III. Phật giáo từ triều đại vua A Dục (Asoka) đến triều đại vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka)
1)- Vai trò của vua A Dục trong sự truyền bá Phật giáo:
Vua A Dục (trị vì
269-232 trước TL, khoảng hơn hai trăm năm sau Phật diệt độ) là người có
công thống nhất Ấn Ðộ, xây dựng đất nước trở nên hùng cường về mọi mặt.
Nhà vua là vị lãnh đạo đã áp dụng đạo đức Phật giáo vào đường lối, chính
sách cai trị, và đồng thời, vua A Dục là một Phật tử hộ đạo vĩ đại bậc
nhất trong lịch sử, đặc biệt là lịch sử truyền bá Phật giáo ra ngoài Ấn
Ðộ.
Sau những cuộc
chiến đẫm máu, dù thắng lợi vẻ vang nhưng nhà vua chợt nhận ra một điều
hệ trọng là cội nguồn hạnh phúc, giá trị của con người không phải ở bên
ngoài mà ở ngay trong chính bản thân của mỗi cá nhân. Từ một ông vua
hung hãn, vua A Dục đã quy y Phật giáo và trở thành một Phật tử nhiệt
thành hộ trì Phật giáo, được lịch sử ca ngợi là một đấng anh quân vĩ đại
nhất trong lịch sử Ấn Ðộ.
Tự xưng là Phật tử,
nhà vua đã thân hành chiêm bái các thánh tích, và tại mỗi nơi quan
trọng, nhà vua đều cho dựng trụ đá để tưởng niệm Ðức Phật. Những trụ đá
và các sắc lệnh được khắc lên đó sau này là một chứng tích khảo cổ quý
giá, giúp chúng ta hiểu thêm về Ðức Phật và lịch sử của giai đoạn này.
Ý thức rõ giá trị
thiết thực của tư tưởng Phật giáo trong việc xây dựng xã hội, đất nước
lâu dài, vua A Dục đã tích cực truyền bá tư tưởng Phật giáo không chỉ
khắp trong lãnh thổ Ấn Ðộ, mà còn ra ngoài nước, cử các đoàn truyền giáo
đến Hy Lạp, Ai Cập, các nước thuộc vùng Ðịa Trung Hải, Tích Lan (Sri
Lanka)... khiến cho thế giới biết đến Phật giáo và đạo Phật trở thành
một trong những tôn giáo, tư tưởng lớn của nhân loại.
Một trong những
đoàn truyền giáo do nhà vua cử đi có đoàn của hoàng tử Mahinda, đã mang
kinh điển sau khi đã được kết tập ở Hội nghị kết tập lần thứ hai, do nhà
vua bảo trợ và tổ chức, đến Tích Lan (Sri Lanka) để sau đó kinh điển
này được kết tập ở đây thành tạng Pali, xem như là một căn cứ văn bản
Tam tạng Thánh giáo cổ xưa nhất hiện nay.
Có một điều không
thể quên là, triều đại của vua A Dục gặp lúc Phật giáo phân hóa có thể
nói là đến cực điểm, tuy vậy chúng ta vẫn không thấy nhà vua có sự can
thiệp vào sự phân hóa các bộ phái và cũng không thấy nhà vua có thái độ
thiên vị một bộ phái nào. Ðặc điểm đạo đức mà nhà vua khích lệ dân chúng
thực hành là con đường trung đạo, tránh xa những cực đoan. Chính sách
cai trị của nhà vua là cởi mở, không thiên vị người Phật tử hay không
Phật tử...
Tóm lại, Phật giáo ở
đời vua A Dục phát triển rất mạnh mẽ. Phật giáo không chỉ được truyền
bá khắp nơi trong lãnh thổ mà còn truyền bá đến các nước Hy Lạp, Ai Cập,
Syria và hầu hết vùng phía Ðông của bờ biển Ðịa Trung Hải; các nước
Aparantaka, Kamboja thuộc phía Bắc Ấn Ðộ; Pulinda, Bhoja, Pitinika,
Andhra, Cola, Pandya và Sri Lanka (Tambapanni) ở phía Nam lãnh thổ Ấn
Ðộ...
2)- Phật giáo sau triều đại vua A Dục:
Sau khi vua A Dục
qua đời (khoảng năm 232 trước TL), những người kế vị phần nhiều tin theo
Bà La Môn giáo và Kỳ Na giáo nên Phật giáo không còn được ưu đãi, bảo
hộ như xưa. Khoảng đầu thế kỷ II trước TL, có võ tướng tên là Bổ Sa Mật
Ða (Pusyamitra) tiếm ngôi vua và lập nên một triều đại mới là Sunga.
