Phần II - Bài đọc thêm
Lịch sử kết tập kinh-luật-luận lần thứ ba
Thích Phước Sơn
Sau
Phật Niết bàn 100 năm thì Ðại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn
ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập
lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức
là 325 năm trước Tây lịch. Ðại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề
xướng và bảo trợ .
Vua A Dục ra đời
khoảng 200 năm sau Phật Niết Bàn, tức khoảng 340 năm trước Tây lịch. Lúc
ông còn trẻ vốn tính tình hung bạo, nên không được phụ vương yêu thích,
do đó ông bị đưa đi trấn nhậm một vùng đất xa xôi. Ðến khi phụ vương
băng hà, ông liền đem quân về triều, giết người anh cả là Hoàng thái tử
Tu Ma Na (Sumara) và tất cả những người anh em khác, chỉ để lại người em
cùng mẹ là Túc Ðại Ða (còn gọi là Ðế Tu) rồi lên ngôi vua. Sau khi tức
vị, trong khoảng 3 năm đầu, nhà vua chỉ phụng sự ngoại đạo, theo truyền
thống của tiên vương để lại.Ðến năm thứ ba, nhân trông thấy một Sa di
tên Nê Cù Ðà (Nigrodha) oai nghi tề chỉnh, tướng mạo đoan trang, nên vua
phát tâm tín kính Phật pháp.
Vị Sa di này chính
là con của Tu Ma Na khi vua sát hại các người anh em trong hoàng tộc,
thì người chị dâu, vợ Tu Ma Na, đang mang thai, trốn được.Sau đó bà sinh
ra Nê Cù Ðà.Lúc Nê Cù Ðà lên 7 tuổi, thì được A la hán Bà Lưu Na
(Mahàvaruna) độ cho xuất gia làm Sa di. Chuyện kể rằng, lúc Bổn sư thế
phát, tóc rơi chưa tới đất thì Nê Cù Ðà đã đắc quả La hán. Vị Sa di này,
trong một tiền kiếp xa xưa, vốn là anh của A Dục. Hai anh em cùng mộ
đạo tu hành, tạo nhiều công đức. Do nhân duyên ấy nên khi vừa thấy ông,
vua A Dục đã có thiện cảm ngay tức khắc.Hơn nữa, nhờ đã gieo trồng phước
đức trong quá khứ, nên nhà vua dễ dàng kính tín Tam bảo, và phát tâm
cúng dường Tăng chúng một cách nhiệt thành. Số người nhận được sự cúng
dường của Vua lên đến 6 vạn người trong mỗi ngày. Ðồng thời, vua cho xây
cất 84.000 ngôi già lam, và kiến tạo 84.000 ngôi bảo tháp trong khắp
quốc độ, cũng như tại các nước chư hầu xung quanh.
Khi các ngôi bảo
tháp và tự viện hoàn thành, nhà vua mở tiệc khánh hạ, cúng dường rộng
rãi chư Tăng. Nhân thấy oai nghi tề chỉnh và đạo hạnh thanh cao của
Thánh chúng, nhà vua càng thêm tin tưởng Phật pháp nhiệm mầu. Do đó, vua
cho một người con trai là Ma Sẩn Ðà (Mahinda) và một người con gái tên
là Tăng Già Mật Ða (Sanghamitta) cùng xuất gia một lúc.Ma Sẩn Ðà bấy giờ
đúng 20 tuổi.Hòa thượng Bổn sư của Thầy là Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu
(Moggaliputta - tissa) và Tăng Già Mật Ða vừa 18 tuổi, Hòa thượng Bổn sư
của cô là Ðàm Ma Ba La (Dhammapàli).
Nhà vua càng ngày
càng nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, cúng dường Tăng chúng một cách trọng
hậu, thì ngoại đạo đi khất thực mỗi ngày mỗi trở nên khó khăn. Do đó, họ
gia nhập vào hàng ngũ Tăng chúng càng lúc càng đông. Trong số đó, có
người xuất thân từ đạo thờ lửa, có người theo đạo lõa thể, và có người
theo đạo dầm nước lạnh. Do tiêm nhiễm lối sống ngoại đạo, nên mặc dù đã
vào trong Tăng chúng, các Tỳ kheo tân tòng này vẫn hành xử như ngoại
đạo. Thậm chí, họ còn đem giáo luật ngoại đạo ra giảng dạy cho tín
chúng, khiến cho Phật pháp trở nên hỗn loạn.Vì thế, các Tỳ kheo chân
chính không thể hòa hợp bố tát, tự tứ và làm Phật sự chung với họ. Tình
trạng bất ổn cứ kéo dài mãi, khiến Tăng chúng sống trong sự rạn nứt, bất
hòa, suốt 7 năm mà không bố tát được. Vua A Dục chứng kiến tình trạng
chia rẽ của Tăng đoàn như vậy, nên rất đau lòng. Nhằm chấn chỉnh lại
hàng ngũ Tăng chúng, vua bèn sai một viên quan đại thần đem sắc lệnh của
mình đến các tự viện, truyền cho Tăng chúng phải cùng nhau hòa hợp Bố
Tát. Nhưng họ không nói gì cả. Vị quan Khâm sai không biết làm thế nào,
đành phải trở về triều, bàn bạc với một viên quan đồng liêu.Vị quan này
bèn hiến kế bằng cách gợi ý: "Tôi thấy đại vương khi chinh phục các
nước, hễ ai không tuân lệnh thì giết chết; trường hợp này cũng phải làm
như thế".
