Phần II - Bài 3
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển
các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Thích Tâm Khanh
A- Dẫn nhập
Từ
Ấn Ðộ du nhập vào Trung Quốc, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các
hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo bản địa. Trong quá trình du nhập, hình
thành và phát triển có thể nói Phật giáo Trung Quốc đã tạo ra bản sắc
riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống
tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy thuộc về các bậc cao tăng của
nhiều thế hệ Phật giáo Trung Quốc.Ðây là ý kiến nhận định chung của các
nhà nghiên cứu văn hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu Tsukamoto
trong tác phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: "Chính nhiều
các thế hệ thiền sư trong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và nghệ
thuật Phật giáo vào trong nền văn hóa Trung Quốc và đem lại sự thay đổi
vĩ đại trong văn hóa, triết học, văn học, nghệ thuật và ngay cả trong
các tập tục truyền thống của dân tộc Trung Quốc" (1).
B- Nội dung
I. Phật giáo và Nho gia: sự tiếp xúc của hai nền văn hóa Á Ðông
Văn hóa Trung Quốc
và Ấn Ðộ là hai nguồn tư tưởng văn hóa tối cổ của Á Ðông. Trước khi Phật
giáo, đại diện cho luồng tư tưởng văn hóa Ấn Ðộ có mặt tại Trung Quốc
thì ngay tại bản địa đã hình thành nền văn hóa khá cao.Trong hệ tư tưởng
lúc bấy giờ, Nho gia theo tư tưởng hiện thực "lễ nghi chủ nghĩa" được
xem là hệ tư tưởng chủ đạo. Tư tưởng Nho gia được khởi đầu từ thời Xuân
Thu -Chiến Quốc (kéo dài từ 722 - 221 TTL) với các học thuyết của Bách
gia chư tử và hoàn thiện trong khoảng 400 năm thời kỳ nhà Hán. Từ khi
Phật giáo Ấn Ðộ và Tây Vực được truyền tới Trung Quốc vào cuối đời Hậu
Hán, có thể nói đây là thời điểm tiếp xúc đầu tiên của hai nền văn hóa Á
Ðông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần hiện thực của tư tưởng Nho gia
tiếp nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu Phật giáo ở Trung Quốc đã có
những nét đổi thay so với cội nguồn Ấn Ðộ mà biểu hiện rõ là sự hình
thành và phát triển của các tông phái Phật giáo.
II. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Khác với Phật giáo
Ấn Ðộ, quá trình hình thành và phát triển các tông phái Phật giáo Trung
Quốc luôn đi liền với công tác phiên dịch thánh điển. Theo quá trình
phiên dịch, các tông phái Phật giáo Trung Quốc thường y cứ và cổ xướng
theo tư tưởng của kinh luận để lập tông.Tuy quá trình phân phái và lập
tông đã manh nha từ thời Ðông Tấn nhưng hoàn chỉnh việc lập tông thì rõ
nét nhất là ở thời đại Nam - Bắc triều. Theo nhận định của các nhà Phật
học như Thích Thanh Kiểm trong "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc" và J. Takakusu trong "The Essentials of the Buddhism Philosophy"
(Các tông phái Phật giáo, bản Việt dịch của Tuệ Sỹ), chúng ta có thể
phác thảo sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông phái
Phật giáo Trung Quốc như sau:
1. Tỳ Ðàm tông (Câu Xá tông):
Tỳ Ðàm (nói đủ là A
Tỳ Ðàm) là tên gọi tắt của Trung Hoa về Abhidharma. Trước khi luận Câu
Xá (Abhidharma Kosa) được dịch sang Hán ngữ thì đã có một học phái mệnh
danh là Tỳ Ðàm tông. Người đầu tiên nghiên cứu về A Tỳ Ðàm là Ngài An
Thế Cao ở đời Hậu Hán. Các tác phẩm của A Tỳ Ðàm được dịch sang Hán ngữ
rất sớm trong giai đoạn từ 383 đến 434 TL như "A Tỳ Ðàm Cửu Thập Bát Kết
Kinh" của Ngài An Thế Cao, "A Tỳ Ðàm Tâm Luận", "A Tỳ Ðàm Bát Kiền Ðộ
Luận"...của Ngài Tăng Già Ðề Bà đời Tiền Tần. Các học giả thuộc Tỳ Ðàm
tông nổi bật có thể kể đến là các Ngài Huệ Tập, Tăng Mân, Pháp Vân,Tăng
Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của Ngài Thế Thân được Ngài Chân Ðế
(Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm 563-567 TL, sau đó là Ngài Huyền
Trang dịch từ 651-654 TL và được truyền bá rộng rãi thì Tỳ Ðàm tông được
thay thế bằng Câu Xá tông.