Pusyamitra là người mộ Bà La Môn giáo và đã bức hại Phật giáo. Những
vương triều kế tiếp đều tin theo tín ngưỡng Bà La Môn, nên Phật giáo tại
vùng Trung Ấn, nơi mà thế lực của các vương triều trên chi phối, suy
yếu dần; tuy nhiên, tại các vùng Bắc Ấn và Tây Ấn, Phật giáo vẫn tiếp
tục phát triển, có nhiều bậc cao minh du hóa.
Giai đoạn này đặc
biệt để lại hàng loạt di tích kiến trúc Phật giáo. Ngoài hàng ngàn ngôi
bảo sát được vua A Dục cho xây dựng khắp nơi để thờ Phật, hiện nay vẫn
còn lưu giữ dấu ấn của thời đại này qua những công trình như tháp Phật ở
vườn Nai (Lộc Uyển), Bồ đề đạo tràng, động Ellora, Ajanta (niên đại
khoảng thế kỷ II trước TL)...
3)- Phật giáo ở triều đại vua Ca Nị Sắc Na (Kanishka):
Vua Ca Nị Sắc Ca
(Kanishka) trị vì Ấn Ðộ sau vua A Dục khoảng ba trăm năm (tức khoảng đầu
thế kỷ thứ II sau TL). Vua là người rất mộ Phật giáo, công lao của ông
đối với Phật giáo được so sánh gần ngang với vua A Dục.
Vương triều
Kanishka có thế lực rất hùng mạnh, đã chinh phục sang cả một số vùng
lãnh thổ của nhà Hậu Hán như Kashgar, Varkand, Khotan... Sử liệu ghi lại
rằng, trong các bộ phái, vua Kanishka chuộng Hữu bộ hơn cả.
Công lao hộ trì
Phật giáo của nhà vua được ghi nhận qua việc khởi xướng, bảo trợ và cho
khắc ghi thành văn bản Tam tạng kinh điển ở Hội nghị kết tập lần thứ tư,
như đã đề cập ở phần trước. Trong thời gian trị vì, nhà vua đã cho xây
dựng nhiều công trình kiến trúc Phật giáo như bảo tháp để tôn thờ xá lợi
Phật khắp nơi trong nước.
Trong ba mươi năm
trị vì của vua Kanishka, dưới sự hộ trì của người lãnh đạo tối cao của
đất nước, Phật giáo đã phát triển rất mạnh, không thua kém gì thời vua A
Dục trước đó. Tuy nhiên, sau triều đại vua Ca Nị Sắc Ca, có triều đại
thì ủng hộ, có triều đại thì bài xích, nên Phật giáo cũng thăng trầm,
biến thiên theo lịch sử; nhưng lúc phát triển nhất cũng không thể sánh
với tầm ảnh hưởng sâu rộng như dưới triều đại của vua A Dục và vua Ca Nị
Sắc Ca.
C. Thời kỳ Phật giáo Phát triển (Mahayana)
I- Khái niệm
Chữ Mahayana dịch
âm Hán-Việt là Ðại thừa, thường được hiểu là cỗ xe (pháp) lớn. Thuật ngữ
này có thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I trước TL, nhưng đến thế kỷ
thứ III sau TL mới được xác định rõ ràng qua những tác phẩm của ngài
Long Thọ (Nagarjuna) với lập trường các pháp không có tự thể bất biến
(tánh Không). Ðại thừa (Mahayana) cũng có ý chỉ cho những tư tưởng
thượng thừa, cao siêu, thâm thúy...
Thuật ngữ Mahayana
(Ðại thừa) thường đi đôi với Hinayana (Tiểu thừa) mà thường bị phân biệt
hai phương pháp tu hành: ích kỷ, chỉ vì mục đích giải thoát cho cá nhân
(Tiểu thừa) và vị tha, giúp người giải thoát đồng thời giải thoát cho
mình (Ðại thừa). Các nhà nghiên cứu Phật học đã chỉ ra đó là một sự nhầm
lẫn. Mahayana là khái niệm chỉ cho khuynh hướng khai triển tư tưởng vô
ngã thành một hệ thống triết học thâm thúy, hoàn hảo, chặt chẽ.
Ở đây, gọi "thời kỳ
Phật giáo Phát triển" là chỉ cho thời kỳ lịch sử mà tư tưởng trên hưng
thịnh, truyền bá rộng rãi và trở thành một tư tưởng nổi bật nhất của
Phật giáo, khoảng từ đầu thế kỷ thứ III đến hết thế kỷ thứ VIII sau TL.
