Phần I - Bài đọc thêm
Năm Căn, Năm Lực
Thích Viên Giác
Con
đường tu tập của đạo Phật để đạt được mục đích giải thoát tối hậu bao
gồm trong 37 phẩm trợ đạo, còn gọi là 37 yếu tố giác ngộ (Bodhi
pàksika-Dharma), đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm
căn, Năm lực, Bảy giác chi và Tám chánh đạo. Ðây là những nguyên tắc căn
bản của mọi đường lối tu tập cho cả Nguyên thủy và Ðại thừa Phật giáo.
Có lần Ðức Phật nhấn mạnh rằng "...Về sau giáo đoàn có sự sai khác về
nếp sống, sinh hoạt, về quy chế tổ chức nhưng không thể có sự sai khác
về đường lối tu tập, về 37 phẩm trợ đạo" (Trung Bộ kinh III, kinh Làng
Soma). Mỗi pháp đều có lãnh vực riêng và lộ trình tâm riêng, nhưng đồng
thời nó mang tính thống nhất và đan quyện vào nhau, bổ sung cho nhau.
Trong phạm vi đề
tài, chúng tôi sẽ trình bày phần Năm căn và Năm lực, là một phần của con
đường tu tập nhưng rất quan trọng, có thể nói Năm căn, Năm lực là những
yếu tố giác ngộ căn bản làm nền cho 37 phẩm trợ đạo.
I- Ðịnh nghĩa
a/- Năm căn (Panca-Indriya):
Căn nghĩa là rễ, là nguồn gốc, là cơ sở xuất phát. Năm căn là năm cơ sở
tâm lý thiện, từ đó mọi thiện pháp sinh khởi, nói cách khác, chúng là 5
đức tính căn bản cho thiện tính, giải thoát tính, gồm có:
1. Tín căn (Saddhà): niềm tin đối với Tam bảo, Tứ đế
2. Tấn căn (Viriya): nỗ lực tu tập thiện pháp
3. Niệm căn (Sati): nhớ nghĩ chánh pháp
4. Ðịnh căn (Samàdhi): trụ tâm vào một cảnh
5. Tuệ căn (Panna): hiểu rõ chân lý.
Tóm lại, Năm căn là năm cơ sở sinh khởi của tất cả các thiện pháp.
b/- Năm lực (Panca-Bala):
Lực là năng lực, là sức mạnh, là năm sức mạnh tinh thần, năm khả năng
do thực hành 5 căn đưa tới, làm cho hành giả giác ngộ. Nói cách khác, 5
lực là kết quả thực hành 5 căn, như do tín căn mà có tín lực. Gồm có 5
lực:
1. Tín lực: là tâm loại bỏ được hoài nghi và những niềm tin sai lầm.
2. Tấn lực: là năng lực tu tập diệt trừ bất thiện pháp gồm trong Bốn chánh cần.
3. Niệm lực: là sức mạnh do tu tập hành Bốn niệm xứ.
4. Ðịnh lực: là sức mạnh do tu tập thiền định loại bỏ mọi tham ái.
5. Tuệ lực: là sức mạnh nhờ tuệ tri về Bốn chân lý, đoạn tận vô minh.
Mối quan hệ giữa
Căn và Lực là mối quan hệ nhân quả hỗ tương: tu tập căn thì phát huy sức
mạnh của lực, sức mạnh của lực sẽ làm cho căn càng vững chắc. Ví dụ:
khi phát khởi đức tin đối với Tam bảo, đức tin ấy có tác dụng đưa mình
vào con đường thiện, khi vào con đường thiện thì đức tin đối với Tam bảo
càng sâu.
II- Nội dung của Năm căn và Năm lực
1)- Tín căn và Tín lực (Saddhà):
là niềm tin, là sự tin tưởng hay một lý tưởng để hướng đến. Ở đây là
niềm tin vào bậc Ðạo Sư (Ðức Phật) và giáo pháp của Ngài, là bước đầu
xây dựng lộ trình tâm hướng thượng và hướng thiện. Niềm tin của người
Phật tử là biểu hiện của sự thấy biết sâu sắc của chánh kiến.