2. Thành Thật tông:
Tông này được lập
và cổ xướng từ thời Ngài La Thập theo tư tưởng của Luận Thành Thật
(Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo.Bộ luận này do Ngài
Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) viết và được Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajìva)
chuyển sang Hán ngữ thật sớm,vào 411-412 TL.Kể từ thời Ngài La Thập về
sau, không khí nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông được phát triển
nhanh chóng.Trong khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12 bộ sớ giải của
các môn đồ Ngài La Thập viết về Luận Thành Thật và đã có: "Hàng trăm
buổi giảng thuyết về bản văn này được truyền bá khắp Trung Hoa" (2). Ðến
đời Lương (502-507) thì Thành Thật tông phát triển cực thịnh và được
phổ biến rộng rãi với công lao của ba ngài Pháp Vân, Trí Tạng và Tăng
Mẫn. Trong giai đoạn này, Thành Thật tông được xem là khuynh hướng Ðại
thừa. Thế nhưng, vào đời Tùy, kể từ khi Ngài Gia Tường Ðại Sư Cát Tạng
nhận định Thành Thật luận là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo thì Thành
Thật tông bắt đầu kém phát triển. Ðến đời Ðường, Ngài Ðạo Tuyên tuyên
bố luận Thành Thật thuộc kinh Lượng bộ,một tông phái Ấn Ðộ được xem là
tiểu thừa, thì Thành Thật tông bước vào thời kỳ suy vi và không còn phát
triển ở các thời kỳ sau đó.
3. Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông):
Nhiếp luận tông
(Samparigraha) là tiền thân của Pháp tướng tông (Dharmalaksana). Nhiếp
luận tông được thành lập từ khi Ngài Chân Ðế (499-569) dịch và giảng về
bộ Nhiếp Ðại Thừa luận (Mahàyànasamparihraha) Nhiếp Ðại Thừa Luận do
Ngài Vô Trước viết vào thế kỷ V (được Ngài Thế Thân chú giải) là bộ luận
đầu tiên phát biểu học thuyết Duy thức. Ngài Phật Thủ (Buddhasanta)
dịch bộ luận này sang Hán văn lần đầu vào năm 531 TL, nhưng kể từ khi
bản dịch của ngài Chân Ðế vào năm 563 hoàn thành và do nỗ lực truyền bá
của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính thức phát triển tại phía Nam
Trung Quốc.Sau khi Ngài Chân Ðế viên tịch, do công lao của ngài Ðàm
Thiên nên tông phái này cũng dần dần phát triển ở phía Bắc Trung Quốc.
Ðến đời Ðường, Ngài Huyền Trang đã dịch lại hai bản "Nhiếp Ðại thừa
luận" và "Nhiếp Ðại thừa luận thích", đồng thời theo học thuyết "Thành
Duy Thức luận " của Ngài Hộ Pháp mà thành lập và truyền giảng tư tưởng
Duy Thức.Ðệ tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người có công hệ
thống hóa và chính thức thành lập nên Pháp tướng tông. Hai sáng tác quan
trọng của Ngài: "đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương" và "Thành Duy
Thức luận thuật ký" là căn bản của tông phái này. Nhiếp luận tông kể từ
đời Ðường đã được hòa nhập vào Pháp tướng tông.