II- Nguồn gốc của tư tưởng Phật giáo Ðại thừa (Mahayana)
Nói một cách dứt
khoát rằng, tư tưởng Phật giáo Ðại thừa đã có từ thời Ðức Phật. Trong
thời kỳ Phật giáo Bộ phái, tư tưởng này đã hình thành tương đối rõ ở Ðại
chúng bộ và xen lẫn trong giáo nghĩa của các bộ phái khác. Trước ngài
Long Thọ (Nagarjuna) đã có những Thánh tăng hoằng dương Phật giáo Ðại
thừa như Na Tiên Tỳ kheo (Nagasenna), ngài Thế Hữu (Vasumitra), Mã Minh
(Asvaghosa)... chủ yếu là ở vùng Bắc Ấn.
Như đã có lần đề
cập, trước thế kỷ thứ III sau TL, tức trước thời đại của ngài Long Thọ,
những bộ kinh quan trọng của Ðại thừa như Bát Nhã (Prajnàparamita
sutra), Hoa Nghiêm (Gandavỳuha), Duy Ma Cật (Vimàlakirtinirdèsa sutra),
Thủ Lăng Nghiêm tam muội (Surangama samadhi sutra), Diệu Pháp Liên Hoa
(Saddharma Pundarika sutra) và một số bản kinh thuộc tư tưởng Tịnh độ đã
được phổ biến, nhất là tại Nam Ấn và Ðông Ấn và đặc biệt là tại Bắc Ấn,
những nơi chịu ảnh hưởng mạnh của Ðại chúng bộ.
Tuy nhiên, phải đến
thời đại của ngài Long Thọ, tư tưởng này mới được phát triển rực rỡ
chưa từng có trước đó. Tư tưởng này cũng đã sớm tạo nên những ảnh hưởng
rất lớn lên các hệ tư tưởng khác, không những trong nước mà cũng được
truyền bá và thích hợp đối với nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Tây Tạng, Việt Nam... ngay khi mới du nhập.
Trên phương diện
giáo lý, những tư tưởng trên không gì khác hơn là sự phát triển về sau
và dồi dào, hệ thống hóa giáo lý Phật giáo Nguyên thủy; và với lý tưởng
Bồ tát, có thể nói, là một khuynh hướng, phương thức "xã hội hóa" Phật
giáo để phù hợp với những thay đổi của thời đại.
Bây giờ, chúng ta
sẽ tìm hiểu lịch sử Phật giáo qua những thời đại gắn liền với tên tuổi
của các vị luận sư nổi tiếng, tiêu biểu trong thời kỳ này.
III- Phật giáo ở thời đại của ngài Long Thọ
1)- Vài nét về ngài Long Thọ:
Nói đến Phật giáo
Phát triển (Ðại thừa), trước hết người ta thường nhắc đến tên tuổi của
ngài Long Thọ, vì Ngài là người có công trong việc chú thích các bộ kinh
căn bản rồi hệ thống hóa giáo nghĩa và hoằng dương cho tư tưởng này rất
tích cực.
Ngài sinh vào đầu
thế kỷ thứ III sau TL, tức khoảng bảy trăm năm sau Phật diệt độ, thuộc
dòng dõi Bà La Môn tại Nam Ấn, bẩm tính thông minh xuất chúng; trước
Ngài tu theo ngoại đạo, sau theo Phật giáo, thông hiểu các giáo nghĩa.
Ngài là tác giả của nhiều bộ luận nổi tiếng như Trung Quán, Ðại Trí Ðộ, Thập trụ tỳ bà sa..., tổng cộng trên mười ba bộ, chú thích về kinh Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm...
2)- Tư tưởng của ngài Long Thọ:
Do uyên thâm nhiều
lĩnh vực, trước tác nhiều bộ luận giải thích các bộ kinh, tư tưởng quan
trọng nên Ngài được nhiều tông phái như Tịnh độ, Hoa Nghiêm, Tam Luận
tông... tôn xưng là Tổ khai sáng. Tuy nhiên, có thể nhận ra tư tưởng chủ
đạo của Ngài là triết học tánh Không được trình bày qua bộ luận bất hủ Trung Quán, đại để là "Tất cả các pháp là vô ngã hay không. Ðể đạt đến chấm dứt khổ đau, cần phải chứng ngộ đạo lý không ấy. Niết bàn là không tánh (vô ngã)".
Sau thời ngài Long
Thọ, có các nhân vật nổi bật là Ðề Bà (Deva) - đệ tử của Ngài - và La
Hầu La Bạt Ða La (Ràhula Bhadra) - học trò của ngài Ðề Bà.