Con người ai cũng
có một niềm tin, một lý tưởng tựa cho tinh thần và hành động, ai cũng có
một mục tiêu để hướng đến. Một người nếu không có một niềm tin nào
trong đời sống của mình, người đó sẽ mất phương hướng, sẽ sống vội và
sống ích kỷ, sẽ bị sa đọa và gặt hái khổ đau. Có người tin vào tài sản
tiền bạc, lấy tài sản làm nơi trú ẩn, nương tựa, họ an tâm khi tài sản
tăng trưởng. Có người tin vào tình yêu, cho đó là lẽ sống của đời họ,
nếu không có tình yêu, cuộc đời sẽ mất hết ý nghĩa v.v... Nhưng sớm muộn
gì, những người ấy sẽ nhận ra rằng những đối tượng của niềm tin thế tục
có nguy cơ đưa đến bất an, bất hạnh và khổ đau. Kinh nghiệm về khổ đau
thường trực trong cuộc đời làm cho con người thức tỉnh, họ bắt đầu hướng
tâm tìm kiếm những đối tượng cao siêu nào đó để tin tưởng, để làm mục
tiêu và lý tưởng của đời mình.
Người Phật tử khởi
lên niềm tin đối với Ðức Phật, hay nói một cách đầy đủ: Phật, Pháp và
Tăng, lấy Tam bảo làm nơi nương tựa, làm mục tiêu và lý tưởng của đời
mình. Như vậy, tín căn bắt đầu phát triển. Ðức Phật dạy về tín căn như
sau: "Này các Tỳ kheo, vị Thánh đệ tử có lòng tin, đặt lòng tin vào sự
giác ngộ của Như Lai rằng:"Ðây là Như Lai, ng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn". Này các Tỳ kheo, đây được gọi là tín căn" (Tương Ưng V,
308). Chữ "căn" trong đạo Phật có ý nghĩa là gốc rễ ở tâm thức, như
nói: "Thiện căn ở tại lòng ta" (Nguyễn Du). Lòng tin của người Phật tử
xuất phát từ một cuộc chuyển hóa nội tâm, một sự hiểu biết khởi lên từ
kinh nghiệm thực tiễn: cuộc đời đầy đau khổ. Thấy khổ và mong muốn thoát
khổ là cơ sở của niềm tin trong đạo Phật; như vậy, niềm tin của đạo
Phật luôn bao hàm lý trí chứ không thuần túy đức tin, thuần túy theo
quan điểm thần học. Ðức Phật thường dạy: "Tin ta mà không hiểu ta là phỉ
báng ta".
Tin tưởng vào Ðức
Phật, giáo pháp và chúng Tăng có nghĩa là tin tưởng vào điều thiện,
hướng về con đường giải thoát. Khi niềm tin đối với Tam bảo được xác lập
thì con người sẽ từ bỏ các hành vi bất thiện, làm giảm nhẹ áp lực của
tham lam, sân hận và si mê. Ở trong tâm thức mình sẽ hình thành sức mạnh
hướng về điều thiện, thích thú với điều thiện và nỗ lực thực hành điều
thiện, đó gọi là tín lực.
Tu tập phát triển
sức mạnh của niềm tin sẽ đưa đến khả năng từ bỏ một cách dứt khoát đối
với điều ác, coi nhẹ các dục lạc thế tục bao gồm tình cảm, tài sản, danh
vọng..., sức mạnh ấy sẽ đưa đến đoạn trừ tham, sân, si, ích kỷ... Ðức
Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, tu tập tín lực liên hệ đến viễn ly, ly tham,
đoạn diệt sẽ hướng đến từ bỏ..., hướng đến Niết bàn" (Tương Ưng V). Mặt
khác, khi phát triển năng lực, niềm tin bạn sẽ không còn nghi ngờ hay
do dự đối với thiện pháp và pháp môn, như bạn có niềm tin vững chắc với
Tam bảo thì bạn sẽ nhận thức rõ rằng điều thiện là đáng làm, rằng tu tập
thiền định là tốt đẹp cho tâm thức, là cách đoạn trừ phiền não... bạn
không nghi ngờ gì về điều ấy, cuộc đời bạn có một đường lối rõ ràng.
Người Phật tử có
niềm tin đối với Tam bảo mà cuộc sống vẫn đầy rẫy những tranh chấp, tham
đắm, hận thù, thì người ấy chưa thật sự có niềm tin đúng đắn, do đó
không phát huy được sức mạnh của niềm tin.
Tóm lại, tín căn và
tín lực là cơ sở và năng lực của niềm tin đưa đến từ bỏ điều ác, thực
hành điều thiện, là lối thoát cho mọi bất hạnh và khổ đau, bất an. Ðó
cũng là thái độ coi trọng chân lý, đặt mục tiêu và lý tưởng mình nơi
chân lý.
