Phần I - Bài đọc thêm
Tôn giáo và giá trị thực tại
Thích Tâm Thiện
I- Phật giáo và khái niệm tôn giáo
Ði
vào quy ngưỡng một đời sống tôn giáo, trước hết, con người cần phải
biết tôn giáo là gì và tôn giáo ấy như thế nào. Nếu không thấy được điều
đó, thì sự quy ngưỡng sẽ trở nên một lưu lộ của sương mù ảo ảnh. Cố
nhiên, ở đây sẽ không có bất kỳ một giá trị tâm chứng nào được bàn đến.
Từ xưa đến nay, các
nhà tư tưởng triết học tôn giáo thường nỗ lực tạo ra một định nghĩa về
tôn giáo, song, đối với Phật giáo, các định nghĩa ấy chưa hề tạo nên một
chân dung hoàn thiện nào. Ở đây, tôi xin dẫn một vài định nghĩa như
sau:
- Từ điển Oxford
ghi rằng: "Tôn giáo là hệ thống của niềm tin và sự tôn thờ, là sự trực
nhận của con người về năng lực chế ngự siêu nhiên, đặc biệt là về một
ngôi vị Thượng đế có quyền uy được tuân phục, là kết quả của sự trực
nhận như thế trong cách ứng xử, v.v... (System of faith and worship;
human recognition of super human controlling power and especially of a
personal God entitled to obedience, effect of such recognition on
conduct etc...).
- Carlyle thì cho
rằng: "Tôn giáo là điều mà con người thực sự tin tưởng, thực sự ghi khắc
trong lòng và hiểu biết chắc chắn, có liên quan đến các mối tương hệ
sống còn của con người và vũ trụ u huyền này, cũng như bổn phận và định
mệnh của con người trong vũ trụ" (The thing a man does practically to
heart and knows for certain, concerning his vital relations to this
mysterious universe and his duty and destiny therein).
- J.S.Mill thì bảo
rằng: "Yếu tính của tôn giáo là sự hướng dẫn một cách mạnh mẽ và nhiệt
thành những cảm xúc và ước vọng hướng đến một đối tượng lý tưởng được
xem là tuyệt hảo, là đỉnh cao tột cùng để vượt qua mọi đối tượng ích kỷ
của dục vọng" (The essence of religion is the strong and earnest
direction of the condions and desires towards an ideal object recognized
as of the highest excellence, and as rightly paramount over all selfish
objects of desire).
- Aldous Huxley thì
cho rằng: "Tôn giáo là một hệ thống giáo dục mà qua đó, con người có
thể tự rèn luyện, trước hết là để tạo ra những thay đổi cần thiết trong
bản thân con người và xã hội, rồi sau đó, để nâng cao ý thức nhằm kiến
tạo những quan hệ thích đáng hơn giữa họ và vũ trụ mà họ là một thành
phần" (Religion is, among many other things, a system of education,
by means of which human beings may train themselves, first to make
desirable changes in their own personalities and, at one remove, in
society, and in the second place, to heighten consciousness and to
establish more adequate relations between themselves and the universe of
which they are parts).
Nói chung, từ những
định nghĩa trên, tôn giáo có thể được phân làm hai khuynh hướng: Thứ
nhất, xu hướng định nghĩa tôn giáo như là một hệ thống luân lý đạo đức
mà qua đó, bằng lý trí, con người có thể trực nhận được. Thứ hai, xu
hướng quan niệm tôn giáo theo một thể cách nhiệm mầu, mà ở đây đòi hỏi
một sự cảm nhận và suy tưởng. Bên cạnh đó, còn có những quan niệm thuần
lý về tôn giáo như phát biểu của Thomas Paine, ông đã thốt lên trong
giây phút cuối cùng của cuộc đời rằng: "Thế giới là quê hương tôi, nhân
loại là anh em của tôi, và làm lành là tôn giáo của tôi" (The world is my country, mankind are my brotherhood, and to do good is my religion).
Hay một số trường hợp, khi bàn luận về tôn giáo và giá trị của nó, các
triết gia Ấn hiện đại thường quan niệm rằng, tôn giáo không phải là một
chuỗi các học thuyết uyên áo, mà là kinh nghiệm nội tại (inner
experience), kinh nghiệm này luôn luôn được đặt trên căn bản của sự trực
nhận cái hiện hữu thánh thiện (Presence of the divine) trong con người.