Ngài Ðề Bà cũng là
người Nam Ấn, sinh khoảng cuối thế kỷ thứ III sau TL. Ngài là người xuất
chúng, có tài hùng biện, thường được cử đi hàng phục ngoại đạo và các
giáo nghĩa khác khắp nơi. Một số nguồn sử liệu cho biết, về sau Ngài đã
bị ngoại đạo hãm hại. Ngài Ðề Bà là người kế thừa và phát huy tư tưởng
của thầy mình, dựa trên lập trường Trung Quán luận để viết các bộ
luận nhằm xây dựng một hệ thống lý luận chặt chẽ có mục đích là "phá tà
hiển chánh". Ngài La Hầu La Bạt Ðà La thì cũng sinh trưởng vào khoảng
cuối thế kỷ thứ III sau TL, người Trung Ấn, tiếp tục sự nghiệp của thầy
viết các bộ luận chú thích Trung Quán luận, nhưng tác phẩm của
Ngài nay đã thất truyền. Tư tưởng Phật giáo Ðại thừa do ngài Long Thọ
khai triển truyền bá rộng rãi ở miền Nam Ấn Ðộ, có xu hướng phát triển
về Trung Ấn, có ảnh hưởng rất lớn đương thời.
IV- Phật giáo ở thời đại ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu)
1)- Các bộ kinh xuất hiện sau thời ngài Long Thọ:
Sau thời đại ngài
Long Thọ và trước khi hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân ra đời, bấy
giờ có một số bộ kinh hình thành và được truyền bá tương đối rộng rãi
như kinh Thắng Man với tư tưởng Như Lai tạng (Phật tính) làm trung tâm;
kinh Ðại Bát Niết Bàn thuyết minh về Pháp thân thường trụ, tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh và Nhất xiển đề thành Phật; kinh Lăng Già
(Lankavatara) với giáo nghĩa nổi bật là Như Lai tạng và A lại da thức;
kinh Giải Thâm Mật với tư tưởng làm căn bản cho lĩnh vực duy thức học...
2)- Vài nét về ngài Vô Trước và Thế Thân:
Theo nhiều nguồn
tài liệu, các ngài Vô Trước và Thế Thân là anh em cùng mẹ khác cha, ra
đời sau ngài Long Thọ hơn một trăm năm, tức khoảng cuối thế kỷ thứ IV
sau TL. Ngài Thế Thân lớn hơn em là ngài Vô Trước khoảng hai mươi tuổi.
Ngài Vô Trước đã
từng tin theo Bà La Môn giáo, sau xuất gia theo Hữu bộ rồi nghiên cứu
kinh điển Phật giáo Ðại thừa và tích cực truyền bá tư tưởng này. Tương
truyền, Ngài đã được nghe Ðức Di Lặc Bồ tát (Maitreya) thuyết pháp tại
cung trời Ðâu Suất (Tusit) (?). Ngài là người đã viết nhiều bộ luận,
trong đó phân thành hai: một, do Ngài thuật lại lời Bồ tát Di Lặc; và
một, do chính Ngài soạn.
Ngài Thế Thân lúc đầu cũng xuất gia theo Hữu bộ, dấu ấn đó để lại qua bộ luận Câu Xá
nổi tiếng, tổng hợp giáo nghĩa của bộ phái này; sau được anh khuyên,
Ngài chuyển sang nghiên cứu và tích cực hoằng dương tư tưởng Phật giáo
Ðại thừa. Ngài là người có một đầu óc phi thường, tác giả của cả ngàn bộ
luận, được mệnh danh là "Thiên bộ luận sư", trong số đó có những bộ
luận làm cơ sở của ngành Duy thức học, có giá trị như những tác phẩm
"kinh điển", như Duy thức tam thập tụng, Ðại thừa bách pháp minh môn luận, A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá luận...
Ngài Vô Trước mất ở
tuổi bảy mươi sáu, còn ngài Thế Thân thì thọ đến tám mươi tuổi. Những
tác phẩm chú thích kinh điển của hai Ngài, cùng với ngài Di Lặc, là
những bộ luận bất hủ, rất quan trọng trong lịch sử Phật giáo.
3)- Ðặc điểm tư tưởng của ngài Vô Trước và Thế Thân:
Ðối với ngài Vô
Trước, hầu hết những trước tác của Ngài nhằm để thuyết minh cho tư tưởng
"Ai lại da duyên khởi" (Duyên khởi luận), nghĩa là các pháp trên thế
gian đều không ngoài tâm thức con người mà có, và cội nguồn cho sự hiện
hữu của các pháp là thức A lại da (thức thứ tám - Alaya). Riêng với
Thiên bộ luận sư, vì Ngài là một đầu óc quảng lãm nên tư tưởng của Ngài
cũng phong phú; tuy nhiên, về căn bản, kể từ sau khi Ngài chuyển sang
nghiên cứu kinh điển Phật giáo Ðại thừa, thì tư tưởng của Ngài là tương
đồng với lập trường của ngài Vô Trước, nghĩa là cũng thuộc "Duyên khởi
luận".