2)- Tấn căn và tấn lực (Viriya): chính
là nội dung của Chánh tinh tấn trong Bát chánh đạo, Tứ chánh cần trong
37 phẩm trợ đạo và Tinh tấn trong Thất giác chi. Tấn căn là sự nỗ lực
đúng đắn để đoạn trừ điều ác, phát triển điều thiện. Ðức Phật dạy: "Này
các Tỳ kheo, dựa vào Tứ chánh cần để thu nhận tinh tấn gì? Ðây gọi là
Tấn căn" (Tương Ưng V).
Khi đã có được niềm
tin đối với Tam bảo một cách vững chắc, năng lực của niềm tin sẽ đẩy
bạn đi tới, nghĩa là khởi lên tâm ước muốn hành động, muốn dấn thân để
vươn tới cái tối thiện. Do đó, sự nỗ lực tinh cần, nhiệt tâm khởi lên,
đó là tấn căn. Tấn căn như là hệ quả tất yếu của niềm tin, nếu tấn căn
không xuất hiện tức là đức tin của bạn chưa đúng mức.
Bất cứ một công
việc gì hay ước nguyện gì nếu không có sự nỗ lực tinh cần thì không thể
thành đạt gì. Vì vậy, tinh tấn là một đức tính căn bản luôn luôn có mặt
trên lộ trình tu tập từ bước đầu tiên cho đến mục tiêu cuối cùng. Một
người có nhiệt tâm siêng năng làm việc hay thực hành các hình thức tu
tập như tụng kinh, làm việc thiện, dầu vậy vẫn không được coi là tinh
tấn. Bởi lẽ có thể có những động cơ vì danh, vì lợi đằng sau các hoạt
động siêng năng ấy, có thể đưa đến phá hoại các thiện pháp.
Tiêu chuẩn của tinh tấn được trình bày qua Tứ chánh cần, 4 lãnh vực nỗ lực chân chánh:
a/- Nỗ lực tinh cần không cho sinh khởi các điều ác chưa sinh.
b/- Nỗ lực tinh cần đoạn trừ các điều ác đã sinh.
c/- Nỗ lực tinh cần làm phát khởi các thiện pháp chưa sinh.
d/- Nỗ lực tinh cần làm tăng trưởng những điều thiện đã sinh.
Bốn lãnh vực tinh cần có thể được hiểu như sau:
a/- Tinh cần chế
ngự sáu giác quan đừng để sáu giác quan bị chi phối và lôi cuốn theo các
đối tượng tham dục, làm cho các phiền não chưa sinh sẽ sinh.
b/- Tinh cần đoạn trừ những tư duy bất thiện gồm có lòng tham dục,
sân hận và hãm hại. Ðó chính là động cơ của mọi lỗi lầm, tội ác.
c/- Tinh cần tu tập các phương pháp mà Ðức Phật đã dạy như Thất giác
chi, Bát chánh đạo, qua đó làm phát khởi các thiện tâm, các công đức.
d/- Tinh cần hộ trì, tu tập giữ gìn các thiện pháp đã có mặt đừng để
thối thất, nhờ đó mà phát triển đạo lực và tuệ giác (kinh Tăng Chi).
Các công đức, thiện
tâm được hiển lộ dần dần chi phối toàn bộ dòng tâm thức, những tâm lý ô
nhiễm không có điều kiện tồn tại, tâm thức được năng lực tinh tấn bảo
vệ như người chiến sĩ khoác chiếc áo giáp, đây là tác dụng của tinh tấn
là tấn lực.
Người có tấn lực
không dễ sa ngã vào dòng đời vì tấn lực có năng lực đưa bạn thiên về
Niết bàn, hướng về Niết bàn, xuôi về Niết bàn.
