Phần I - Bài 1
Mười hai nhân duyên
(Thập nhị nhân duyên)
Thích Tâm Hải
A- Dẫn nhập
Mười
hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của
giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bồ tát
Tất Ðạt Ða (Siddhartha) thể chứng dưới cội bồ đề sau 49 ngày tư duy
thiền định, từ đó Ngài trở thành một bậc giác ngộ hoàn toàn.
Mười hai nhân
duyên, hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù, là điểm xác định sự
khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lõi của nhân
sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh điển.
Nhận thức rõ về giáo lý Mười hai nhân duyên sẽ giúp người học Phật hiểu
cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như nghiệp, luân hồi, tái sinh, nhân
quả... đồng thời gợi mở một hướng sống tích cực cho mỗi cá nhân trong
hiện tại.
B- Nội dung
I- Ðịnh nghĩa:
1)- Thế nào là nhân duyên?
Nhân là yếu tố
quyết định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một hiện hữu.
Duyên là điều kiện hỗ trợ, tác động làm cho nhân sinh khởi. Ví dụ: hạt
lúa là nhân của cây lúa; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt trời,
người gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây
lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc
biệt là trong thế giới tâm thức; và, nhân duyên nói cho đủ là nhân -
duyên - quả.
"Nhân duyên" trong
"Mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi": sự nương tựa vào
nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói chính xác là "do cái này
có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt;
do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt".
2)- Mười hai nhân duyên là gì?
Trong kinh Tương
Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Ðức Phật đã thuyết minh về Mười hai nhân
duyên (Duyên khởi) như sau: "Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức
sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục
nhập, có xúc sinh; do xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có
hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi".
"Do đoạn diệt (2)
tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức
diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; ...; do sinh diệt nên lão tử, sầu,
bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ
kheo, như vậy gọi là đoạn diệt" (tr.1-2).
Mười hai nhân duyên
dược Ðức Phật định nghĩa gồm hai chiều hướng: chiều hướng sinh khởi
(còn gọi là lưu chuyển: do vô minh, hành sinh...) và chiều hướng đoạn
diệt (còn gọi là hoàn diệt: do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn
toàn nên hành diệt...). Khi Mười hai nhân duyên được thành lập (tập
khởi), nghĩa là năm uẩn (3) tập khởi, và đây là chiều hướng của khổ đau,
luân hồi. Khi mười hai mắc xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc
năm uẩn cũng tan rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn
chính là cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người
tự nó nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
Theo cách trình bày
trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguồn cội, cốt lõi của mười
hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là nguyên nhân
đầu tiên của chuỗi liên kết đó. Bởi Ðức Phật dạy, vô minh cũng do nhân
duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên (tích cực) thì vô minh cũng
sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ; đây là ý nghĩa "vô minh diệt, minh sinh".
Cũng cần lưu ý một
chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này. Ðịnh nghĩa
được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách trình bày tiêu
biểu nhất, gồm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một số bản kinh khác, như
kinh Ðại Duyên (Trường Bộ kinh III), kinh Ðại Bổn Duyên (Trường A Hàm
I)..., Ðức Phật trình bày chỉ gồm 5, 8, 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi
phần. Vấn đề này được các nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân
tích rất tỉ mỉ, và tất cả đều thống nhất số mục 12 chi phần được xác
định qua nội dung thiền quán của Ðức Phật dưới cội bồ đề. Ðây là dạng
thức chính xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự sai
khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo hóa linh
động của Ðức Phật. Ngài tùy thuộc vào trình độ của người nghe mà nói vắn
tắt hoặc đầy đủ. Ðiều này sẽ được làm sáng tỏ ở phần nói về sự vận hành
của mười hai nhân duyên.
Ðối tượng nghe giáo
lý Mười hai nhân duyên là con người, vì nặng về tâm luyến ái và chấp
thủ, nên Ðức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này, đặc biệt là trong
chiều hướng, con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi ái (hay bất luận là
chi phần nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc 12 nhân duyên hình thành; và
ngược lại; khi chi phần ái hay thủ (hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn diệt,
lập tức chuỗi mắc xích 12 nhân duyên tan rã. Ðây cũng là ý nghĩa, mà
trong luận Ðại Tỳ Bà Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần cũng
được, hai, ba... cho đến 12 chiphần cũng được.
II- Ý nghĩa của mười hai chi phần nhân duyên:
1)- Vô minh (Avijjà):
sự mê mờ, cuồng si của tâm thức; hay nói cách khác là sự không hiểu
biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không có một tự
thể độc lập, bất biến.
2)- Hành (Sankhàra): động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý.
3)- Thức (Vinnana):
tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức năng như
mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỷ thức), lưỡi (thiệt thức), thân
(thân thức) và ý (ý thức).
4)- Danh sắc (Nàma-rùpa):
sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với con người, sắc
là cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng của chúng; danh là các
tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
5)- Lục nhập (Chabbithàna):
có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa sáu căn (= 6 nội xứ: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của chúng là sáu trần (= 6 ngoại
xứ: hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp).
6)- Xúc (Phassa):
sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối
tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và thế giới
thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức phát sinh do mắt
tiếp xúc với hình thể (sắc trần), thì sự nhận biết đó mới gọi là nhãn
thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần và thức.