Tư tưởng do anh em
các ngài Vô Trước, Thế Thân phát triển chủ yếu phổ biến trước hết ở Bắc
Ấn, có xu hướng ngày càng truyền bá về phía Nam.
V- Sự hình thành và hưng thịnh của đại tòng lâm Na Lan Ðà (Nalanda) - trung tâm của thời kỳ Phật giáo Phát triển
1)- Sự hình thành hai hệ thống tư tưởng Phật giáo lớn:
Tư tưởng do ngài
Long Thọ và anh em ngài Vô Trước, Thế Thân phát triển không lâu sau trở
thành hai hệ thống tư tưởng chính của Phật giáo đương thời, gọi là trường phái Trung Quán và trường phái Du Già.
Trường phái Trung
Quán thuộc "Thật tướng luận", do ngài Long Thọ khởi xướng, xuất phát từ
Nam Ấn lan dần xuống phía Nam. Sau ngài Ðề Bà (Deva) và La hầu La Bạt Ðà
La (Rahula Badhra), từ thế kỷ thứ IV trở đi có các vị luận sư xuất sắc
kế thừa và phát huy như các ngài Thanh Mục (Pingala), Phật Hộ
(Buddhapàlita); thế kỷ VI sau TL lại có các ngài Thanh biện
(Bhàvaviveka), Trí Quang, Nguyệt Xứng (Candrakirti)... tích cực truyền
bá, làm cho trường phái này hưng thịnh, có một vị trí quan trọng trong
Phật giáo. Ðầu thế kỷ thứ VII sau TL lại có các ngài Sư Tử Quang, Thắng
Quang, Trí Hộ... tiếp tục truyền bá và xiển dương tư tưởng của Trung Quán luận.
Trường phái Du Già
thuộc "Duyên khởi luận", do anh em luận sư Vô Trước và Thế Thân khởi
xướng, xuất phát từ Bắc Ấn rồi lan truyền đến miền Nam. Sau thời đại các
ngài Vô Trước và Thế Thân khoảng hai trăm năm (tức khoảng thế kỷ thứ VI
sau TL, trường phái này xuất hiện nhiều bậc luận sư tài ba như ngài
Thân Thắng (Bandhusri), Hỏa Biện (Citrabhàna), Ðức Tuệ (Gunamati), Trần
Na (Dignàga), An Tuệ (Sthiramati)... Tiếp theo lại có các Ngài như Hộ
Pháp (Dharmapàla), Giới Hiền (Silabhadra) - vị thầy đã trực tiếp dạy Duy
thức học cho ngài Huyền Trang tại Nalanda... Thanh thế của trường phái
này không thua kém gì trường phái Trung Quán.
2)- Ðại tòng lâm Na Lan Ðà (Nalanda) - giao điểm, nơi hội tụ tinh hoa của Phật giáo:
Na Lan Ðà là một
"học viện Phật giáo" có một không hai trong lịch sử, tọa lạc tại phía
Bắc thành Vương Xá (Ràjagaha, nay là Ràjgir), thuộc Trung Ấn. Nalanda có
thể được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ V sau TL. Trong ký sự của mình,
ngài Huyền Trang đã ghi chép rằng, khi đặt chân đến đây (nửa đầu thế kỷ
thứ VII sau TL) thì Na Lan Ðà đã là một đại tòng lâm quy mô; ngài Nghĩa
Tịnh (cuối thế kỷ thứ VII sau TL) thì mô tả Na Lan Ðà có tám viện, ba
trăm phòng, kiến trúc nguy nga, tráng lệ...
Với vị trí đặc biệt
đó, Na Lan Ðà là nơi gặp gỡ của hai hệ thống tư tưởng từ Bắc và từ Nam
truyền đến; đây trở thành nơi quy tụ các danh tăng, học giả Phật giáo
lỗi lạc thời bấy giờ. Sử liệu ghi rằng, tại đây, hàng ngày có đến hàng
ngàn người theo học, nghiên cứu và tu tập. Quy chế tuyển chọn vào Na Lan
Ðà cũng rất khắt khe. Vì thế, những người theo học tại Na Lan Ðà, sau
khi hoàn thành chương trình, đều trở thành các học giả Phật học uy tín.
Na Lan Ðà trở nên
một trung tâm Phật giáo, đặc biệt là về mặt học thuật, của Ấn Ðộ. Ðây là
nơi đào tạo chất lượng, đồng thời là "diễn đàn" đối thoại giữa các tư
tưởng Phật giáo và giữa Phật giáo với các tư tưởng khác trong suốt mấy
trăm năm.