Từ đây, có một giao
điểm giữa các tôn giáo Ðông phương và Tây phương hay tôn giáo nhân loại
nói chung, là đặc tính Thiện (Loving-kindness) mà trên đây, Thomas
Paine, một triết gia nhân bản người Anh, một cách hùng hồn bảo rằng:
"... Làm lành là tôn giáo của tôi".
Tuy nhiên, cũng rất
phức tạp nếu cho rằng tôn giáo là làm lành, vì như thế, những ai làm
lành đều có tôn giáo ư? Vả lại, quan niệm về làm lành cũng không giống
nhau giữa các quốc gia, dân tộc, sắc tộc, bộ tộc. Ở đây, chỉ xin đơn cử
một việc là vấn đề kế hoạch hóa gia đình theo phương pháp y học hiện đại
là thiện hay bất thiện, điều đó ngày nay thế giới vẫn còn đang bàn cãi !
Từ những tiền đề
trên, chúng tôi xin đi vào trình bày một khái niệm tôn giáo theo tinh
thần Phật giáo, nhằm góp phần soi sáng giá trị đích thực của tôn giáo
trong đời sống hiện đại.
Phật giáo, theo
cách ngôn của Thiền sư D.T.Suzuki, là một tôn giáo khước từ mọi định
nghĩa khách quan, vì định nghĩa là đặt giới hạn cho sự thăng hoa của
nguồn mạch tâm thần (Rligion refuses to be objectively defined, for this
will be setting a limit to the growth of its spirit). Ở đây, định nghĩa
này hướng vào hai mục tiêu: một là lý trí thuần lý, hai là kinh nghiệm
nội tại.
Về mặt lý trí thuần
lý, theo Phật giáo, ngôn ngữ và tư duy chỉ có khả năng phân tích, quan
sát trên bề mặt sinh thái của con người và vũ trụ, nó là thể cách hoạt
động thuộc hình nhi hạ (physique). Trong khi đó, kinh nghiệm tâm linh là
một cơ cấu thuyên thích nội tại (implicit hermeneutical structure), tự
nó vốn đã thoát ly nhất nguyên (monisme), nhị nguyên (dualisme) và đa
nguyên (pluralisme), nó thoát ly ngôn ngữ hình thái vì nó vô tướng, nó
thuộc hình nhi thượng (métaphysique), tạm gọi là như vậy. Nói như thế
không có nghĩa là Phật giáo chủ trương dẫn dắt con người đi vào một thế
giới mông lung hương khói, mà chính là giúp con người xé toang bức màn
mông lung hương khói của logic tư duy hữu ngã, đưa con người trở về cái
bản thể thánh thiện ngay trong cái cơ cấu nội tại (inner necessity) của
chính con người. Từ đây, nếu cần định nghĩa về Phật giáo thì sẽ định
nghĩa như vầy:
Suzuki tiếp: "Ðịnh
nghĩa của Phật giáo phải là nguồn sinh lực uyên nguyên của chính nó thúc
đẩy tới trước một dòng động mạch tâm linh, mang tên là Phật giáo" (The
definition of Buddhism must be that of the life-force which carries
forward a spiritual movement called Buddhism). Tại đây, tôn giáo theo
Phật giáo sẽ không được bàn đến ở bất luận nơi nào thiếu vắng sinh thái
tâm linh, hay là một sự nội chứng tự thể (inner individual experience).