Nghe bạn nói có lý,
viên Khâm sai liền trở lại tu viện, chất vấn vị Thượng tọa: "Ðại vương
đã có sắc lệnh khiến Tăng chúng phải hòa hợp thuyết giới, vì sao các vị
không phục tùng?". Thượng tọa đáp: "Thưa thượng quan. vì các thiện Tỳ
kheo không chịu bố tát chung với các Tỳ kheo ngoại đạo, chứ không phải
không phục tùng".
Ngay lậạp tức, viên
Khâm sai liền tuốt gươm giết vị Thượng tọa ấy, và lần lượt giết đến chỗ
Tỳ kheo Túc Ðại Ða, Túc Ðại Ða lền bảo vị ấy dừng tay lại không được
cuồng sát bừa bãi những người vô tội.Viên Khâm sai đành phải dừng tay,
rồi trở về triều để yết kiến nhà vua.
Bây giờ nói về
nguyên nhân khiến cho Túc Ðại Ða đi tu: Sau khi vua A Dục lên ngôi bèn
phong cho em là Túc Ðại Ða làm Thái tử. Một hôm Túc Ðại Ða vào rừng du
ngoạn, bỗng thấy các con ni làm việc theo bản năng chúng sinh để duy trì
nòi giống. Ông nghĩ: "Các con nai này ăn cỏ xanh, uống nước lã, mà còn
như thế, thì các chư Tăng ở trong phòng kín, có chăn êm nệm ấm, ăn uống
no đủ thì lẽ nào lại không việc ấy". Thế rồi ông trở về hoàng cung, đem ý
nghĩ ngây thơ của mình trình bày với hoàng huynh A Dục, vua nghe thế,
tự nhủ: "Thật quái lạ! Chuyện không đáng nghi ngờ mà bỗng dưng sinh nghi
ngờ. Có khác nào nơi bình địa bỗng khởi phong ba!". Do đó, để dạy cho
Túc Ðại Ða một bài học, vua âm thầm sắp đặt mưu kế, khiến Túc Ðại Ða
phạm phải tội nặng đáng bị tử hình. Lúc ấy, vua phẫn nộ bảo với em mình:
"Nay ta ban cho ngươi một ân huệ cuối cùng, cho phép ngươi làm vua
trong vòng 7 ngày, sau đó ta sẽ trị tội".
Thế rồi Túc Ðại Ða
được lên ngôi báu, ngự nơi lầu son điện ngọc, có cung tần mỹ nữ, đờn ca
xướng hát và đủ các thứ sơn hào hải vị không thiếu thứ gì. Nhưng ông
chẳng màng để tâm đến những thứ ấy mà chỉ ngong ngóng sợ chết đến nỗi
thân thể cực kỳ tiều tụy.
Sau 7 hôm, A Dục
hỏi Túc Ðại Ða trong thời gian qua hưởng vinh hoa phú quí tột bực như
vậy có cảm thấy thích thú hay không, thì Túc Ðại Ða thực thà bộc bạch
hết những tâm sự khổ đau của mình. Vua liền bảo: "Chỉ vì biết trước sinh
mệnh mình trong 7 hôm nữa sẽ kết thúc mà ngươi còn hốt hoảng, quên ăn
bỏ ngủ, thân thể trở nên tàn tạ đến thế, huống gì các Tỳ kheo trong từng
hơi thở đều nghĩ đến lẽ vô thường, không biết cái chết đến lúc nào, thử
hỏi còn tâm trí đâu nữa mà đắm trước những vật dục ở đời?".
Ðược lời như cởi
tấm lòng, Túc Ðại Ða liền sinh tín tâm đối với Phật pháp và chẳng bao
lâu ông phát tâm xuất gia làm một Tỳ kheo.