4. Tam Luận tông:
Tam luận là ba bộ
Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Lịch sử của tam luận bắt đầu
ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Ngài Cưu Ma La Thập. Ngài là người có
công phiên dịch cả ba bộ luận trên sang Hán ngữ. Quá trình truyền thừa
của Tam luận tông bắt đầu từ thời Ngài Cưu Ma La Thập và được phân thành
hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai
đoạn này được sử Phật giáo Trung Quốc gọi là "Cổ Tam luận tông" gồm các
Ngài Cưu Ma La Thập, Ðạo Sinh, Ðàm Tế, Ðạo Lãng (Tăng Lãng), Tăng
Thuyên, Pháp Lãng.Trong đó, Ngài Tăng Lãng là người có công tách hẳn Tam
luận tông khỏi ảnh hưởng của Thành Thật tông, và Tam luận tông kể từ
Ngài Tăng Lãng đã có một nền móng thật sự.
- Giai đoạn 2: là
giai đoạn truyền thừa của Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa Gia Tường nên
thường được gọi Gia Tường Ðại Ar Cát Tạng. Ngài đã trước tác và biên
soạn nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có 3 tác phẩm Tam Luận sớ, Tam
Luận Huyền Nghĩa và Ðại thừa Huyền Luận đã đem lại một cái nhìn mới cho
tông Tam luận. Do vậy, Tam Luận tông trong thời kỳ của Ngài Cát Tạng
được gọi là "Tân Tam Luận tông".
Cả hai giai đoạn
trên kéo dài trong hai thế kỷ thứ V và VI TL.Tuy nhiên, khi Pháp Tướng
tông hưng khởi do công của các Ngài Huyền Trang và Khuy Cơ thì Tam Luận
tông tại Trung Quốc đã không còn phát triển như trước mà được truyền
sang và quảng bá tại Nhật Bản do công Ngài Tuệ Quán (người Cao Ly) và
sau đó là Phúc Lượng (người Nhật Bản).Tam Luận tông bắt đầu có mặt tại
Phật giáo Nhật Bản từ thế kỷ thứ XII.
5. Hoa Nghiêm tông:
Khai tổ chính thức
của Hoa Nghiêm tông là ngài Ðỗ Thuận (551-640).Pháp danh của Ngài là
Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Ðỗ nên thường được gọi là Ðỗ Thuận. Tuy
nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính thức được thành lập ở đời Ðường
thì tại Trung Quốc đã có hai học phái là Niết Bàn tông và Ðịa Luận tông.
Niết Bàn tông là
học phái y cứ trên nội dung của kinh Niết Bàn. Ðịa Luận tông là học phái
chuyên nghiên cứu và truyền giảng trên tinh thần và nội dung của tác
phẩm "Thập Ðịa Kinh Luận", bản luận giải của Ngài Thế Thân về kinh Thập
Ðịa (Dasabhumi sutra) vốn là một bộ phận của Kinh Hoa Nghiêm.Về sau do
có nhận thức, giải thích khác nhau về các chủ đề tư tưởng trong hai bộ
kinh luận trên nên cả Niết Bàn tông và Ðịa Luận tông đều được phân thành
hai dòng phía Bắc và phía Nam. Các nhóm học giả của "Bắc phái Niết Bàn"
cũng như "Nam phái Thập địa" về sau đều hòa nhập vào tông Hoa Nghiêm.
Các bậc cao tăng trong phổ hệ truyền thừa của Hoa Nghiêm tông của Phật
giáo Trung Quốc tiếp theo Ngài Ðỗ Thuận là các Ngài Trí Nghiễm
(602-668), Nghĩa Tương (625-702), Pháp Tạng (643-712), Trừng Quán
(738-839), Tôn Mật (780- 841). Trong các vị trên, Pháp Tạng là người có
công rất lớn trong việc hệ thống hóa toàn vẹn nền triết học Hoa Nghiêm.
Có thể nói Hoa Nghiêm tông trở thành một tông phái đích thực là do công
lao của Ngài.
6. Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông):
Thiên Thai là tên
một hòn núi ở tỉnh Thai Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt trong hai thời
đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải (531-597) trú ở núi này và xiển dương
kinh Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành lập do vậy có tên Thiên Thai tông
hoặc Pháp Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải, kinh Pháp Hoa vốn đã là bộ
kinh được nghiên cứu rất kỹ ngay sau khi Ngài La Thập phiên dịch xong bộ
kinh này, gồm 7 quyển - 27 phẩm, vào năm 406 TL. Về sau, Ngài Pháp Hiển
từ Ấn trở về đã phiên dịch và bổ sung thêm phẩm Ðề Bà Ðạt Ða vào nên
mới có 28 phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá trình hình thành giáo nghĩa của
Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu của Ngài Huệ Văn (505-577)
về tư tưởng: "Không - Giả - Trung trong Ðại Trí Ðộ luận. Ngài đã dựa
theo đó mà lập tư tưởng: "Nhất tâm tam quán" (3). Phương pháp quán niệm
này được truyền bá mạnh do công của đồ đệ Ngài là Ngài Huệ Tư (514-577).
Ðồng thời Huệ Tư còn đề ra pháp tu thiền quán theo tư tưởng "chỉ quán
nhất như", tức chủ trương việc kiêm tu định và huệ. Tuy nhiên, chỉ khi
truyền đến Ngài Trí Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông mới chính thức
được kiện toàn. Kể từ đấy tông này mới được gọi là Thiên Thai tông. Từ
pháp tu quán "Nhất tâm tam quán", Ngài Trí Khải đề ra một pháp tu quán
mới là "Nhất niệm tam thiên" (4). Sự nghiệp trước tác, chú sở của Ngài
Trí Khải là một công trình đồ sộ, nhưng nổi bật là ba bộ sách Pháp Hoa
Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán; giải thích rõ ràng về
yếu nghĩa kinh Pháp Hoa.Về sau ba bộ này được Ngài Quán Ðảnh (561-632),
đệ tử truyền thừa của Ngài Trí Khải soạn tập và thường được gọi là "Pháp
Hoa Tam Ðại Bộ".Sau khi Ngài Quán Ðảnh viên tịch, do sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của các tông phái khác như Pháp Tướng, Hoa Nghiêm,Thiền và Chân Ngôn
nên Thiên Thai tông đã suy yếu dần. Ðến thế kỷ thứ VIII, Thiên Thai tông
được phục hưng do công của Ngài Trạm Nhiên (717-782) và sau đó được
Ngài Ðạo Toại, đồ đệ của Ngài Trạm Nhiên dạy cho Ngài Tối Trừng (người
Nhật).Thiên Thai tông chính thức được truyền sang Nhật Bản kể từ Ngài
Tối Trừng.
7- Mật tông (Chân Ngôn tông):
Chân Ngôn dịch
nghĩa Phạn ngữ "Mantra", nghĩa là "Bí mật giáo", giáo pháp không thể
phát hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn tông hay Mật tông
phát xuất từ Ấn Ðộ và được truyền tới Trung Quốc khá muộn. Vào thời Ðông
Tấn, tuy đã có một vài bản kinh tiếng Phạn được các vị Tăng Ấn Ðộ như
Ngài Cát Hữu (Srimitra), Ngài Bạch Thi Lê Mật Ða La dịch sang Hán ngữ
như Ðại Quán Ðính kinh, Khổng Tước Vương Kinh...và rải ráác các bài thần
chú trong các kinh điển, nhưng đó không phải là thuần túy Mật giáo.Phải
đến đời Ðường (618-907) thì Mật tông mới chính thức du nhập vào Phật
giáo Trung Quốc, khởi đầu với sự hiện diện của ba đại học giả Ấn Ðộ là
Ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735), Ngài Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không (Anoghavajra,705-774). Bộ kinh căn
bản của Mật tông là bộ Ðại Nhật kinh được Ngài Thiện Vô úy dịch sang
Hánngữ với sự trợ giúp của đệ tử là Ngài Nhất Hành (cũng là đệ tử của
Ngài Kim Cương Trí, 638-727).