Cố nhiên ở đây ta không thể tìm được một phê bác nào cho rằng sự quay
trở về với bản thể uyên nguyên của mỗi người là quan điểm quy kỷ
(egocentric). Vì ngay từ đầu, khi cất bước quay trở về, tự thân của mỗi
cá thể, trước hết, phải rũ sạch mọi chấp trước về cái tôi (I), cái của
tôi (mine) và cái tự ngã của tôi (myself). Nhưng cũng không vì vậy mà
con đường ấy bị gọi là vô quy kỷ (nonegocentric), vì ngay tại đó, Phật
giáo thiết lập một cứu cánh thực tại (ultimate reality) vốn bản nguyên,
tự hữu và vĩnh hằng: nó là Tathata - Như như, một thực tại hiện sinh
(existential), một nguồn sống tương tục của tri giác và thực tại. Do
vậy, Phật giáo không phải là tín ngưỡng suông hay quy tắc thần khải do
quyền lực thiêng liêng khai sáng và chỉ bảo, hoặc lòng kinh sợ một cái
gì u huyền mình không biết, mà Phật giáo là giáo huấn đưa con người đi
đến giác ngộ bằng con đường thực nghiệm, nội chứng tự thân. Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật dạy: "Như đất, người giữ tâm quân bình, có nếp sống kỷ
cương, không còn nghe xúc động. Người ấy như trụ đồng, như ao hồ phẳng
lặng, không bị bùn đất làm nhơ. Với người có tâm quân bình như thế, cuộc
đi lang thang bất định của đời sống không còn lặp lại nữa" (Like
earth, a balanced and well disciplined person recents not. He is
comparable to an indakhila. Like a pool unsullied by mud, is he, to such
a balanced one life’s wanderings do not arise -- Dhp, 95.
II- Phật giáo - tôn giáo thời đại
Nhà bác học
A.Einstein phát biểu rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo
toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy
phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản
của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện
trên trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, và Phật giáo đáp ứng đủ các điều
kiện ấy" (The religion of the future will be a cosmic religion. It
should transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering
both the natural and the spiritual, it should be based on a religion
sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual,
as a meaningful unity. Buddhism answers this description - Einstein
Testament).
Trên cơ sở của lời phát biểu này, tôi xin tập chú vào Phật giáo với những tính cách như sau:
1)- Phật giáo - một tôn giáo vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học.
Suy cho cùng, Phật
giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với
chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con
người, cũng như hàng loạt hệ thống giá trị có liên quan với con người,
với thiên nhiên, như con chim, hòn đá, cành me... Ðó chính là mối tương
quan Duyên sinh (paticcasamuppàda) của hiện hữu. Thông qua đó, con người
thấy được mình, thấy được giá trị hiện hữu của mình cũng như đồng loại
và dị loại, mà trong đó ý thức và hành động của con người cá thể tự nó
quy định cho nó một định mệnh. Ðức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân
của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp; nghiệp là quyến thuộc, là nơi
nương tựa, nghiệp là thai tạng mà từ đó con người sinh ra" (Owner of
their karma are the beings, heirs of there karma, the karma is their
womb from which they are born, their karma is their friend, their
refuge...).
Kinh Pháp Cú, Ðức
Phật cũng dạy rằng: "Không ai có thể làm cho ta trở nên trong sạch, cũng
không ai làm cho ta ô nhiễm; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, chính
ta làm cho ta ô nhiễm, và cũng chính ta làm cho ta trong sạch".
Ở đây, Ðức Phật
không hề thừa nhận vô luận một năng lực quyền uy tối cao có thể ngự trị
cuộc sống của con người; chỉ có con người là kẻ duy nhất tạo tác, gặt
hái, và điều hành định mệnh của chính y.
Giáo thuyết tương
quan nhân quả cũng nhấn mạnh rằng, thiện nghiệp hay ác nghiệp đều là
nhân quả chín muồi của tâm lý và hành động. Trong mối tương quan
nhân-quả, thông qua thiện ác, con người kiến tập cho mình một định mệnh.
Ðồng thời, con người cũng có khả năng giải phóng y ra khỏi cái định
mệnh thực hữu hiện tiền, mà trong một quá khứ liên tiến xa xôi, y đã
gieo trồng thông qua mọi hành vi, cử chỉ, tâm lý, thái độ... của chính
y. Như vậy, nhân-quả ở đây, theo Phật giáo, không phải là mối tương quan
cơ giới, mà là một hệ thống tương quan nhân-quả sinh vật định hướng
(orientated biological causation). Do vậy, giáo thuyết nhân quả, trên
góc độ triết học, là một sức mạnh nội tại nhằm đánh thức con người và
trả con người về với chính nó, về với trách nhiệm và bổn phận của chính
tự thể, chủ thể tạo tác. Như thế, vô hình trung giáo thuyết nhân quả đã
dìu dắt con người đi ra khỏi vòng cương tỏa của thần linh, giáo điều và
thần học. Con người ý thức rằng, y buộc phải gánh chịu mọi hậu quả do
tâm lý và hành động tạo tác của chính mình mà không cần trông đợi bất kỳ
một sự cứu rỗi nào. Thánh Phao-lồ nói rằng: "Nếu Chúa Ki-tô không thức
dậy trong ông thì lòng tin của ông hóa ra hư giả, và ông vẫn đắm chìm
trong tội lỗi" (If Christ be not raised, your faith is vain, ye are yet in your sins).