VI- Phật giáo từ thời đại ngài Trần Na đến ngài Giới Hiền
1)- Phật giáo thời đại ngài Trần Na (Dignàgà):
Ngài Trần Na là
người Nam Ấn, sinh vào cuối thế kỷ thứ V sau TL. Ngài là người có sở học
bản lĩnh với mọi giáo nghĩa Phật giáo. Nổi bật ở Ngài là việc tiếp thu
tinh hoa của lĩnh vực luận lý học từ triết học Ấn Ðộ, cải biến thành
những nguyên lý mới, xây dựng nền tảng cho luận lý học Phật giáo. Về tư
tưởng, Ngài kế thừa tư tưởng của các ngài Vô Trước và Thế Thân, thuộc
lập trường "Duyên khởi luận".
Ngài Trần Na đã viết nhiều bộ luận, đặc biệt là bộ Nhân minh chính lý môn luận bản,
mà sau này đệ tử của Ngài là Hộ Pháp đã viết chú thích đồng thời soạn
thêm một số bộ luận bổ sung làm cho Nhân minh học (= luận lý học hay
lô-gích học) trở thành một lĩnh vực quan trọng trong Phật học.
2)- Phật giáo thời đại ngài Thanh Biện (Bhavaviveka):
Ngài Thanh Biện là
người kế thừa và phát huy tư tưởng của ngài Long Thọ. Ngài là người Nam
Ấn, sống vào nửa sau thế kỷ VI sau TL. Thanh Biện không chỉ là người
tinh thông giáo nghĩa Phật giáo mà còn hiểu rõ giáo nghĩa của một số
ngoại đạo, đặc biệt là phái Số luận. Ngài đã viết nhiều bộ luận để làm
sáng tỏ thêm tư tưởng của ngài Long Thọ trong Trung Quán luận.
Ngài thường hoằng hóa tại nướác Dhanakataka, thuộc miền Nam Ấn Ðộ.
3)- Phật giáo ở thời đại ngài Hộ Pháp (Dharmapàla):
Ngài Hộ Pháp đã
từng học Duy thức học từ ngài Trần Na và là người cùng thời với ngài
Giới Hiền. Vì cầu học, Ngài đã đến Na Lan Ðà để nghiên cứu, và không bao
lâu sau, trở thành một đại học giả của Phật giáo đương thời. Ngài là
tác giả của nhiều bộ luận như Thành duy thức, Thành duy thức bảo sinh... nội dung nhằm chú giải các bộ luận của các ngài Thế Thân, Trần Na... Nổi bật là bộ Thành duy thức luận, sớ giải Tam thập tụng luận
của ngài Thế thân, trở thành một trong những tác phẩm trọng yếu của Duy
thức học. Tương truyền, năm hai mươi chín tuổi, Ngài rời Na Lan Ðà và
đến ẩn tu tại chùa Ðại Bồ Ðề, Ngài mất khi còn rất trẻ, chỉ mới ba mươi
hai tuổi. Tuy vậy, những dấu ấn của Ngài để lại, qua các bộ luận, đối
với lịch sử Phật giáo là rất quan trọng.
4)- Phật giáo ở thời đại ngài Trí Quang và Giới Hiền:
Những đóng góp của
ngài Trí Quang được đánh giá cao là ở sự phân loại toàn bộ giáo lý Phật
giáo theo ba lập trường, được sắp xếp từ thấp đến cao: (1) "Tâm cảnh hữu
giáo" (quan niệm rằng tâm và cảnh đều thực có) gồm giáo nghĩa nguyên
thủy và bộ phái; (2) lập trường "Tâm hữu cảnh không giáo" (tâm có nhưng
cảnh thì không thực có) gồm giáo nghĩa của ngài Vô Trước, Thế Thân chủ
trương; và (3) "Tâm cảnh câu không giáo" (tâm và cảnh đều không thực có)
gồm giáo nghĩa do ngài Long Thọ khởi xướng. Ðây là quan điểm phân loại
giáo lý (phán giáo) đầu tiên trong lịch sử.
Nhằm phản ứng lại
quan điểm trên của ngài Trí Quang và để tuyên dương giáo nghĩa Duy thức
học, ngài Giới Hiền đã nêu lên một thuyết phân loại mới. Ngài cho rằng,
giáo nghĩa cũng gồm ba cấp độ: (1) "Hữu giáo" gồm giáo nghĩa của nguyên
thủy và bộ phái; (2) "Không giáo" là giáo nghĩa của ngài Long Thọ, ở vị
trí trung gian; và (3) là "Trung đạo giáo" gồm giáo nghĩa do các ngài Vô
Trước và Thế Thân khởi xướng, ở vị trí cao nhất.
