Phần II - Bài đọc thêm
Lịch sử kết tập kinh luật lần thứ nhất
Thích Phước Sơn
Không
bao lâu sau khi Ðức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Ðại Ca Diếp tập họp
500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu,
thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này,
499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
Bấy giờ, tôn giả
Ðại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo: "Này chư hiền, trên đường tôi trở về
thành Câu Thi (Kusinàrà) để đảnh lễ Ðức Thế Tôn lần cuối cùng, khi hay
tin Ngài nhập Niết bàn, thì có một việc đáng buồn xảy ra: Trong khi các
Tỳ kheo khóc than thảm thiết, không thể kiềm chế được lòng thương tiếc
Ðức Thế Tôn, có người lảo đảo trên mặt đất, bước đi không nổi, thì Tỳ
kheo Bạt Nan Ðà (Upananda) đang đi trước họ, bảo họ im lặng và nói: "Vị
trưởng lão ấy thường dạy chúng ta nên làm như thế này, không nên làm như
thế kia; nên học những điều này, không nên học những điều kia, thật là
phiền toái.Bọn chúng ta ngày nay mới thoát được nỗi khổ ấy, tùy ý muốn
làm gì làm, không còn ai ngăn cản nữa.Vì sao các ông lại thương tiếc
khóc than?". Ta nghe lời nói ấy, cảm thấy đau đớn và lo âu. Ngày nay,
tuy Phật đã Niết bàn, nhưng giới luật vẫn còn đó, chúng ta phải hợp sức
kết tập lại giới luật chớ để cho Bạt Nan Ðà cấu kết cùng bè đảng phá
hoại chánh pháp.
Các Tỳ kheo đều tán
đồng lời nói của tôn giả Ðại Ca Diếp, và thưa rằng: "Thưa trưởng lão, A
Nan thường hầu cận Thế Tôn, Thầy ấy thông minh, nghe nhiều, gìn giữ kho
tàng chánh pháp đầy đủ, nay ta nên mời Thầy vào trong số những người
kết tập luật tạng".
Tôn giả Ca Diếp
liền bảo: "A Nan còn ở địa vị cần phải học (hữu học),còn bị tham ái, sân
hận, si mê và sợ hãi chi phối, không nên cho tham dự".
Thế nhưng, lúc này
tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường thuyết pháp cho
4 chúng.Mọi người nghe pháp đông đúc chẳng kém gì khi Phật tại thế. Tại
đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không
khí ồn ào không thể du hí trong tam muội giải thoát, bèn quán chiếu xem A
Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở bậc hữu học, liền
đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ:
" Ngồi dưới chỗ cây vắng
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định chớ phóng dật
Nói nhiều có ích chi?"
A Nan nghe vị Tỳ
kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc Ca Diếp không cho mình tham dự kết
tập luật tạng nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều siêng năng đi kinh
hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Ðến lúc nửa
đêm, thân thể mỏi mệt cực độ, thầy định nằm nghĩ một chút, liền nghiêng
đầu xuống gối, khi đầu vừa chấm gối, thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc. Các
Tỳ kheo biết thế bèn thưa với Ca Diếp: " Ðêm qua A Nan đã được giải
thoát, giờ đây nên cho thầy vào trong số người kết tập luật tạng". Ca
Diếp liền chấp nhận đề nghị ấy. Thế rồi tôn giả chọn thành Vương Xá làm
nơi kết tập; vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm.
Bấy giờ, 500 vị La
Hán liền đến thành Vương Xá. Trong tháng đầu mùa hạ, họ lo sửa chữa
phòng ốc và chuẩn bị ngọa cụ; tháng thứ hai tọa thiền để hưởng pháp vị
giải thoát; đến tháng thứ ba mới tập họp lại một chỗ. Thế rồi, tôn giả
Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập Luật tạng, và được đại chúng chấp
thuận.Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế
tại đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì v.v... Ưu Ba Ly trình bày
rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Ðề Na (Sudinna) vi phạm đầu
tiên v.v...Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng,
đại chúng cũng hoàn toàn nhất trí với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly.
Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất gồm đủ cả giới Tỳ kheo,
Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến
80 lần).
Tiếp theo, tôn giả
Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và được đại chúng nhất
trí.Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau đây:Tăng nhất, Tăng
thập, Ðại nhân duyên, Tăng Kỳ Ðà, Sa môn quả, Phạm Ðộng và những kinh
Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư
Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A
Hàm, những kinh trung bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm.
Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh
lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ
gọi là Tăng Nhất A Hàm. ngoài ra tập họp các kinh nói bao quát nhiều
vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Thế rồi,tôn giả Ca Diếp tuyên bố:
"Từ nay chúng ta đã kết tập giáo pháp hoàn tất. Từ nay trở đi, những gì
Phật không chế định thì không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã
chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì
Phật đã chế định".
Tôn giả A Nan bấy
giờ thưa với tôn giả Ca Diếp: "Chính bản thân tôi từng nghe Phật dạy
rằng: "Sau khi ta Niết bàn, nếu thấy những giới nào có tính cách nhỏ
nhặt, các ngươi có thể loại bỏ".
Ca Diếp liền hỏi: "Thầy cho những giới nào là nhỏ nhặt?".
A Nan đáp: "Không biết".
- Vì sao không biết?
- Vì tôi không hỏi Thế Tôn.
- Vì sao không hỏi?
- Vì bấy giờ thân Phật đang bất an, sợ làm não loạn Ngài.
- Vì thầy không hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy, nên phạm tội Ðột cát la, phải tự mình nhận tội và sám hối.
- Thưa Ðại đức,
không phải là tôi không tôn kính giới mà không hỏi ý nghĩa những vấn đề
ấy nhưng vì sợ làm phiền Ðức Thế Tôn, nên không hỏi. Trong vấn đề này,
tôi không thấy mình phạm tội, nhưng vì kính trọng và tin tưởng Ðại đức,
nên tôi xin sám hối.
- Khi thầy vá y Tăng già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng chân đạp lên y, do đó, phạm tội Ðột cát la...(nt).
- Thưa Ðại đức,
không phải là tôi không kính trọng Phật, nhưng vì lúc đó không có ai cầm
y,nên tôi phải dùng chân đạp lên y để vá...(nt).
- Thầy đã ba lần cầu xin Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia trong chánh pháp, nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- Thưa Ðại đức,
không phải là tôi không tôn kính pháp, nhưng vì bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề Cù
Ðàm Di từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng thành, rồi Ngài đi xuất gia mà
thành Chánh giác. Công ơn ấy cần phải báo đáp, nên tôi mới ba lần cầu
thỉnh Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia...(nt).
- Khi Phật sắp nhập
Niết bàn đã hiện tướng nói với Thầy rằng: Nếu người nào đạt được bốn
thần túc, muốn giữ thọ mạng một kiếp hoặc hơn một kiếp đều có thể làm
được, Ðức Như Lai đã thành tựu vô lượng thiền định, và đã ba lần hiện
tướng nói với thầy như thế mà thầy không cung thỉnh Phật trụ thế một
kiếp, hoặc hơn một kiếp, nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- Thưa Ðại đức,
không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài, nhưng vì ác ma Ba
Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không thưa thỉnh... (nt).
- Ngày xưa, Phật đã
ba lần nhờ thầy đi lấy nước cho Phật uống, mà rốt cuộc thầy không dâng
nước cho Phật, nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- Thưa Ðại đức,
không phải là tôi không dâng nước cho Phật, nhưng vì bấy giờ có 500
chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng sông khiến cho nước đục sợ uống vào
sinh bệnh, nên tôi không lấy nước cho Thế Tôn...(nt).
- Thầy đã cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước mọi người, nên phạm tội Ðột cát la...(nt).
- Thưa Ðại đức,
không phải tôi muốn cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước nhưng vì trời
sắp tối,họ vào thành không kịp, nên tôi mới cho phép...(nt).