Nhắc lại việc
trước, khi viên quan Khâm sai bị Túc Ðại Ða ngăn lại. Ông liền trở về
triều tâu lên nhà vua sự kiện diễn tiến vừa rồi.Vua nghe thế vô cùng
kinh ngạc, đau đớn tột cùng, ngất xỉu, té quỵ xuống đất. Hồi lâu vua mới
tỉnh lại, thống trách viên quan ấy: "Trẫm sai khanh đến tu viện là để
truyền lệnh cho các Tỳ kheo phải hòa hợp thuyết giới chứ đâu phải bảo
đến giết họ!". Thế rồi, vua tức tốc ngự giá đến hỏi chư Tăng, trong
trường hợp vừa rồi, vua có tội hay viên Khâm sai kia có tội.Trong các Tỳ
kheo, có người nói do có lệnh của vua mà Tăng chúng bị chết oan, nên
vua có tội. Có người thì bảo cả hai đều có tội. Nhưng có người bình tĩnh
hơn, hỏi vua có ý định giết hại hay không, thì vua đáp là chỉ muốn xây
dựng Tăng đoàn, tạo lập công đức chứ không có tâm sát hại. Vị ấy kết
luận: "Nếu tâm đại vương như thế, thì đại vương vô tội,mà kẻ giết người
kia có tội"
Qua những trình bày
khác nhau như thế, vua càng thêm phân vân, liền hỏi các Tỳ kheo, ai có
thể làm cho vua hết nghi hoặc. Các Tỳ kheo bảo rằng chỉ có trưởng lão
Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu, người đã đạt tam minh, chứng quả A la hán, mới
có thể chấm dứt được sự nghi ngờ của vua mà thôi.Sau khi nghe lời chỉ
dẫn, vua liền cáo từ các Tỳ kheo, trở về cung đình, chuẩn bị lễ cúng
dường.Chuẩn bị xong các việc, vua phái người đến tu viện cung thỉnh Mục
Kiền Liên Tử Ðế Tu và đại chúng vào triều thọ trai.Thọ trai xong, vua
mời trưởng lão Ðại Tu cùng Tăng chúng đến một đạo tràng đã được thiết
lập tại Viên Lâm (Uyỳana). Khi đến nơi, để biết chắc trưởng lão có thể
đoạn trừ được điều nghi ngờ của mình hay không, vua thỉnh cầu trưởng lão
thi thố vài phép thần thông. Trưởng lão đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu
ấy khiến vua rất khâm phục nghĩ rằng ác pháp sẽ diệt trừ, Phật pháp sẽ
lại trùng hưng. Thế rồi, vua đem sự việc trước kia ra chất vấn trưởng
lão. Trưởng lão bèn hỏi lại nhà vua: "Khi ấy đại vương có tâm sát hại
hay không?", vua đáp: "Ðệ tử chỉ mong có công đức,chứ không có tâm sát
hại". Trưởng lão khẳng định: "Nếu không có tâm giết hại thì đại vương vô
tội". Rồi trưởng lão đem kinh Bản sinh ra giảng cho vua nghe. Sau khi
nghe pháp, mọi thắc mắc trong lòng của vua đều giải tỏa. Tiếp đến trưởng
lão trình bày thế nào là đúng luật, thế nào là trái luật, thế nào là
đúng pháp, thế nào là phi pháp, những gì do Phật dạy và những gì không
phải do Phật dạy...Vua được diễm phúc nghe pháp liên tục như thế suốt 7
ngày.Với tâm trạng hân hoan sau khi nghe pháp, vua nghĩ rằng lần kết tập
pháp tạng này chắc chắn sẽ thành công, liền sai người ngăn đạo tràng ra
thành hai khu vực a và b. Những ai cùng một kiến giải thì ở chung một
khu vực. Ðồng thời mỗi khu vực cử ra một vị đại diện để trả lời những
điều vua hỏi.
Thế rồi, vua hỏi vị
đại diện của một khu vực: "Thưa Ðại đức, Phật pháp như thế nào?". Họ
bèn lao nhao lên. Có người bảo là thường; có người bảo là đoạn; có người
nói là có tưởng, có người nói là không phải tưởng cũng không phải không
tưởng; có người nói là thế gian Niết bàn...".
Vua nghe họ đáp
lung tung như thế, biết chắc nhóm Tỳ kheo này đích thực là ngoại đạo,
chứ không phải Tỳ kheo chân chính. Do đó, vua ra lệnh họ cởi bỏ pháp
phục, ban cho y phục màu trắng, và đuổi ra khỏi Tăng đoàn. Rồi vua sang
khu vực của 6 vạn Tỳ kheo kia, lên tiếng hỏi vị đại diện: "Thưa Ðại đức,
Phật pháp như thế nào?". Vị ấy đáp: "Thưa đại vương, Ðức Phật phân biện
giảng dạy theo từng trình độ". Quay sang trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế
Tu, vua hỏi: "Có đúng thế không, thưa Ðại đức?". Trưởng lão đáp: "Ðúng
thế, thưa đại vương".Biết Phật pháp đã được thanh tịnh, vua bèn thỉnh
cầu chư Tăng thuyết giới bố tát trở lại, và sai người bảo vệ chúng Tăng
rồi từ biệt, hồi loan.