Tóm lại, niềm tin
tạo nên ước muốn hướng thiện và hành thiện và tinh tấn là thực hiện một
cách tích cực các thiện pháp. Không có tinh tấn thì sẽ dang dở công phu
như kinh Di Giáo dạy: "Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ thì
cũng như kéo lửa chưa nóng mà ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng
không có được". Sức mạnh của tinh tấn sẽ nhanh chóng đưa hành giả đến
mục đích giải thoát như kinh Pháp Cú, Phật dạy:
"Tinh cần giữa phóng dật
Tỉnh thức giữa quần mê
Người trí như ngựa phi
Bỏ sau những ngựa què" -- (PC 29)
3)- Niệm căn và niệm lực (Sati): niệm
căn là khả năng chánh niệm tỉnh giác, là dụng tâm an trú vào các đối
tượng cần an trú để đình chỉ sự đi hoang của tâm lý, đồng thời phát
triển tuệ giác nhờ an trú tâm nên các đối tượng ấy, nghĩa là an trú tâm
vào 4 lãnh vực thân thể, cảm giác, tâm ý và đối tượng tâm lý, ta quen
gọi là Tứ niệm xứ hay Tứ niệm trụ. Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, cần
phải quán niệm căn trong Bốn niệm xứ" (Tương Ưng V).
Năng lực chánh niệm
sẽ làm nền cho định lực và tuệ giác phát triển, năng lực ấy đều có sẵn
trong tự thân của mỗi người. Thông thường ta phóng tâm chạy theo ngoại
cảnh qua các giác quan, bị ngoại cảnh chi phối dẫn dắt làm phân tán năng
lực tâm thức. Chánh niệm là không phóng tâm theo ngoại cảnh nữa mà quay
về nội quán, làm chủ các hoạt động của thân tâm, nghĩa là biết rõ và
chú ý về các hoạt động của thân thể, của các cảm giác vui buồn, các tư
duy và các đối tượng tư duy. Nhờ Chánh niệm, ta thấy rõ các hoạt động
của thân thể và tâm lý nên ta có thể chuyển hóa chúng từ thác loạn thành
ổn định, từ ô nhiễm thành thanh tịnh, từ khổ đau thành hạnh phúc. Con
đường Chánh niệm được coi là con đường duy nhất phải đi qua để đạt được
mục đích giải thoát. Ðức Phật dạy: "Ðây là con đường duy nhất để giúp
chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt thắng phiền não, tiêu diệt khổ ưu,
đạt tới Chánh đạo và chứng nhập Niết bàn, đó là con đường an trú Bốn
niệm xứ" (kinh Niệm Xứ - Trung Bộ kinh).
Niệm lực là tác
dụng của chánh niệm, nhờ chánh niệm mà phiền não được tiêu diệt và thiện
pháp được an trú vững chắc. Tác dụng của chánh niệm có thể phân tích
như sau:
a/- Nhờ chánh niệm
mà các tâm lý tham dục, sân hận và tà kiến dừng lại, sự kích thích các
tâm lý bất thiện không sinh, các phiền não lo lắng, sợ hãi không có cơ
hội phát triển và xâm nhập, như Phật dạy:
"Như ngôi nhà khéo lợp
Mưa không xâm nhập vào
Cũng vậy, tâm khéo tu
Tham dục không xâm nhập" -- (PC 14)
b/- Nhờ chánh niệm
mà giữ gìn và an trú các thiện pháp, các công đức như bố thí, trì giới,
tinh tấn, thiền định và trí tuệ, các công đức này được bảo vệ và phát
triển. Nếu mất chánh niệm thì các công đức cũng mất.
c/- Nhờ chánh niệm
mà tâm hồn được vững chãi, an ổn, thanh thản. Có thể làm việc, sinh
hoạt, tham dự mọi hoạt động xã hội mà không bị ô nhiễm hay phiền não tác
động chi phối, như Phật dạy trong kinh Di Giáo: "Nếu chánh niệm có sức
lực vững mạnh thì dầu vào trong đám giặc ngũ dục cũng không bị chúng sát
hại như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng thì không còn sợ hãi
gì nữa". Sống gần gũi với ngũ dục mà không bị chúng làm hại, đó là đặc
tính và tác dụng độc đáo của chánh niệm.
Tóm lại, khi ta trở
về an trú tâm, tỉnh giác trên các đối tượng như thân thể khi đi, đứng,
nằm, ngồi... an trú tâm vào hơi thở vào ra, ta bắt đầu lấy lại quyền tự
chủ, tâm lý đi hoang trở nên thuần thục. Phát triển năng lực chánh niệm
sâu hơn, ta làm chủ các cảm giác sung sướng hay khổ đau, tâm tư có hay
không có tham lam, giận hờn, hãm hại, an trú tâm trên các pháp môn tu
tập quán chiếu như vô thường, vô ngã, duyên sinh... Nhờ đó, các hoạt
động tán loạn và vô ích của tâm sẽ đình chỉ, tâm sẽ ổn định và hướng về
một hướng: thanh tịnh Niết bàn.