2)- Phật giáo - một tôn giáo bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên
Với thế giới tự
nhiên, Phật giáo nhìn chúng qua đôi mắt Duyên sinh; với thế giới siêu
nhiên, Phật giáo đi vào bản thể - thoát ly hình tướng, âm thanh, thoát
ly các phạm trù đối lập (nondualism).
Như vừa trình bày,
trước hết, Phật giáo nhìn nhận sự tồn tại và hiện hữu của con người và
thế giới như là sự hiện hành của tương duyên (interconnecting #
condition). Trong đó không hề có bất kỳ một sinh thể nào tồn tại một
cách độc lập mà không cùng tương hệ, hòa điệu với các điều kiện cấu
thành. Từ mối tương quan Duyên sinh này, Ðức Phật dạy rằng, không thể
tìm ra một nguyên động lực nào làm chủ vòng luân chuyển của tiến trình
sinh thái (ecosystem) hay cấu trúc sinh thái (ecological structure)
trong sự hiện hữu của con người và thế giới. Ðây là nội dung của đạo lý
Duyên sinh vô ngã (paticcasamuppàda-anatta); bao gồm cả nhân vô ngã
(pudgalanairatmya); hay cũng gọi là Không (Sunyata). Trên bình diện
triết học, tính Không là cái cứu kính của thực tại bản nguyên; tri giác
về tính Không nghĩa là thể nhập thực tại tối hậu. Nhưng cần ghi nhận
rằng, Không ở đây không mang tính đối lập giữa các phạm trù của Hữu và
Vô, nó cũng không phải là sự rỗng tuếch.
Ðể rõ ràng hơn, tôi xin trình bày khái lược một số "ý niệm" về tính Không như vầy.
Trước viễn cảnh của
thực tại (ontological), con người hằng tưởng rằng có một "trú xứ vĩnh
hằng" ở một thế giới xa xăm nào đó mà y luôn ước vọng rằng sau khi hoàn
tất cuộc đời trần thế, với một ân sủng nào đó, y sẽ được trở về với nó.
Ðây quả tình là một ý tưởng mông lung, hão huyền !
Nhưng khi Phật giáo
nói "Nhất thiết không", con người lại thường rơi vào logic tư duy, mong
soi sáng nó trong tương quan của những phạm trù (category) hoặc bán
phạm trù (sub-category) trong dòng đối lập hữu ngã, hoặc hữu (abhava)
hoặc vô (bhava) theo một khuôn mẫu triết lý (philosophical # pattern),
hoặc đồ giải (map-out) theo những cắt nghĩa (interpretine concepts)
thông tục. Vì thế, y cứ luẩn quẩn trong hữu vô, sinh-diệt, thường-đoạn,
khứ-lai, mà không thể trực nhận cái thực tại bản nguyên (original
reality) vốn mang một giá trị bất biến và vĩnh hằng trong đời sống thực
tại này. Ðức Phật dạy rằng: "Tất cả hiện tượng (dharma) tự nó không có
tự tính (svabhava), không sinh khởi, không tận diệt, vốn thanh tịnh và
như như (tathata)".
Ở đây, trên cơ sở
thực tại luận (ontological analysis) và giải thoát luận (soteriological
attainment), chúng ta sẽ khảo sát sơ lược về tính Không theo quan điểm
của triết học Duy thức hay tư tưởng Ðại thừa nói chung.
Trước hết, tính
Không được xem là Chân tính (true nature) của tất cả hiện hữu (dharma).
