nam, Ngô Đình Nhu lợi dụng chức vụ cố vấn chính trị cùng
vợ y là Trần Lệ Xuân, dùng nhiều biện pháp con buôn chính
trị, bóc lột đồng bào, đục khoét ngân khố quốc gia, gây
lũng đoạn kinh tế, sát hại nhân tài, tiêu diệt khủng khiếp
những phe đối lập và tàn sát Phật giáo đồ. Trong lúc đó,
tại Trung phần, Ngô Đình Cẩn với bầy tôi gồm một số
sĩ quan và cận vệ khát máu đã nhiễu hại đồng bào, bắt
giam trái phép và tra tấn dã man đa số thương gia và kỹ nghệ
gia, để cưỡng đoạt tài sản của họ, Ngô Đình Cẩn không
biết hỗ mặt là một lãnh chúa miền Trung” [22] .
Do
chính sách tàn bạo của chế độ, nên “dưới mắt
của trí thức và hoàng tộc Huế, Cẩn chỉ là một con người”
nông dân”, một con người” lỗ mãng”, “thất học”
và “quá khích”, leo lên ngôi vị sang cả nhờ thời thế
đẩy đưa mà thôi. Giới trí thức thượng lưu ở Huế sợ
Cẩn, ngán Cẩn nhưng họ rất khinh rẻ Cẩn” . Và người
dân Huế “nhìn vào Cẩn, xa hơn nữa họ nhìn vào Nhu và Diệm
ở Trung ương, họ chỉ thấy một cái gì khác lạ với con
người, một cái mang từ ngoài vào, và không một chút nào
dân tộc. Chính quyền Diệm, trong đầu óc người dân Việt
Nam, cũng chỉ là một giai đoạn lịch sử, một giai đoạn
đen tối, nội chiến thê thảm và nhất thời” [23] .
Chính
sách thống trị của chế độ Ngô Đình Diệm suốt chín năm
ở Huế như đã trình bày ở trên là hết sức tàn bạo và
rất điển hình, đã động chạm đến hầu hết mọi tầng
lớp nhân dân, gây ra trong nhân dân một sự công phẫn cao
độ, làm hình thành nên một mặt trận thống nhất chống
Mỹ - Diệm hết sức rộng rãi. Trong tinh thần và ý chí của
người dân Huế, vấn đề vùng lên đấu tranh chống chính
quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn là cơ hội. Cơ hội đó thực
sự đã đến khi chính quyền Ngô Đình Diệm cho đánh đi Công
điện số 9195 (6-5-1963) có nội dung cấm treo cờ Phật giáo
thế giới trong dịp Lễ Phật đản năm 1963. Công điện này
như “một giọt nước làm tràn ly”, lập tức phong trào
Phật giáo ở Huế chính thức bùng nổ vào ngày 7-5-1963. đó
là một điều hợp quy luật, bởi lẽ ”áp lực cao thì phản
lực cường”.đã thu hút hầu hết các tầng lớp nhân dân
tham gia, gồm trí thức, sinh viên học sinh, tiểu thương, tiểu
chủ, kể cả những viên chức của chính quyền Ngô Đình
Diệm và những tín đồ Thiên chúa giáo; không chỉ nhân dân
nội thành mà phong trào nhân dân các huyện nhập thị tham
gia đấu tranh hết sức đông đảo. Bài viết này góp thêm
một số tư liệu giúp hiểu rõ tại sao Huế đã hình thành
một mặt trận thống nhất chống Mỹ-Diệm hết sức sâu
rộng và quyết liệt. Nói cách khác là để hiểu rõ hơn về
nguyên nhân của phong trào đấu tranh chống chính quyền Ngô
Đình Diệm trong năm 1963 ở Thừa Thiên Huế.
*
PGS. TS. Khoa Lịch sử ĐHSP, ĐH Huế.
01
Thành uỷ Huế, Sơ thảo lịch sử Đảng bộ thành phố Huế,
T.2, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1995, tr.96
02
Công văn số 164-VP/CT/1-M ngày 16-8-1956 của Tỉnh trưởng Thừa
Thiên gửi Đại biều Chính phủ tại Trung Việt. Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.415
03
Công văn mật số 5140/CSCA/TB1.M2 ngày 29-5-1957 của Giám đốc
Nha cảnh sát và Công an tại Trung Việt gửi Tổng giám đốc
Cảnh sát và Công an Việt Nam cộng hoà. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II . Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.315 (2)
04
Công văn mật số 5398/CSCA/TB1.M2 ngày 4-6-1957 của Giám đốc
Nha cảnh sát và Công an tại Trung Việt gửi Tổng giám đốc
Cảnh sát và Công an Việt Nam cộng hoà. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.315 (2)
05
Công văn mật số 1026/CSCA/TB1.M2 ngày 16-8-1957 của Giám đốc
Nha cảnh sát và Công an tại Trung Việt gửi Tổng giám
đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam cộng hoà. Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.353 (7).
06
Công văn mật số 1937/CSCA/TB1.M2 ngày 4-3-1957 của Giám đốc
Nha cảnh sát và Công an tại Trung Việt gửi Tổng giám đốc
Cảnh sát và Công an Việt Nam cộng hoà. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.315 (2).
07
Công văn số 3630/TTNA/CT-BM ngày 12-12-1961 của Tỉnh trưởng
Thừa Thiên gửi Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn Sài
Gòn. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.120
(1).
08
Công văn số 3630/TTNA/CT-BM ngày 12-12-1961 của Tỉnh trưởng
Thừa Thiên gửi Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn Sài
Gòn. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.120
(1).
09
Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao, Nxb Mẹ Việt Nam, San Diego, CA,
USA, 1993, tr.165.
10
Thích Trí Quang, Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam. Tuần
báo Hải Triều âm, số 9, ngày 18-6-1964, tr.2.
11
Nguyệt Đạm & Thần Phong. Chín năm máu lửa dưới chế
độ Ngô Đình Diệm. Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr.
227.
12Nguyệt
Đạm & Thần Phong, Sđd., tr.289.
13Nguyệt
Đạm & Thần Phong, Sđd., tr.300.
14
Nguyệt Đạm & Thần Phong, Sđd., tr.303
15Hồ
sơ gửi Tổng thống và Quốc hội của Hội Phật giáo Trung
phần ngày 20-2-1962 (bản đánh máy). Thư viện Học viện Phật
giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, 1968, tr.
dẫn nhập.
16
Thanh Lãng, Văn chương bình dân. Nxb. Phong trào văn hoá, Hà
Nội, 1954, tr. 225-226.
17
Bùi Tuân, Xây dựng trên nhân vị, Nxb Nhận thức, Huế, 1956,
tr.23.
18
Đỗ Thọ, Nhật ký Đỗ Thọ, Nxb. Đồng Nai, Sài Gòn, 1970,
tr. 59.
19
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.7808.
20
South Vietnam, The Mandarins of Hue, copy from Newsweek, May 27, 1963,
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ky hiệu tài liệu: TM-HS, 209,
tr.1-3
21
Công báo Việt Nam cộng hoà, ngày 6-11-1961. Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu J.412
22
Nguyệt Đạm &Thần Phong, Sđd., tr. 258.
23
Chu Bằng Lĩnh, sđd, tr.135
24
Chu Bằng Lĩnh, sđd, tr. 202