7)- Thọ (Vedanà):
sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt tiếp
xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng
(pháp).
Cảm thọ có ba loại:
cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung
tính (phi khổ phi lạc). Ðây là chất liệu mà con người thường lấy để xây
dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khổ đau, bất hạnh. Thực ra,
chúng là do duyên sinh, luôn thay đổi, không hề có một tự tính cố định.
8)- Ái (Tanhà): gọi đủ là ái dục hay khát ái: sự vướng mắc, yêu thích, tham luyến; gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
9)- Thủ (Upadàna): gọi đủ là chấp thủ: sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức vào một đối tượng.
10)- Hữu (Bhava): tiến trình tương duyên để hình thành, gồm dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
11)- Sinh (Jati):
sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra em
bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành tựu các xứ
(các cơ quan tri giác và chức năng của chúng).
12)- Lão-tử (Jaramrana): sự
suy nhược, tàn lụi, tuổi thọ lớn, tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh
mạng con người, lão tử được biểu hiện dưới các hiện tượng: răng long,
tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri giác suy yếu và chết.
III- Sự vận hành của mười hai nhân duyên:
Thông qua ý nghĩa
của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập, một
lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là giáo lý nói về con
người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan tri giác. Do vậy,
khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên cũng chính là nói về sự
vận hành của con người.
Vì không nhận biết
hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi,
luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng, nên con người ảo
tưởng về một tự ngã: đây là cái tôi và đây là cái của tôi (Vô minh).
Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi lòng
tham ái, chấp thủ... Và đó là động cơ cho các hành động của thân, lời
và ý (Hành). Mỗi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự
hiện hữu của Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau
(Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay khi căn, trần
và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ tuôn chảy như một dòng thác mà không
một năng lượng nào có thể ngăn cản được, vì bản chất của cảm thọ là thế.
Thọ bao gồm những phản ứng tâm lý trước đối tượng như là buồn, vui,
yêu, ghét, trung tính... Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái).
Trong Ái đã bao hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức
tương ứng với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mỗi
khi đã có Sinh, thì tiến trình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành như
một hệ quả đương nhiên: nghĩa là lão-tử, sầu, bi, khổ, ưu, não; hay khổ
đau có mặt. Ðó là sự vận hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh
khởi (lưu chuyển) - chiều vận hành này có động lực là vô minh, tham ái
và chấp thủ. Nói khác đi, đây là con đường của khổ đau, luân hồi được
dẫn dắt và chi phối bởi vô minh.
Trong phần thuyết
minh về mười hai nhân duyên, Ðức Phật không chỉ nêu lên con đường tập
khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra nguyên nhân tập khởi và
con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mỗi khi đoạn diệt bất kỳ một chi phần
nào trong chuỗi 12 mắc xích (nhân duyên), thì lập tức nó tự tan rã. Tuy
nhiên, với con người, tham ái và chấp thủ là nặng nề nhất; nên đoạn tận
tham ái hoặc chấp thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn lý do
để hiện hữu. Ðó là ý nghĩa của lời Phật dạy: "Ái diệt tức Niết bàn".
Sự vận hành của
mười hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình thành một sinh
mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối cùng), mà sự vận
hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn nguyên có mặt của
con người (và cuộc đời); nó không bị giới hạn bởi thời gian và không
gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô minh chưa được đoạn tận thì con
người vẫn bị chi phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là
vẫn luẩn quẩn trong luân hồi, khổ đau bất tận - khi mười hai nhân duyên
đoạn diệt, đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
IV- Một số cách giải thích về mười hai nhân duyên:
Mười hai nhân
duyên, hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự thật nên
không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Ðức Phật khẳng định
rằng: "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật này không thay
đổi dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện". Một hiện hữu dù nhỏ
như hạt nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ trụ cũng không nằm ngoài
nguyên lý này. Với đặc tính đó, giáo lý Mười hai nhân duyên có thể dùng
để soi sáng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời như luân hồi, nhân quả...
tùy thuộc theo góc độ quan sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới
thiệu 4 cách giải thích phổ biến.
1)- Dạng thức tổng quát:
"Do cái này có mặt,
cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái
này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt" (Tiểu Bộ kinh,
tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái quát, tóm tắt và đơn giản
nhất do chính Ðức Phật nói. Nó được xem như là một nguyên lý cho mọi
hiện hữu trong thế giới hiện tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai nhân
duyên là dạng thức duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tổng
quát nói về bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không
có tình thức (khí thế giới).
