BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
NGỌN LỬA
QUẢNG ĐỨC VÀ BIẾN CỐ PHẬT GIÁO 1963
DƯỚI CÁI
NHÌN CỦA THẾ GIỚI
Hồng
Quang
Sau
Thế Chiến Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để
cung ứng cho chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay
chân Pháp ở Đông Dương biến miền Nam Việt Nam thành tiền
đồn chống Cọng với khẩu hiệu “Để chận đứng sự
bành trướng của chủ nghĩa cọng sản tại vùng Đông Nam
Á”, nhưng thực tế cũng còn để tiêu thụ hết số hàng
hoá và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then
chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ
chấp nhận một chính quyền bù nhìn phục tòng Mỹ, nghĩa
là một chính quyền Công Giáo (vì Tin Lành còn yếu vào thời
điiểm đó) trong một quốc gia mà số tín đồ của họ chỉ
có 5 % dân số. Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục tòng
thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực
hiện, do đó, đã là một trong những nguyên nhân xa và gián
tiếp đưa đến vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc
Thích Quảng Đức nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đình Diệm
và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng
bất công đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ
thời Pháp thuộc kéo dài đến không những với chế độ
Ngô Đình Diệm mà còn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu,
một chính quyền ‘bình mới nhưng rượu còn nguyên’.
Phác
họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế
để thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải
chỉ vì sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (CG và
TL) mà nguyên nhân chính còn là sự bất công áp bức giữa
một tôn giáo và các tôn giáo, là sự đày đọa bất công
của người dân miền Nam Việt Nam dưới một chế độ tôn
giáo ngoại lai độc tài bù nhìn Ngô Đình Diệm. Biến cố
Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước
đã quá đầy. Vì thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi
xướng là một cuộc tranh đấu không những của toàn dân
miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc tranh đấu của những người
yêu chuộng tự do bình đẳng công bằng xã hội trên khắp
thế giới.
Với
cái nhìn thoáng qua chiều dài lịch sử như thế chúng ta mới
biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu nầy lại
được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong
đó có nhiều nhân vật lãnh đạo không có cùng một tín ngưỡng
với người Phật tử Việt nam và nhiều quốc gia lại có
cùng một khuynh hướng chính trị với chính phủ Ngô Đình
Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy càng mạnh hơn
sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm
ngọn đuốc để cảnh tỉnh lòng người.
Ngài
sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Hòa, xuất gia
lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế. Trước lúc tự
thiêu Ngài trú tại chùa Quán Thế Aâm, Sài Gòn. Sau khi 8 Phật
tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và
5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo không được chính
quyền Ngô Đình Diệm thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng
Đức người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam,
sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng nội lực, đã
tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngã tư
đường Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-gòn sáng ngày 11.6.1963.
Khác
với những lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà
Ngô, ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam
đã tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính
nễ:
“
Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần
cũng đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô
lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân hình
chìm trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể
nghe tiếng khóc của những người đang lần lượt kéo đến.
Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để
ghi chép hoặc hỏi một câu, quá bối rối để suy nghĩ...thân
thể chìm trong biển lửa nhưng người vẫn bất động, thịt
gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngã xuống,
những người đang đứng xung quanh òa khóc.”
I was
to see that sight again, but once was enough. Flames were coming from a
human being; his body was slowly withering and shriveling up, his had blackening
and charring. In the air was smell of burning human flesh; human being
burn surprisingly quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese
who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to take notes
or ask questions, too bewildered to even think... As he burned he never
move a muscle, never uttered a sound, his outward composure in sharp contrast
to the wailing people around him. (http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/student.work/hicksr/
).
Những
bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của
HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ
nhanh chóng, và những bức hình tự thiêu do ông chụp
cũng được hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên
trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên độc giả khắp nơi bắt
đầu tò mò về những gì đang xẩy ra tại Việt Nam, một
quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.
‘
Tuy nhiên, thái độ của phái bộ truyền thông Hoa Kỳ lúc
đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các
nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông.
Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản
doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt
chẻ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm
lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo
giỏi các máy điện tín, gài người vào các văn phòng và
chạy theo ký giả trên các đường phố. Dẫu vậy, qua việc
xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng không, và
ngay cả những cảm tình viên quân sự nên giới nhà báo vẫn
chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. Vì thất
bại trong việc điều khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ
Kennedy đã phải đưa công việc nầy lên một đơn vị cao
hơn.’ (A reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace
Savey, University of Oklahoma Pess, 1989 pp. 112 & 113).