Sau khi vua rời
khỏi đạo tràng, 6 vạn Tỳ kheo liền suy cử trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế
Tu làm chủ tọa và tuyển chọn 999 Tỳ kheo tinh thông tam tạng, đã đắc
tam minh,mở cuộc đại hội kết tập pháp tạng. Thể thức kết tập lần này
giống hai lần trước, không khác gì cả.Do vậy, Phật pháp trở lại thanh
tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được dẹp trừ.
Ðại hội kết tập lần
này trải qua 9 tháng thì hoàn tất, do trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu
làm chủ tọa, 999 vị Tỳ kheo A la hán tham dự, nên gọi là cuộc kết tập
của 1000 vị La hán.
Sau khi kết tập,
trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu bèn soạn ra luận thư để phản bác nghĩa
lý của các phái ngoại đạo đương thời. Ðến khi biết mình sắp viên tịch,
trưởng lão bèn sai vị cao đồ là Ðại đức Ma Sẩn Ðà đem luật tạng truyền
sang nước Sư Tử (Srilanca:Tích Lan). Vâng lệnh sư phụ, Ðại đức Ma Sẩn Ðà
đem giáo pháp sang Tích Lan truyền bá. Ðến khi sắp viên tịch, Ðại đức
lại đem truyền cho đệ tử là A Túc Tra (Arittha); A Túc Tra truyền cho đệ
tử là Ðế Tu Ðạt Ða (Tissadatta); Ðế Tu truyền cho đệ tử là Già La Tu
Mạt Na (Kàlasumana); Già La Tu Mạt Na truyền cho đệ tử là Ðịa Già Na
(Dìghanàmaka); Ðịa Già Na truyền cho Tu Mạt Na (Dìghasumana); Tu Mạt Na
truyền cho Ðàm Vô Ðức (Dhamarakkhita); Ðàm Vô Ðức truyền cho Ðế Tu
(Tissa); Ðế Tu truyền cho Ðề Bà (Deva); Ðề Bà truyền cho Tu Mạt Na
(Sumana); Tu Mạt Na truyền cho Chuyên Na Già (Cùlagàna); Chuyên Na Già
truyền cho Ðàm Vô Ba Li (Dhammapàlinàma); Ðàm Vô Ba Li truyền cho Xí Ma
(Khemanàma); Xí Ma truyền cho Ưu Ba Ðế Tu (Upatissa); Ưu Ba Ðế Tu truyền
cho Pháp Cự (?); Pháp Cự truyền cho A Bà Gia (Abhaya); A Bà Gia truyền
cho Tiểu Ðề Bà (Cùladeva); Tiểu Ðề Bà truyền cho Tư bà (Sìva).
Ðó là các luận sư
trí tuệ đệ nhất, thần thông vô ngại, ái tận La hán, thầy trò truyền
nhau, đến nay không dứt (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa, quyển I,II ÐTK 24, tr
678b - 684).
Vài điều ghi nhận:
1. Lý do kết tập:
Vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất
hòa và Phật pháp trở nên hỗn loạn, nên mới mở đại hội kết tập.
2. Thời gian kết
tập: Lần kết tập này diễn ra sau khi Phật Niết Bàn 218 năm, tức trước
Tây lịch 325 năm. Và công việc được thực hiện trong thời gian 9 tháng.
3. Ðịa điểm kết tập: Tại Viên Lâm (Uyỳana), thành Hoa Thị (Pàtaliputta) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha).
4. Vị chủ tọa cuộc kết tập: Trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu (Moggaputta - Tissa).
5. Số người tham dự kết tập: gồm 1000 vị A La Hán (kể cả vị chủ tọa) đã chứng Tam minh, tinh thông Tam tạng.
6, Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập: Hoàng đế A Dục (sinh khoảng năm 350 trước Tây lịch).
7. Giá trị của cuộc
kết tập: hai lần kết tập thứ nhất và thứ nhì sử Phật giáo Nam truyền và
Bắc truyền đều có ghi chép, và đều công nhận. Nhưng lần kết tập thứ ba
này chỉ thấy ghi lại trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (bộ sớ giải Luật
tạng của Nam truyền) và Ðảo sử Tích Lan. Còn thư tịch của Bắc truyền
không ghi chép. Vì quan điểm của Bắc truyền cho đây là sự kết tập của Bộ
phái mà thôi, nên không công nhận như một cuộc kết tập chính thức./.