Do tri nhận về tính Không mà con người đạt đến sự toàn tri (hay giác
ngộ). Nói vạn hữu là Không, không phải là cách ngôn phủ định thế giới
thực hữu của sự vật hiện tượng (the world of phenomena) mà nhằm minh
giải rằng chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức đều được sinh
khởi, tồn tại và hiện hữu (becoming) trên cơ sở của hàng loạt giá trị
nhân-duyên; vì thế, chúng được gọi là không có thực thể (non-entity),
không tự hữu và độc lập. Theo tiến trình Duy thức, bất kỳ một hiện hữu
nào cũng được nhận diện qua tự tính, đó là:
a. Tự tính giả lập (Parikalpita-svabhava)
b. Tự tính tùy thuộc (Paratantra-svabhava)
c. Tự tính tuyệt đối (Parinispanna-svabhava)
a/- Tự tính giả
lập: Rằng theo quan niệm tự nhiên (natural stance), chúng ta thường xu
hướng sở hữu hóa tự tính của sự vật, xem nó như một sinh thể cá biệt
(visera). Nhưng tự nó thực sự không có tự tính cố hữu, mà thuộc tính của
nó là vô tự tính (nihsvakhava), vô ngã tính (anatta). Cho nên, cái tự
tính mà con người áp đặt lên sự vật hiện hành đó, gọi là tự tính giả
lập. Nó là sự hình thành của sự tiếp xúc giữa các giác quan (mang tâm lý
của chủ thể) và thế giới khách quan - thế giới sự vật hiện tượng (thuộc
khách thể - đối tượng) mà thuật ngữ gọi là các uẩn (skandhas), xứ
(ayatanas), và giới (dhatus).
b/- Tự tính tùy
thuộc: Rằng các sự vật không thực có cái tự tính giả lập, như thế không
có nghĩa là sự vật không hiện hữu. Ở đây, vấn đề nhằm giải minh cái tiến
trình hiện hữu (process of becoming) của sự vật, thực chất nó là hệ quả
của tương duyên, nên đặc tính của nó là vô thường, đoạn diệt. Quan điểm
này vừa phê bác các học thuyết quy nạp (reduction) thế giới hiện sinh
vào một thực thể đơn nhất và vừa không chấp nhận những luận thuyết "ngẫu
nhiên", theo đó, sự vật hình thành theo một thứ chủ nghĩa vật chất đơn
thuần. Vì vậy, nếu khước từ tự tính tùy thuộc này, tất yếu sẽ rơi vào hư
vô chủ nghĩa, nếu không muốn nói là phản bác chân lý thực tại - đang
là.
c/- Tự tính tuyệt
đối: Rằng hiện hữu là Như như (Tathata), vì trong tự thể của sự vật vốn
không mang tự tính giả lập, và ngay cả cái tự tính tùy thuộc thực chất
là tự tính Không, hay là thực tính vô tính. Như thế, rõ ràng trên bình
diện ngôn ngữ và tư duy, cái mà gọi là tự tính thì không bao giờ hiện
hữu và thực hữu, nó là vô ngã (anatta).
Như vậy, sự biện
biệt về ba tự tính nhằm giải minh rằng tự tính giả lập soi sáng sự vật
vốn "Không"; rằng tự tính tùy thuộc soi sáng thế giới và con người là
"Duyên khởi"; rằng tự tính tuyệt đối minh định bản thể "Như như" (mang
đặc tính Niết bàn) vốn hiện hữu ngay trong thế giới này, con người này
mà không phải là một cõi mênh mang, vô định nào khác. Do đó, thấu triệt
và biện minh về tính Không qua ba tự tính cốt là để thể nhập ba vô tính
của hiện hữu; đây là toàn thể tiến trình thể nhập thực tại và thành tựu
giải thoát của triết học Duy thức.
III- Phật giáo - một tôn giáo của đạo lý tri thức và kinh nghiệm tổng thể
Nói đến Phật giáo
là nói đến một đời sống đạo với phương châm: "Không làm các việc ác, chỉ
làm các việc lành, làm cho tâm ý trong sạch" (Not to do evil,to do good, to purify one’s mind).