Làm
đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ truyền thông của Mỹ và
của Việt Nam đã không thể ngăn chận nỗi các tin tức về
cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức
tự thiêu, nên cả thế giới hầu như được biết tường
tận về biến cố vĩ đại nầy.
a.
New York Times và Washington Post: Ký giả kiêm nhiếp ảnh gia
Malcolm W. Browne viết :
“Những bức hình mà tôi chụp về cái chết của HT. Quảng
Đức đã trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi
cùng khắp thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa
tùy theo cái nhìn của mỗi người.
Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng những
bức hình về cái chết của ngài Quảng Đức được thành
phần diều hâu bày bán khắp cùng ngõ hẻm. Một nhóm giáo
sĩ nỗi tiếng người Mỹ cũng dùng một trong những bức hình
nầy như là một Chú ý cho những trang quảng cáo của họ
trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn
(Washington Post) với hàng chữ “Chúng ta cũng phản đối: We,
too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người
Mỹ ủng hộ chế độ Diệm.” Malcolm W. Browne, The New Face
Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New
York,1968, Tr. 261-262. Xin xem thêm Christian G. Appy, Patriots The Vietnamese
War Remembered From All Sides, tr. 64,68 & 69).
b.
Trung Hoa :Hình tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa
Lục in ra hằng triệu bản. Một trong những bức hình đó
đã gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với hàng chữ lớn
“Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ
nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.”
Những hình ảnh tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một
ấn tượng ảnh hưởng đến tòa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được
biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống
Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt
Nam, Kennedy cũng đã có một bức hình tự thiêu của HT. Quảng
Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẻ
là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ Ngoại
Giao và Toà Bạch ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi
hướng lịch sử Việt Nam” {...Quang Duc’s death probably was
one of the factors that finally turned the State Department and White
House against Diem, altering the course of Vietnamese history to some extent}
(Malcolm W. Browne, The New Face of War, tr. 263).
c.
Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động
tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn
bước.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963,
bản Ronéo 1984, tr.320)
d.
Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời
rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như
sau:
“Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống
ngay tại Sài Gòn buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh
vì Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những
người Gia Tô đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm
cho chúng ta cảm thấy oái oăm.” (Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Ký Chính Trị, Hoa Kỳ 1986,
tr. 640).
e.
Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác ở Thụy sĩ có
ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:
“Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi
loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện vì chính phủ
chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ
tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh
vì Chánh Pháp của Hòa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy
rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và
tư tưởng của họ.” (Đỗ Mậu, sách đã dẫn, tr. 641).
g.
Chính Phủ Ngô Đình Diệm: Sau vụ tự thiêu chấn động
dư luận của HT. Quảng Đức. Ngô Đình Diệm thực sự bối
rối:
“Ông vu khống nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư
Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”
Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist monks to
murder their fellow monk. (Grace Sevy, sách đã dẫn, tr.112).
Bà Ngô Đình Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền
hình American, ký giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:
“Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước
từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một
nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và
bị cưởng bách thiêu sống, nhưng về sau bà Nhu đã tìm cách
từ chối một các phát biểu thiếu trách nhiệm nầy.”
All that the Buddhists have done for the country is to barbecue the monk...She
claimed that Thích Quảng Đức had been drugged and burned against
his will. She later tried to deny having made some of her cynical
comments. (Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam
at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, p .1184).
Ông
Ngô Đình Nhu: Sau vụ tự thiêu của sư cô Diệu Quang tại
Nha Trang ngày 18.8.1963, ông Nhu tuyên bố:
“Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì
tôi rất vui lòng cung cấp xăng.”
If Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the
gasoline. (J. Buttinger, Ibi. p. 995).
Những cuộc tự thiêu đã thức tỉnh thế giới và chấn động
lương tâm nhân loại, nhưng ý nghĩa của nó thì thường bị
hiểu lầm và cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn
không kém. Để làm sáng rõ ý nghĩa các cuộc tự thiêu của
Tăng Ni và Phật Tử năm 1963, tôi xin trích dẫn hai ý kiến
của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành một Phật Giáo để làm
sáng rõ thêm lịch sử.
*
Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong buổi giảng
tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư Harrington
đã mô tả trung thực chân tình và cảm phục việc HT Quảng
Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ý nghĩa
đích thực của hành động tự thiêu:
“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 vị sư tên Thích
Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường
nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và
bắt đầu niệm Phật còn trên chiếc áo cà sa của Người
thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính
cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi
thường gì sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ
đợi.
Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng
Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi Người
bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ
kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động. Người
ngồi thẳng trong mười phút, thân hình chìm trong lửa đỏ,
và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...
Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn
hận nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương”
của “Hòa Bình”, quyết chí tự thiêu?...
Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đã
đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một
lý tưởng cao cả nhất và lòng yêu đời nồng nàn nhất một
đôi khi cũng đã sản xuất những người tử đạo quả cảm
nhất trong lịch sử...
Hòa Thượng Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự thiêu
để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ý
cho toàn thế giới..
Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang
đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy
lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông
Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói
ấy vẫn là tiếng nói của tình thương, tiếng nói mà trong
thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam
Việt Nam. Người đã để lại một bóng đen sĩ nhục lên
sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đã mang lại cho Giáo hội
Thiên Chúa. Người đã làm và Người phải làm, cho mỗi người
Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ
biết rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền
bình đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng
Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải
chấm dứt ngay...
Ngọn
lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ
lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính
đồng bào của họ...” (Vũ Văn Mẫu, sách đã dẫn, tr.322-324.
Xin xem thêm trong cuốn: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, Giao
Điểm 2003, tr.148-160).
*
Ý Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:
“Báo
chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất
không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản
đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức
thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh,
là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và
để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ
triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là
để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà ông đề cập là rất
tối ư quan trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu nói lên với tất
cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng
sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của
tôi...Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một
người, vì thế, không phải là một hành động hủy diệt
mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và
để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải
là một hành động tự tử.”
The
press spoke then of suiside, but in the essence, it is not.It is not even
a protest. What the monks said in the letters they left before burning
themselves aimed only at alarming, at moving the hearts of the oppressors,
and at calling the attention of the world to the suffering endured then
by Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is saying
is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by burning himself, says
with all his strength and determination that he can endure the greatest
of sufferings to protect his people. To express will by burning oneself,
therefore, is not to commit an act of destruction but to perform an act
of construction, that is, to suffer and to die for the sake of one’s
people. This is not suicide.
Thầy
Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu
của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử,
tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:
“Tự
tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây:
(1) thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất
bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị
tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không
thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái
lại, ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một
cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy;
nhưng
tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình
cho kẻ khác...Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu
không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay
đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải
là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung,
cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng
đang nằm sẵn trong tâm của con người.”
(Suicide
is an act of self-destruction, having as causes the following: (1) lack
of courage to live and cope with difficulties; (2) defeat by life and loss
of all hope; (3) desire for non exsistence... The monk who burns
himself has lost neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence.
On the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for something
good in the future. He does no think that he is destroying himself; he
belives in the good fruition of his act of self-sacrifce for the sake of
others ... I believe with all my heart that the monks who burned themselves
did not aim at the death of their oppressors but only at a change in their
policy. Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism, dictatorship,
cupidity, hatred, and discrimination which lie within the heart of man.”
(Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc.1967).
Sau
cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8 bằng kế hoch “Nước
Lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới ngày càng
hiểu rõ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt
Nam. Vì thế, họ đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo
và chỉ trích chính sách kỳ thị bạo ngược của chính phủ
Diệm.
Trong
những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh
đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành phần. Những
người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa
phần theo Phật Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật.
Sau đây là một số trích dẫn.
1.
LM. Lê Quang Oánh*: Từ hồ Than Thở Đà Lạt ngày 12.5.1963,
Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối Giải Sĩ Đồng Tâm,
Linh Mục T. Võ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan Hương... gởi
thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam
bày tỏ sự đồng tình cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư
có đoạn viết như sau:
“Chúng tôi lên án “Tội bất công” đã giết hại đồng
bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản
tự do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam,
một nườc văn hiến trên bốn nghìn năm lịch sử.
“Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”
2.
Vatican: Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đã ba lần lên
tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng đọc
một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư
nầy đều bị chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn cấm không
cho phổ biến. Một đoạn trong thông điệp nầy đã được
Giáo Hoàng viết như sau:
“Giáo Hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dõi
các biến cố bi thảm đương dầy vò nhân dân Việt Nam và
sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng
cầu nguyện để cho tất cả mọi người, rong mối hợp tác
khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính,
đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và tình huynh
đệ”
Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements
qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient
de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que
tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutual respect des
libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et
la fraternite.ù (Bốn Mươi Năm Nhìn Lại tr.126.