4)- Ðịnh căn và Ðịnh lực (Samàdhi):
định căn là khả năng tập trung của tâm vào một đối tượng, thường thì
tâm ta theo đuổi các đối tượng liên tiếp không ngừng nghỉ, những đối
tượng thường được tâm ta bám víu theo đuổi là sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm, vị ngon, xúc chạm êm dịu và những ảnh tượng tư duy. Nói về định
căn, Phật dạy: "Thế nào là định căn? Vị Thánh đệ tử sau khi từ bỏ các
pháp sở duyên, được định, được nhất tâm" (Tương Ưng V). Hoặc nói theo
kinh Di Giáo: "Các thầy Tỳ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong
thiền định". Các pháp sở duyên là các đối tượng mà tâm nhận thức, khi bị
các đối tượng dẫn dắt chi phối, tâm ở vào trạng thái tán loạn. Tập
trung tâm lại là gom tâm về một mối, nghĩa là trên một đối tượng cho đến
khi tâm chủ thể và đối tượng là một thì tâm ở trong trạng thái thiền
định. Khi ta tập trung vào một đối tượng chuyên nhất mà sự chuyên nhất
ấy làm lòng tham, sân, hại tăng trưởng thì gọi là tà định. Nếu sự chuyên
nhất ấy đưa đến thanh tịnh, viễn ly tham, sân... thì gọi là chánh định.
Tập trung tâm vào
một đối tượng là ý nghĩa của chữ Samàdhi, tịnh hay chỉ. Tập trung tâm
vào một đề mục quán chiếu là ý nghĩa của chữ Dhyàna, Thiền hay Thiền
quán. Thiền định chân chính là bao gồm cả hai ý nghĩa ấy.
Ðịnh lực là năng
lực của thiền định, thiền định tạo ra năng lực đoạn trừ các thế lực tâm
lý bất thiện, các thế lực ấy sâu có cạn có, tùy theo tác dụng mạnh hay
yếu mà thiền định có thể đưa tâm an tĩnh đến mức độ nào. Ðức Phật thường
đề cập đến thiền định qua 4 cấp độ: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ
thiền. Khi tâm có định thì có tác dụng đoạn trừ 5 yếu tố trói buộc và
gây bất ổn tâm lý, đó là:
a/- Tham dục: những ước muốn bất thiện, là các đối tượng thích ý làm tâm dao động.
b/- Sân hận: những sự bất mãn không thích đối với các đối tượng không vừa ý, làm tâm dao động.
c/- Hôn trầm thụy miên: trạng thái buồn ngủ, thụ động trầm uất u trệ làm tâm không tỉnh giác.
d/- Trạo hối: trạng thái tâm chao đảo, chập chờn làm tâm dao động không yên.
e/- Hoài nghi: trạng thái tâm lý do dự không quyết định làm têm không vào định được.
Năm trạng thái tâm
lý tích cực dần dần đi sâu vào nhất tâm được thành tựu, đó là: tầm, là
trạng thái tâm ý và đối tượng hướng vào nhau; tứ, là trạng thái tâm ý và
đối tượng gắn chặt với nhau, tuy hai mà một; hỷ, là trạng thái tâm lý
hoan hỷ do định mà có; lạc, là trạng thái vượt qua hỷ, một sự thỏa mãn
thân tâm; nhất tâm, là trạng thái không còn dao động, đây là ý nghĩa của
định.
Tóm lại, định có
được là nhờ niệm lực, như khu vườn được làm sạch cỏ, cây trái được trồng
chỉ cần siêng năng chăm bón là đơm hoa kết trái. Thiền định chủ yếu là
đừng để các đối tượng tham dục khuấy động, đừng để dòng tư duy tuôn chảy
bất tận, phải làm cho tâm dục đình chỉ và xả ly sự rối loạn của tư duy.
Như vậy, những tạp niệm, những tâm lý bất an, thụ động, bám víu đều
được xả ly và tâm định an trú.