Tiếp theo, đại hội
cứu xét những giới nào có thể loại bỏ,tôn giả Ca Diếp trình bày: " Nếu
chúng ta xem chúng học pháp (những pháp cần phải học) là những giới nhỏ
nhặt có thể loại bỏ thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề đề xá
ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn
giới Ba la đề đề xá ni là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ kheo khác sẽ
bảo: Các giới Ba dật đề cũng là những giới nhỏ nhặt v.v... giờ đây,
chúng ta không thể khẳng định giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một
cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo: "Pháp của sa môn Thích tử giống
như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các đệ
tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn, họ
không chịu thực hành nữa". Do vậy, tôi xin khẳng định lại: "Những gì
không do Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế
định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà
Phật đã truyền dạy".
Sau khi nghe trình bày, tất cả đại chúng đồng thanh nhất trí với lời tuyên bố của tôn giả Ca Diếp.
Lúc này trưởng lão
Phú Lâu Na đang ở phương Nam, nghe Phật Niết bàn tại thành Câu Thi, và
các trưởng lão Tỳ kheo đang kết tập Tỳ Ni pháp tạng tại thành Vương Xá,
liền dẫn đồ chúng đến đó tham dự. Nhưng khi đến nơi, đại hội kết tập vừa
xong.Do đó, trưởng lão yêu cầu đại hội đọc tụng lại một lần nữa để
trưởng lão và đồ chúng cùng nghe. Ðại hội đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu
ấy.
Trong đại hội kết tập này, được các trưởng lão sau đây chủ trì:
1. Trưởng lão A Nhã Kiều Trần Như làm đệ nhất Thượng tọa
2. Phú Lâu Na làm đệ nhị Thượng tọa
3. Ðàm Di làm đệ tam thượng tọa
4. Ðà Bà Ca Diếp làm đệ tứ Thượng tọa
5. Bạt Ðà Ca Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6. Ðại Ca Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7. Ưu Ba Ly làm đệ thất Thượng tọa
8. A Na Luật làm đệ bát Thượng tọa.
Vì cuộc kết tập này
vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều, không ít, nên được gọi là cuộc kết
tập giáo pháp của 500 vị La hán (ngũ phần luật, ÐTK.1421, tr 190b-
192a).
So sánh và nhận xét
1. Nhận xét tổng quát:
- Luật ngũ phần trình bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ trình bày về sự kết tập.
- Luật tứ phần, ngoài phần trình bày sự kiện kết tập, còn nói thêm đôi nét về lúc Phật Niết bàn.
- Luật Thập tụng trình bày tương đối phong phú nhất, vì còn thêm nhiều chi tiết lúc Phật Niết bàn.
2. Những vị chủ trì cuộc kết tập:
- Luật Ngũ phần (xem lại trước)
- Luật Tứ phần ghi: a) Ðà Ê La Ca Diếp, b) Trưởng lão Bà bà Na, c) Ðại Ca Diếp, d) Trưởng lão Ðại Châu Na.
Luật Thập tụng ghi: a) A Nhã Kiều Trần Như, b) Trưởng lão Quản Ðà, c) Thập Lực Ca Diếp, d) Ma Ha Ca Diếp.
3. Những vấn đề Ca Diếp chất vấn A Nan:
- Luật Ngũ phần
(tóm tắt những trình bày trên): a)- A Nan không hỏi Phật những giới nào
là nhỏ nhặt có thể loại bỏ, b)- A Nan đạp chân lên y Tăng già lê của
Phật, c)- A Nan đã xin Phật cho phụ nữ xuất gia, d)- A Nan không xin
Phật trụ thế lâu hơn nữa mà để Phật Niết bàn, e)- A Nan không lấy nước
cho Phật uống khi Phật đang cần. f)- A Nan đã cho phép nữ giới lễ xá lợi
Phật trước nhất.