Ngài Giới Hiền học
môn Duy thức từ ngài Hộ Pháp và trở thành một bậc đại luận sư về lĩnh
vực này. Khi ngài Huyền Trang (Ðường Tam Tạng Pháp sư) sang du học tại
Na Lan Ðà thì ngài Giới Hiền đã hơn một trăm tuổi và là đương kim Viện
chủ của đại tòng lâm này. Do đó, sự bất đồng giữa Ngài và ngài Trí Quang
tạo nên một hiện tượng tranh biện lớn về tư tưởng "Hữu, Vô" trong giới
Phật học đương thời, diễn tiến của nó kéo dài một thời gian sau đó. Phật
giáo có lúc lại sa vào sự cực đoan, rối rắm và phức tạp trong lý luận.
VII- Sự hình thành và hưng thịnh của Mật giáo
Mật giáo là gọi tắt
của "Bí mật Phật giáo", gồm có hai hệ thống: Chân ngôn thừa
(Mantrayàna), chú trọng lý luận; và Kim cương thừa (Vajrayàna), chú
trọng thực tế. Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì tư tưởng Mật giáo có
từ thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, được biểu hiện qua những câu chú thủ
hộ trong các bộ luật và trong kinh Khổng Tước. Suốt thời gian rất dài,
Mật giáo không thấy xuất hiện. Sự hình thành như một hệ thống tư tưởng
và hưng thịnh của nó gắn liền với ngôi tự viện Vikramasila, thế kỷ thứ
VIII sau TL, dưới triều đại vua Dharmapala, ở miền Ðông Ấn Ðộ. Ngôi tự
viện này là trung tâm của Mật giáo.
Mật giáo thường chú
trọng mục đích cầu phước, trừ tai cho nhân thế hơn là hoàn thiện về trí
tuệ thông qua việc giữ giới và thực hành thiền định.
Lịch sử truyền bá
Mật giáo nổi bật với tên tuổi của các ngài Thiên Vô Úy (Subha Karasimha,
637-735), Kim Cương Trí (Vajra Bodhi, 671-741), Bất Không Kim Cương
(Amoghavajra, 705-774), Liên Hoa Sinh (Padmasambhava, cuối thế kỷ thứ
VIII), Atisa (tức Dipankarasrijanàna, cuối thế kỷ thứ XI)... Ðặc biệt là
ngài Liên Hoa Sinh đã truyền bá Mật giáo sang Tây Tạng để rồi tư tưởng
này đâm hoa kết trái sum suê ở đây cho đến ngày nay; và, ngài Atisa, sau
khi sang Tây Tạng, trở thành một đại dịch giả kinh điển của xứ sở này.
Ðiều đáng nói là, tuy Mật giáo được xuất phát từ Ấn Ðộ, nhưng lại không
phát triển mạnh tại đây, mà đến khi truyền bá ra bên ngoài thì lại phát
triển rực rỡ.
VIII- Thảm họa của đạo Phật trước sự tàn bạo của Hồi giáo
Năm 1203, Ấn Ðộ bị
quân đội Hồi giáo xâm lăng. Nhằm thiết lập một đế quốc Hồi giáo trên
lãnh thổ Ấn, quân đội Hồi giáo đã phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất, tinh
thần của Ấn Ðộ. Gánh chịu hậu quả nặng nề nhất là Phật giáo và Ấn Ðộ
giáo. Quân xâm lăng Hồi giáo đã đối xử với Phật giáo rất khắc nghiệt. Họ
đập phá chùa chiền, tu viện, bảo tháp, giết hại tu sĩ, đốt phá kinh
điển... với ý đồ nhằm thủ tiêu Phật giáo nói riêng và tôn giáo ở bản địa
nói chung. Ðây là trang sử đau thương nhất của Phật giáo, khiến cho
Phật giáo gần như vắng bóng ngay trên quê hương của Ðức Phật hơn nửa thế
kỷ.
Tuy nhiên, ý đồ
tiêu diệt Phật giáo của họ không thể thực hiện được, bởi trước đó rất
lâu, Phật giáo đã truyền bá ra những quốc gia xa xôi ngoài Ấn Ðộ, và rất
hưng thịnh tại các nơi này.
Mãi đến cuối thế kỷ
XIX, nghĩa là hơn sáu trăm năm sau thảm kịch trên, có một Phật tử người
Tích Lan (Sri Lanka), nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng Anagarika
Dharmapàla, đã sang Ấn Ðộ khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo. Từ
đó đến nay, Phật giáo được tái hồi sinh, các thánh tích đã và đang được
trùng tu, nhiều trung tâm Phật giáo được xây dựng làm nơi đào tạo Phật
học và sinh hoạt tín ngưỡng cho Phật tử tại Ấn Ðộ cũng như từ các nước
khác đến tu học, chiêm bái.