Sự truyền thừa của
Mật tông tại Trung Quốc tương đối giản đơn hơn các tông phái khác. Tuy
vậy, tông này lại rất được các triều vua Ðường: Huyền Tông, Túc Tôn, và
Ðại Tôn ủng hộ.Ðặc biệt là Ngài Bất Không đều được ba đời vua trên trọng
đãi. Các công trình phiên dịch kinh điển Mật tông được tiến hành với
qui mô đồ sộ.Theo sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài Bất Không cùng với các
ngài La Thập, Chân Ðế và Huyền Trang được gọi là "bốn nhà đại phiên
dịch" của Phật giáo Trung quốc. Không những trong Phật giáo mà Mật tông
còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung Quốc như điêu
khắc, kiến trúc, hội họa...Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của nạn Võ Tôn
phế Phật vào cuối đời Ðường (5) nên Mật tông của Phật giáo Trung Quốc bị
suy yếu trầm trọng nhưng lại được truyền sang Nhật Bản do thầy trò hai
ngài Huệ Quả (người Trung Quốc, đệ tử Ngài Bất Không) và Không Hải
(người Nhật Bản theo học với Ngài Huệ Quả). Ngài Không Hải là người sáng
lập ra "Chân Ngôn tông" của Phật giáo Nhật Bản.
8. Thiền tông:
Trong các tông phái
Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm ảnh hưởng quan
trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Trung Quốc từ đời
Ðường trở về sau.Ðây là nhận định chung của hầu hết các nhà nghiên cứu
Phật học hiện nay. Nếu xét từ cội nguồn thì hai phái chính trong hệ
thống Thiền tông là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền được xem
là phương pháp tu thiền có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Ðộ, trong khi Tổ
Sư Thiền lại có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật giáo
Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. HT
Thích Thanh Kiểm viết: "Ở Trung Quốc, đời Hậu Hán, Ngài An Thế Cao đã
thông đạt thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa Thiền.Nhưng tới khi
Ngài La Thập dịch kinh "Tọa Thiền tam muội" và sau đó Ngài Phật Ðà Bạt
Ðà La (Giác Hiền) dịch "Ðạt Ma Ða La Thiền kinh" thì thời đại cơ vận Ðại
thừa Thiền được nhanh chóng lưu hành. Trong tình thế ấy, lại xuất hiện
một hệ thống Thiền của Tổ Bồ Ðề Ðạt ma và trở thành nền tảng cho Thiền
tông các đời sau" (6).
Bồ Ðề Ðạt Ma
(Bodhidharma) là thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời
dạy của thầy là Ngài Bát Nhã Ða La (Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc
vào đời Lương ,khoảng năm 470-520 TL (7). Theo phổ hệ truyền thừa của
Thiền tông Ấn Ðộ, từ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28,
nhưng Ngài được xem là người khai sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền tông
Trung Quốc gồm; 1/Bồ Ðề Ðạt Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán (?-606)
4/ Ðạo Tín (580-651) 5/ Hoằng Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng
Nhẫn, Thiền tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự truyền
giảng của hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (được xem là Tổ thứ 6
của Thiền tông Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần Tú truyền giáo ở phương
Bắc nên dòng thiền này gọi là dòng thiền Bắc tông.Tương tự dòng thiền
của Huệ Năng được gọi là dòng thiền Nam tông.Thiền Bắc tông chủ trương
giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng sáng của trí tuệ giải thoát có được theo quá
trình tu tập thứ lớp) nên được gọi là "Bắc tiệm".Trong khi đó, Thiền
Nam tông lại có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên
được gọi là "Nam đốn".Trong các thời đại sau đó,thiền phái của Ngài Huệ
Năng phát triển rất mạnh và phân thành 5 tôn là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào
Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tôn sau lại chia thành hai phái là
Hoàng Long và Dương Kỳ. Năm tôn trên, thêm vào hai phái sau thường được
sử viết là "Ngũ gia thất tôn".