Sự giác ngộ của Ðức Phật là đoạn kết của một cuộc hành trình về tâm
linh, một cuộc hành trình đầy gian truân, vất vả. Nhưng chính cái ý chí
siêu phàm và nghị lực phi thường đã biến Thái tử Siddhartha từ một con
người (với ý thức đạo lý sâu sắc và kinh nghiệm tổng thể về con người và
cuộc đời) trở thành một vị Phật. Như thế, Phật là một con người đã giác
ngộ, một chúng sinh đã đạt được tuệ giác bình đẳng vĩ đại. Từ đây, cần
xác định rằng, chính cái kinh nghiệm nội tại (inner experience) là yếu
tố làm thăng hoa Vô thượng Chánh giác tâm và "ngộ" là giây phút nở nụ
trưng bày Vô thượng Chánh giác tâm giữa lòng hiện hữu của muôn loài. Ðức
Phật dạy: "Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, trên lộ trình
giác ngộ, các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, trong đại dương luân hồi,
các con là hải đảo của chính mình, Như Lai chỉ là bậc Ðạo sư trên nguyên
tắc".
Trong con đường tu
tập, Phật giáo đặc biệt coi trọng ý thức đạo lý và cái kinh nghiệm nội
tại của tự thân con người. Vì rằng trong các quan năng giao tiếp, ý thức
được xem như là chủ nhân điều động tư duy và tạo tác của con người, cho
nên lộ trình tu tập bao giờ cũng lấy ý thức làm cơ sở. Ðức Phật, trong
kinh Pháp Cú, dạy rằng: "Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác, đối với ý
nhiễm ô, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe chân vật
kéo... Ðối với ý thanh tịnh nói lên hay hành động an lạc, bước theo sau,
như bóng không rời hình". Từ đây, trong lối sống Phật giáo, từ niềm tin
cho đến sư quy ngưỡng ba ngôi Tam bảo, bao giờ cũng đòi hỏi một sự ý
thức đúng đắn hay là cái tâm thanh tịnh mà thuật ngữ thường gọi là
Ehi-pasiko, tức là "hãy đến và tri nhận". Phật giáo không dạy con người
tin và quy ngưỡng những gì mình không biết.
Mặt khác, đó là cái
kinh nghiệm cá thể hay sự tâm chứng nội tại cũng được hàm chứa trong
thuật ngữ Ehi-pasiko. Về đời sống đạo, yếu tố con người là chính mà
không phải là đối tượng tôn thờ. Vì đạo vốn ở thực tại và đời sống thực
tại. Tuy nhiên, Phật giáo không phủ nhận các phương tiện để đưa con
người vào đạo, đó chính là nội dung của câu nói:
"Mượn chỉ đưa diều lên khỏi gió
Buông thuyền lúc khách đã sang sông"
Như vậy, người Phật
tử đúng nghĩa phải xây dựng cho mình một đời sống ý thức đạo lý và một
kinh nghiệm nội chứng. Kết hợp hai yếu tố này nghĩa là gặt hái được một
giá trị chân lý vĩnh hằng - hay giá trị tâm linh. Tất nhiên ở đây đòi
hỏi một sự toàn tri vượt lên mọi huyễn hoặc và rũ sạch mọi cảm nhiễm của
cuộc đời trần thế này. Ở đó, bấy giờ là một dòng động mạch tâm linh
tuôn trào bất tận vào cuộc đời với hào quang sáng chói, mà không hề chối
từ bất kỳ một sự phủ dẫm nào, cũng như không bị ngăn che bởi bất luận
một chướng ngại nào. Trên bước đường vươn đến sự hoàn thiện cao nhất
trong đời sống đạo, mỗi bước thăng hoa là một lần ý thức tự ngã được
buông thả, cho đến khi nào con người thực sự sống trọn với trạng thái
không bản ngã - lúc ấy, Niết bàn chân thực hiển lộ ngay tại con người
này và ngay tại cuộc đời.
Ðể kết thúc, tôi
xin dẫn lời phát biểu của Hòa thượng Thích Thiện Siêu như sau: "Niết bàn
là một cái gì tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng,
không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên khó vào. Muốn vào
Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ
bằng tơ tóc, nên ta không thể mang thêm một hành lý nào mà hy vọng vào
Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cả ý niệm về tôi,
về ta cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì càng xa Niết
bàn. Nên biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi, mà vô ngã là Niết bàn."./.