2)- Ba đời hai tầng nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả):
Ba đời là quá khứ,
hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này, vô minh và
hành thuộc về quá khứ; hiện tại gồm có các chi phần (từ thức đến hữu);
sinh và lão-tử thuộc về vị lai. Mặt khác, thức, danh, sắc, lục nhập được
xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là vô minh và hành, đây là tầng
nhân quả thứ nhất. Các chi phần thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại cho
quả vị lai là sinh và lão-tử; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp
giữa hai lớp nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ
chặt chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian: quá khứ - hiện tại - vị
lai. Qua cách giải thích này, ý đồ dùng giáo lý Mười hai nhân duyên để
giải thích luân hồi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách phân chia như trên
sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là vô minh và hành chỉ có ở quá khứ, 8
chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại, sinh và lão tử thì thuộc về tương
lai (!). Thực ra, trong hiện tại (và ngay trong mỗi chi phần) đã có mặt
vô minh. Khi một chi phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của 11 chi
phần còn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 chi
phần nhân duyên tự sụp đổ. Như đã phân tích, mười hai nhân duyên là một
dòng tương tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào thời gian (quá khứ,
hiện tại hay tương lai). Cách giải thích này vô tình làm thô thiển và
đơn giản hóa giáo lý Mười hai nhân duyên - một giáo lý vốn được xem là
rất thâm áo và tinh tế.
3)- Nhân quả đồng thời:
Khi nói "Do vô
minh, hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh ra. Giữa vô
minh và hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính, đơn phương; nghĩa là
các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện hữu tùy thuộc vào yếu tố
thời gian (trước - sau). Cách giải thích này nói rằng, ngay trong một
sát na (4) đã có sự hiện hữu đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm lệch
lạc về một cái tôi và cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuỗi
nhân quả tương tục: ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và chấp thủ
(thức)... đến lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Mỗi một chi phần vừa là
quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng lẫn nhau.
4)- Sự hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn):
Một trong 3 yếu tố
quyết định để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu nghiệp thức đi
đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh và hành trong quá khứ.
Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm danh sắc có mặt. Lục nhập là
giai đoạn thai nhi hình thành đầy đủ các căn. Giai đoạn trẻ bú mớm là
giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3 - 5 tuổi là lúc thọ hình thành. Từ đây trở
về trước, theo lối giải thích này, là biểu hiện của nghiệp quá khứ, trẻ
chưa tác ý thiện ác để tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ biết vui, buồn,
ưa, ghét... là lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây mới là giai đoạn
mà trẻ tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân mạng mới ở tương lai
(sinh, lão, tử).
V- Một số hệ luận từ giáo lý Mười hai nhân duyên:
1)- Con người (và
cuộc đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề có
một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ nhân của cuộc
đời mình, bởi giáo lý Mười hai nhân duyên cho thấy sự thật: "Không thể
tìm ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào khác, làm chủ vòng
luân chuyển của đời sống; chỉ có những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc
vào những điều kiện" (5).
2)- Con người và
cuộc đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vô thường), nên
bên trong mỗi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và cuộc đời luôn
có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
3)- Khi một chi
phần trong mười hai nhân duyên vận hành, nghĩa là 11 chi phần còn lại
cũng vận hành. Ðiều này nói lên sự dung thông giữa cái "một" và cái "tất
cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian, thời gian, từ đó có thể khẳng
định có sự hiện hữu của các loại thần thông.
C- Kết luận
1)- Mười hai nhân
duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là con người. Vì
con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ nên Ðức Phật đặc
biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu tập vì
mục đích giải thoát, giác ngộ.
2)- Mười hai nhân
duyên, hay Duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối trị chấp
ngã hay nhằm giải thích thế giới; mà đây là sự thật và là một pháp tu
tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lý này là căn
bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát chánh đạo). Nói khác đi, chánh
kiến là cái nhìn toàn diện, như thật về các pháp là do duyên sinh.
3)- Vô ngã hay giải
thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái trống trơn, mà là sự trống
rỗng ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách khác, đó là trạng thái
không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.
4)- Mọi giá trị trong cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là duyên sinh, luôn trôi chảy và không thể nắm bắt.
5)- Hiện hữu hay
cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người
với con người, giữa con người với môi trường xã hội, môi trường tự
nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xã hội
tốt đẹp, và ngược lại. Mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đồng, bởi
xây dựng cộng đồng chính là đang bảo vệ cá nhân mình.
6)- Mười hai nhân
duyên, hay giáo lý Duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô cùng tinh tế
và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư duy hữu ngã từ vô thỉ.
Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này, đòi hỏi phải có sự quán sát
và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lý Mười hai nhân
duyên (theo chiều đoạn diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho
hành giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện
tại. Bởi như lời Phật dạy: "Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy
Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối hậu, vượt
ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi vô minh,
tham ái và chấp thủ này./.
-oOo-
* Chú thích:
(1) Còn gọi là Duyên sinh, Y tha khởi: sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh khởi, hình thành, hiện hữu; tùy thuộc phát sinh.
(2) Diệt trừ, xả bỏ, chuyển hóa (Pàli: uccheda).
(3) Hình thể (sắc), cảm thọ (thọ), ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo tác (hành) và tri giác hiện hữu (thức).
(4) Khoảng thời gian rất ngắn giữa hai biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với đơn vị thời gian là giây (Pàli: khana).
(5) Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga).
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Ðịnh nghĩa về các chi phần trong mười hai nhân duyên.
2- Trình bày mối liên hệ và sự vận hành của các chi phần nhân duyên đối với đời sống của con người.
3- Từ giáo lý Mười hai nhân duyên, bạn có suy tư gì về đời sống tu tập của cá nhân? |