Vào các thời đại
Nguyên, Minh, Thanh, trong khi một số tôn phái khác bị suy thoái dần do
sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Lạt ma giáo Tây Tạng thì Thiền tông
lại trở thành tông phái phổ biến nhất. Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay,
Thiền tông vẫn là một tông phái chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
9. Tịnh Ðộ tông:
Tịnh Ðộ tông là
tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật giáo Trung
Quốc hiện nay.Tịnh Ðộ tông là tông phái chủ trương pháp môn "Vãng sanh
Tịnh Ðộ". Pháp môn tu Tịnh Ðộ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi Ngài Tuệ
Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư Sơn vào đời Ðông Tấn, chủ trương
quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng tốt của Ðức Phật A Di Ðà. Ðến
thời Nam - Bắc triều, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch bộ "Vãng sanh Tịnh Ðộ
luận" do Ngài Thế Thân trước tác và trở thành bộ luận căn bản cho tông
Tịnh Ðộ. Pháp tu Tịnh Ðộ của Ngài Bồ Ðề Lưu Chi được Ngài Ðàm Loan kế
thừa và truyền cho cao đệ là Ngài Thiện Ðạo (613-681). Ngài Thiện Ðạo là
vị có công hoàn thành giáo nghĩa của tông Tịnh Ðộ.Các tác phẩm của Ngài
viết như "Quán Kinh Sớ", "Vãng Sinh Lễ Tán", "Ban Chu tán", "Quán Niệm
Phật Môn", "Pháp Sự tán" bao hàm giáo lý tinh yếu của Tịnh Ðộ tông, giải
thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh trọng yếu của tông phái này.
Sau Ngài Thiện Ðạo
còn có pháp môn niệm Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật, 680-740) nhưng đã
chịu ảnh hưởng của Thiền tông.Từ Ngài Từ Mẫn trở về sau, giáo nghĩa Tịnh
Ðộ có khuynh hướng "Thiền Tịnh song tu". Tịnh Ðộ tông vẫn âm thầm phát
triển theo khuynh hướng trên và được hưng khởi mạnh mẽ vào thời nhà Minh
do công của các Ngài Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc
(1599-1655) và Ðại sư Ấn Quang ở cuối đời nhà Thanh tới thời Trung Hoa
Dân Quốc.
10- Luật tông:
Luật tông là tông
phái nương theo giới luật mà thành lập nên có những điểm khác với tông
phái khác.Giới luật là những qui giới phải tuân thủ của giáo đoàn Phật
giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc, mỗi bộ phái Ấn Ðộ đều có giới
luật của bộ phái mình. Thế nhưng, khi truyền đến Trung Quốc chỉ có 4 bộ
"Ma Ha Tăng Kỳ luật" do Ngài Pháp Hiển và Phật Ðà Bật Ðà La dịch; "Thập
Tụng luật" do hai Ngài Phất Nhã Ða la và Ðàm Ma Lưu Chi dịch; "Tứ phần
luật" do Ngài Phật Ðà Da Xá đời Diêu Tần dịch; "Ngũ Phần luật" do Ngài
Phật Ðà Thập dịch là được lưu hành. Dưới thời đại Nam - Bắc triều, việc
nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh hành ở phương Nam; nhưng kể từ
khi Ngài Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu nghiên cứu và truyền giảng Tứ Phần
luật thì xu hướng theo Tứ Phần luật được hưng thịnh. Trong suốt đời Tùy
đầu đời Ðường, qua sự nghiên cứu và giảng giải của các Ngài Pháp Thông
đời Bắc Ngụy, Ngài Ðạo Phú, Ngài Tuệ Quang (468-537), Ðạo Vân, Ðạo
Huy,Trí Thủ (môn đệ của Ngài Ðạo Vân), Hồng Tuân (đệ tử Ngài Ðạo Huy)
thì Tứ Phần luật trở thành bản luật phổ biến của Phật giáo Trung Quốc.