5)- Tuệ căn và Tuệ lực (Panna):
trí tuệ là khả năng thấy biết một cách sâu sắc về bản chất của con
người và thế giới, biết rõ các nguyên lý chánh tà, thiện ác; thấy rõ
tính vô thường, vô ngã duyên sinh một cách trực tiếp. Chánh kiến, chánh
tư duy là những biểu hiện của trí tuệ. Trí tuệ là nền tảng của mọi đức
tính, Ðức Phật dạy: "Với vị Thánh đệ tử có trí tuệ, này các Tỳ kheo, tất
nhiên tín được an trú, tinh tấn được an trú, niệm được an trú, định
được an trú" (Tương Ưng V). Như vậy, trí tuệ vừa là nguyên nhân vừa là
kết quả của các thành quả tu tập. Trong mọi lãnh vực, mọi pháp môn, trí
tuệ luôn luôn dẫn đầu, do đó trí tuệ được người Phật tử coi là sự nghiệp
của đời mình (Duy tuệ thị nghiệp).
Trong kinh Căn Bản Pháp Môn (Trung Bộ I), Ðức Phật dạy có có 3 cấp độ nhận thức:
a/- Cấp độ một gọi
là tưởng tri; là nhận thức thông thường qua kinh nghiệm các giác quan,
nhận thức bị hạn chế bởi sự hạn chế của giác quan, chúng mang tính nhị
nguyên phân biệt chủ thể và đối tượng, còn gọi là nhận thức hữu ngã.
b/- Cấp độ hai gọi
là thắng tri (Abhinnattha), là nhận thức trực tiếp qua thiền định, thấy
rõ tâm lý và vật lý là một chuỗi duyên sinh vô ngã, ở đây chủ thể và đối
tượng tan biến trong cái thấy sáng tỏ.
c/- Cấp độ ba gọi
là liễu tri (Parinnattha), là trên cơ sở thắng tri nhận thức viên mãn
nhổ tận gốc rễ của sự tham ái và chấp thủ. Chủ thể và đối tượng là một,
giải thoát mọi ràng buộc của ba cõi.
Trí tuệ chính là khả năng thắng tri và liễu tri, có thể nói gọn trí tuệ là nhận thức không ô nhiễm, đoạn tận mọi tham ái.
Sức mạnh của trí tuệ gọi là tuệ lực, một người có trí tuệ là có sức mạnh:
a/- Ðoạn trừ phiền não, bất thiện pháp mà căn bản là sự tham đắm si mê đối với năm dục lạc.
b/- Ðoạn trừ sự
chấp thủ, mê đắm đối với các quan điểm, luận thuyết, tư duy, tư
tưởng..., biết rõ đấy là mê cung đưa đến rối loạn và khổ đau.
c/- Ðoạn trừ sự chấp ngã, sự bám víu vào cái ta và cái của ta, đồng thời xuất hiện tâm từ, bi, hỷ, xả.
d/- Ðoạn trừ vô minh vi tế , thành tựu giải thoát và giải thoát tri kiến, đủ phương tiện độ sanh.
Tóm lại, "trí tuệ
chân thực là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh, lão, bệnh, tử; là
ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh; là thần dược cho mọi kẻ bệnh
tật; là búa sắc chặt cây phiền não" (kinh Di Giáo). Như vậy, tuệ được
coi là tối thượng của sự giải thoát.
III- Kết luận
Năm căn, Năm lực là
những đức tính căn bản cho mọi thiện pháp và mọi đường lối giải thoát
sinh tử. Lộ trình tâm được trình bày qua Năm căn, Năm lực là lộ trình
giải thoát, một pháp môn tu tập tuần tự từ thấp đến cao. Khi bạn có niềm
tin vào điều thiện, có chỗ để hướng tâm trí của mình, bạn sẽ có niềm
vui, lòng nhiệt thành và nỗ lực thực hiện lý tưởng của mình. Khi nỗ lực
nhiệt tâm đã phát khởi, tâm ý của bạn sẽ an trú vào những đối tượng và
mục đích cần thiết, bạn không còn hoang mang do dự theo kiểu "tiền lộ
mang mang vị tri hà vãng" (Cảnh sách văn) - nghĩa là đường trước mịt mờ
chẳng biết đi về đâu. Tâm trí của bạn chỉ hướng về một điểm, soi sáng
vào một điểm, dần dần sự thật hiển lộ dưới tuệ giác của bạn. Ðến đây,
mọi ưu phiền, đau khổ, tham dục, hận sầu đều rơi rụng. Bạn có một đời
sống thanh thản và tịnh lạc.
Năm căn, Năm lực là
một pháp môn có thể thực tập riêng và đưa đến kết quả giải thoát, đồng
thời pháp môn này vẫn có thể tu tập một cách dung thông với tất cả các
phẩm trợ đạo mà không có chướng ngại gì, tất cả đều quy về một hướng:
hướng về Niết bàn./.