3.
Cao Miên: Sau ngày HT Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn
Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên,
đã viết thư lên án chính phủ Ngô Đình Diệm và thỉnh cầu
Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau
khi cacù chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính
phủ Cao Miên ngày 23.8.63 đã chính thức ra thông cáo kịch
liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong thông cáo
viết:
“Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi nhận đươc tin
Chính phủ Sài Gòn đã đàn áp dã man tín đồ Phật giáo...Chính
phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật
tử Việt Nam” (Bốn Mươi Năm Nhìn Lại sách đã dẫn, p.133).
Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao
với Việt Nam bằng những lời lẻ rất nặng nề:
“..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc
khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những
hành động dã man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” (BMNNL, tr
. 134).
4.
Tích Lan: Ngọn lữa từ bi hùng tráng Thích Quảng Đức
và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đã khiến bà
Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động.
Bà kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ
Tích Lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào
vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63 hội
nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo
trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh vì
tín ngưỡng (BMNNL tr.136).
5.
Miến Điện: Sau ngày các chùa tại Việt nam bị bố ráp,
chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn. Báo Guandiantai tai
Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính sách bạo
ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết rằng:
“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính
phủ đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật
tử Việt Nam mà có thể giữ được nguyên vẹn tình cảm
ngoại giao với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á” (BMNNL.
tr.138).
6.
An Độ: Nhiều
hội Phật Học Aán yêu cầu thủ tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63,
Tổng Thư Ký đảng Quốc Gia Aán rất công phẫn chế độ
Ngô Đình Diệm và cảm nhận nỗi đau thương của tín đồ
Phật Giáo Việt Nam:
“Nhữn gtin tức loan đi từ Sài Gòn đã làm chấn động du9
luận tại Aán Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự
tàn bạo mà các đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm
cho ta phẫn nộ khi nhớ rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo
động.”(BMNNL, tr.138).
7.
Thái Lan: Ngày 22.8.63 thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng
Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ bộ gồm
các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo
Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan,
Phó giám đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đã khuyến
cáo chính phủ Việt Nam bằng những lời gay gắt và như một
tiên tri:
“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình
Diệm sẽ hứngg chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi
hình thức, hiểu theo giáo lý nhà Phật, kể cả giệt vong
và địa ngục...” (BMNNL, p.141).
8.
Đài Loan: Bộ ngoại giao Đài Loan tuyên bố rất lo ngại
cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam và mong mõi chính
phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm dứt
cuộc khủng hoảng.
9.
Nam Hàn: Đại đức Kapchong, Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo,
gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu cầu chấm dứt việc đàn
áp Phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên trong hội đồng
Quân nhân cách mạng, đã gởi thư lên án chíng phủ Việt
nam đàn áp Phật tử một cách vô nhân đạo.
10.
Nhật Bản: Tổ đình Bổn Nguyệt Tự tổ chức một buổi
lễ đại cầu siêu cho cố HT. Quảng Đức và Phật tử Việt
Nam hy sinh vì tín ngưỡng. Mặc dù dè giặt nhưng Thứ trưởng
Ngoại giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt
Nam tại Nhật để biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật
Giáo Việt Nam.
Báo chí và dư luận của các nước Tây Phương rất nhiệt
tình và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.
11.
Báo Le Monde: Được xem là phản ảnh quan điểm của Bộ
Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đã công kích chính phủ
Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt như sau:
“Biến cố ở Huế đã xẩy ra do sự đàn áp tàn bạo của
nhà cầm quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất
mãn của nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần
sự cô lập và thất nhân tâm của một nhóm thiểu số Thiên
Chúa Giáo được ưu đải.” (BMNNL, tr.144).
12.
La Croix: Là một nhật báo có nhiều ảnh hưởng trong giới
Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm chống đối chính sách
độc tôn của chính Phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi tín đồ
Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam. (Hoành Linh Đỗ
Mậu, tr. 640).
13.
Báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số ra ngày 8.8.1963
viết:
“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi cách để buộc ông
Diệm phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người
ta hết sức kinh ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của
Tổng Thống Diệm, vu khống các lãnh tụ Phật giáo là phiến
loạn, sát nhân, và áp dụng chiến dịch Cọng sản. Có tin
cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm, có thể
cầm đầu một cuộc đảo chánh đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại.
Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh
như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lý chống Phậ
giáo, và cũng là một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ.” (BMNNL,
tr.147).
14.
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Liền sau khi các chùa
trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ
biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:
“Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài goon, rõ ràng chính phủ
Việt Nam Cọng Hòa đã có hnững biên pháp đàn áp nghiêm khắc
các lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một
vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết
theo đuổi một chính sách hòa giải với tí đồ Phật Giáo.
Hoa kỳ phiền trách các hành động đàn áp loại nầy.”
Text of Statement issued by Department of State, Washington, on August
21: On the basis of information from Saigon, it appears that the Government
of the Republic of Vietnam has instituted serious repressive measures against
Vietnamese Buddhist leaders. The action represents a direct violation by
the Vietnamese Government of assurances that it was pursuing a policy of
reconciliation with the Buddhists. The United State deplores repressive
action of this nature. (Vũ Văn Mẫu, tr.333).
15.
Liên Hiệp Quốc: Với những hình ảnh Phật tử Việt nam
bị đàn áp, bắt bờ, tù đày, vu khống bởi chính quyền
Ngô Đình Diệm được đăng tải vào trang nhất của hầu
hết các báo khắp thế giới, tổ chứccLiên Hiệp Quốc đã
không thể làm ngơ, nên ngày 24.9.1963 một phái đoàn đặc
biệt được gởi đến Việt Nam để điều tra vụ Phật Giáo.
Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phái đoàn Liên
Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để điều tra,
nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đã thu thập đủ bằng chứng
để kết luận rằng ‘Phật tử Việt Nam bị chính quyền
Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết
hại và cải đạo trong nhiều năm qua.’
Tóm
kết, cuộc tranh đấu Phật giáo 1963 không nằm hạn hẹp trong
việc đòi hỏi sự bình đẳng và quyền tự do tôn giáo mà
còn là một cuộc đòi hỏi về công bằng xã hội và quyền
được sống an bình trong một quốc gia như bao nhiêu quốc
gia khác trên thế giới. Cuộc tranh chấp ý thức hệ mà Việt
Nam là một bải chiến trường để đọ sức. Khí giới, bom
đạn, hàng hoá bị thặng dự sau Thế chiến Thứ hai thì Việt
Nam là một thị trường tốt để tiêu thụ. Người Việt
trở thành nạn nhân nhưng được các cường quốc che dấu
bằng những danh từ hoa mỹ.Vì thế, cuộc tranh đấu Phật
Giáo 63 được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới tán
đồng. Sự tự hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức
cũng như những ngọn lửa thiêng tiếp nối sau đó là để
chính phủ Ngô Đình Diệm tỉnh thức và thế giới lưu tâm,
nhưng kết quả là cộng đồng thế giới có lưu tâm nhưng
chính phủ Ngô Đình Diệm lại không đếm xĩa nên cuối cùng,
chế độ mất lòng dân và ngược thời đại nầy đã bị
sụp đổ..
Những
ngọn lữa thiêng và biến cố 63 đã tạo cơ duyên tốt cho
Phật Giáo để chấn hưng và vận hội mới cho quy trình cách
mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước,
vào thế chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và
nhất là tùy thuộc vào những con người có lương tâm, trí
tuệ và hùng lực của thành phần lãnh đạo.
Bùi
Kha
Ngày
Phật Đản
22.5.2005
--------------------------------------------------------------
•
Tôi chỉ liệt kê một người khác tín ngưỡng tiêu biểu.
Sách
Tham Khảo
1.
Giao Điểm: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, Giao Điểm 2003
2.
Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi
Ký Chính
Trị, Hoa Kỳ 1986
3.
Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo
1984
4.
Appy, Christian G. Patriots The Vietnamese War Remembered From
All Sides, New York 2003
5.
Browne, Malcolm W. , The New Face Of War, Revised Edition, The
Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968
6.
Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at
War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967
7.
Nhat Hanh, Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc.1967
8.
Savey, Grace, A Reader, The American Experience in Vietnam, edited
by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989
9.
Tucker, Spencer C. Editor Encyclopedia of the Vietnam War, a
Political, Social, and Military History
10.
Tuần báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo), tháng 6-8.1963
11.
U.S. News & World Report: Tháng 6-8.1963
12.
Tuần báo Time, tháng 6-8.1964
13.
Tuần báo Washington Post tháng 6-8. 1964
14.
http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/ tudent.work/hicksr/