- Luật Tứ phần: Bộ
này đề cập đến 7 điều.Riêng điều thứ hai khác hẳn hai bộ kia, như sau:
Phật đã ba lần yêu cầu A Nan làm người cúng dường mà A Nan nhất quyết
không nhận. Còn các điều 1, 3 , 4, 5, 6, thì giống như các điều 1-5 của
Ngũ phần, chỉ đảo lộn vị trí. Ðiều 7 cuối cùng thì viết: A Nan không
ngăn nữ giới khiến họ làm bẩn chân Phật (1) (ÐTK, 1428, tr 966a).
- Luật Thập tụng: 5
điều trước giống như Luật ngũ phần, chỉ đảo lộn vị trí. Riêng điều thứ
sáu, luật này nói "A Nan đã để lộ âm tàng tướng của Phật cho nữ giới xem
(2) (ÐTK 1428, tr 449b).
4- Một số khía cạnh khác:
a. Ðịa điểm kết tập: cả ba bộ đều nhất trí cho là tại thành Vương Xá.
b. Thời gian kết tập: cả ba bộ đều đồng ý cho rằng vào mùa hạ năm Phật Niết bàn.
c. Số người tham dự kết tập: cả ba bộ đều ghi nhận con số 500 vị La hán.
d. Người phấn khởi
nhất khi hay Phật nhập Niết bàn: cả ba bộ đều cho là Tỳ kheo Bạt Nan Ðà,
một Tỳ kheo bán thế xuất gia khi đã lớn tuổi.
e. Tất cả đều đồng ý giữ nguyên những gì Phật chế, nhưng tùy nghi áp dụng, không thêm cũng không bớt.
g . Vấn đề tạng
Luật: cả 3 bộ đều nhất trí cho rằng kết tập Luật tạng trước do Ưu Ba Ly
đảm trách, Kinh tạng sau, do A Nan thực hiện,
- Bộ Ngũ phần: chỉ nói kết tập tạng Luật và tạng Kinh. Hai bộ kia thì bảo kết tập cả Luận tạng và do A Nan phụ trách, như sau:
- Bộ Tứ phần nói: điều gì liên quan đến những việc làm có nạn hay không có nạn, đều tập họp lại thành tạng Luận.
- Bộ Thập tụng nói:
Phật dạy rằng ai phạm 5 tội - sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ,
uống rượu thì sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn, đó là
tạng Luận. Bộ này nói rõ: Từ nay trở đi, mở đầu tất cả các bộ Kinh,
Luật, Luận đều dùng câu "Như thị ngã văn, nhất thời ...." (Tôi nghe như
vầy, một thuở...)
Có một điều khiến
chúng ta phải lưu ý:tuy xuất phát từ một đại hội kết tập mà khi tường
thuật lại vẫn có những điều dị biệt. Ðó là do trình độ ghi nhận, phương
thức trình bày và quan điểm của mỗi bộ phái. Thế nhưng, đặc biệt tư liệu
này nằm trong luận tạng, được bảo trì khá tốt, và tương đối còn giữ
được tính chất nguyên thủy và trung thực, chưa bị tình trạng "tam sao
thất bổn" làm cho sai lạc. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử kết tập Tam
tạng giáo điển, chúng ta có thể yên tâm phần nào trong việc dẫn chứng về
phương diện sử liệu./.
* Chú thích:
(1) Tôn giả Ca Diếp
chất vấn A Nan: "Vì sao thầy không ngăn cản nữ giới để họ làm bẩn chân
Phật?", A Nan đáp: "không phải tôi cố ý làm như vậy, nhưng vì tâm hồn nữ
giới rất mềm yếu, nên khi đảnh lễ chân Phật, họ khóc lóc làm rơi nước
mắt trên chân Phật, khiến chân Phật bị nhiễm bẩn".
(2) Tôn giả Ca Diếp
hỏi A Nan: "Vì sao thầy để lộ âm tàng của Phật cho nữ giới xem?", A Nan
đáp: "Vì nữ giới phúc đức mỏng manh, nên muốn cho họ xem tướng âm tàng
của Phật. Khi thấy rồi họ sẽ nhàm chán cái thân nữ giới, sau đó mong
được cái thân nam tử, nên tôi cho họ xem".