Ðến đời Ðường, Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được thành lập và chia thành
ba phái: Nam Sơ tôn của Ngài Ðạo Tuyên, (môn đồ Ngài Huyền Trang,
596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp Lệ (569-635) và Ðông Tháp tôn của
Ngài Hoài Tố (624-697).Tuy nhiên, chỉ có Nam Sơn tôn của Ngài Ðạo Tuyên
còn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
C- Kết luận
Quá trình hình
thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc luôn gắn liền
với lịch sử văn hóa - tư tưởng Trung Quốc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,
ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát triển của các tông phái Phật
giáo Trung Quốc như nước ở trong đại dương, đôi khi lặng lẽ êm đềm nhưng
cũng có lúc hưng khởi mãnh liệt. Sự hưng khởi của tông phái này dường
như là để bổ túc cho sự suy vi của một tông phái khác. Ðiều này phản ánh
trọn vẹn tinh thần Duyên khởi rất hiện thực của đạo Phật. Tuy nhiên,
một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là không bao giờ có sự đối kháng đến
trở thành mâu thuẫn trong quá trình phát triển các tông phái của Phật
giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo nói chung. Bởi lẽ toàn bộ quá
trình ấy luôn nằm trong tinh thần xây dựng những tư tưởng hướng nghiệm
cho con người trong quá trình sống - tu tập - đạt đến giải thoát. HT
Thích Thanh Kiểm trong sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã viết:
"Giáo học của Phật giáo được cấu thành bởi ba môn học là "Giới học",
"Ðịnh học" và "Tuệ học". Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về Tuệ học
nên Tam Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập; vì
tu tập về "Ðịnh học" nên có Thiền tông ra đời; và nương theo "Giới học"
để tu trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Ðây có lẽ không phải là một
đặc tính riêng Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm chung của toàn bộ
lịch sử phát triển Phật giáo từ Ấn Ðộ cho đến các quốc gia có Phật giáo
trên thế giới và cả ở Phật giáo Việt Nam chúng ta hiện nay./.
-oOo-
* Chú thích:
(1) Kenneth W.
Morgan, The Path of the Buddha, Chapter V: Buddhism in China and Korea
(Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz).The Ronard Press Company.
NewYork 1956, p 183-184.
(2) J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Xem "Các tông phái Phật giáo" bản dịch Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh , 1973, tr.147).
(3) Tam quán là
"Không quán", "Trung quán" và "Giả quán". Nhất tâm tam quán nghĩa là
trong một tích tắc của ý niệm đều có đầy đủ ba tính chất không , giả và
trung.
(4) Nhất niệm tam
thiên: Theo Ngài Trí Khải, mỗi ý niệm mê vọng của con người đều bao hàm
toàn thể thế giới , nói hẹp là 10 giới (Tứ thánh và lục phàm), nói rộng
là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế giới. Ba tính Không, Giả, Trung
trong mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thật ra chỉ
là một. Ở đây, Ngài Trí Khải chủ yếu muốn nêu lên phương pháp quán niệm
trên để người tu tập có nhận thức đúng về bản chất của tâm mình.
(5) Xem lại bài PHHT, Ðại cương lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần 2b.
(6) Thích Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Tài liệu giảng dạy của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM) tr.14 (bản ronéo).
(7) Tài liệu của Thích Thanh Kiểm ghi "khoảng năm 470" (Giáo trình lịch sử ...Sđd,t.14) trong khi J. Takakusu trong Essentials of Buddhism Philosophy lại viết "đến Trung Hoa năm 520" (Xem "Các tông phái Phật giáo"
, bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, 1973, tr. 304). Do
vậy, chúng tôi ghi khoảng thời gian ước định để học viên tiện việc tham
khảo (tg).
(8) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội PG TP.HCM ấn hành,1991. tr 157.
(*) Sđd: Sách đã dẫn.
(*) TL: Tây lịch . TTL: trước Tây lịch
* Sách tham khảo:
1. Kenneth W. Morgan, "The Path of the Buddha", Chapter V: Buddhism in China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press Company. NewYork 1956.
2. J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Các tông phái Phật giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh ấn hành 1991).
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
Trình bày và nêu nhận định về quá trình hình thành và phát triển của một tông phái Phật giáo Trung Quốc
(Học viên nên tham khảo thêm các tài liệu khác để trả lời). |