Kết luận
Sau khi Ðức Phật
diệt độ (*), Phật giáo có những ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội và ngày
càng được truyền bá rộng rãi trên các miền của lãnh thổ Ấn Ðộ cũng như
ra các nước bên ngoài, đặc biệt là ở thời đại vua A Dục (Asoka). Giáo lý
mà Ðức Phật giảng dạy, như "ngón tay chỉ mặt trăng", chỉ là một phương
tiện để đi đến sự chứng ngộ trong mỗi cá nhân, mà không phải là giáo
điều cứng nhắc, nên sự nhận thức bất đồng về lời Phật dạy (kinh, luật)
là đương nhiên.
Thời kỳ Phật giáo
Nguyên thủy, với Giáo hội Tăng già gồm đa phần các vị Thánh tăng; vả
lại, trong thời kỳ này, ranh giới truyền bá của Phật giáo cũng còn hẹp,
chỉ có các vùng thuộc vòng đai trung tâm từ Ðông sang Tây của Ấn Ðộ,
tương đối có sự liên hệ mật thiết nên chưa có những bất đồng gay gắt xảy
ra.
Sau Phật diệt độ
khoảng một trăm năm, ranh giới địa lý truyền bá của Phật giáo mở rộng,
do sự khác biệt về văn hóa cùng với những thay đổi của điều kiện xã hội
đã đưa đến những bất đồng gay gắt trong nhận thức lời Phật dạy và Phật
giáo bị phân hóa thành nhiều (20) bộ phái. Như trước đã đề cập, thời kỳ
này, tình hình Phật giáo trở nên phức tạp trong tổ chức cũng như trong
việc giải thích giáo lý; tuy nhiên, sự phân hóa không gì khác hơn là
nhằm thích ứng để tồn tại, ở phương diện tư tưởng, nó làm cho Phật giáo
phong phú thêm. Ðiểm nổi bật trong thời kỳ này là những đóng góp vĩ đại
của vua A Dục đối với Phật giáo, đặc biệt là trong sự nghiệp truyền bá
chánh pháp và khảo cổ - lịch sử. Nhờ có việc cử những đoàn sứ giả truyền
giáo đi đến các nước xa xôi, trong đó có thể có nước ta, mà Phật giáo
có điều kiện sớm trở thành một tôn giáo, tư tưởng lớn của nhân loại;
cũng nhờ vào những trụ đá do nhà vua xây dựng tại các thánh địa đã giúp
rất nhiều trong việc xác định niên đại của Ðức Phật lịch sử.
Từ khoảng thế kỷ
thứ I trước TL, tư tưởng Phật giáo Ðại thừa (Mahayana) hưng khởi và đến
thế kỷ thứ III sau TL, thời đại ngài Long Thọ, thì hưng thịnh, mở ra
thời kỳ Phật giáo Phát triển. Thời kỳ này xuất hiện nhiều bậc luận sư
xuất chúng, đặc biệt là sự hình thành của Trung tâm Phật học Na Lan Ðà ở
Bihar. Nhờ có Na Lan Ðà nên Phật học ở thời kỳ này phát triển hoàn bị,
hình thành các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
Sự phân kỳ lịch sử
Phật giáo thành ba thời kỳ chỉ là tương đối. Thí dụ trong thời kỳ Phật
giáo Phát triển, các bộ phái vẫn tồn tại song song với các hệ thống tư
tưởng Ðại thừa và chúng tất nhiên sẽ có ảnh hưởng qua lại với nhau...
Nhìn khái quát,
Phật giáo Ấn Ðộ sau thời Ðức Phật, luôn có những biến thiên, thăng trầm.
Ðiều này là biểu hiện rất sinh động và thực tế đối với Phật giáo - một
cơ thể sống gồm các đặc tính khế cơ, khế thời và khế lý, do đó vận động
để thích ứng là một sự thật tất yếu. Diễn biến qua ba thời kỳ của Phật
giáo Ấn Ðộ đã thể hiện điều đó. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là bản chất
giáo lý không hề thay đổi, có lúc phân hóa dường như phức tạp nhưng chỉ
là một tiến trình nhất quán và liên tục, không có sự gián đoạn hoặc đột
ngột, lệch lạc.
Qua bài học này, hy
vọng sẽ giúp các học viên có một cái nhìn tổng quát, sơ lược về lịch sử
Phật giáo trên quê hương Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong phần kế tiếp,
học viên sẽ được giới thiệu về lịch sử Phật giáo Trung Quốc và Việt Nam
với những cứ liệu gần gũi, mật thiết với chúng ta hơn./.
-oOo-
* Tài liệu tham khảo cho học viên
1- Lược sử Phật giáo Ấn Ðộ, HT TS Thích Thanh Kiểm, Thành hội PG TP HCM ấn hành, 1995.
2- Dị tông luận của ngài Thế Hữu, Trí Quang thượng nhân dịch, Nxb TP HCM, 1994.
3- Vô ngã là Niết bàn, HT Thích Thiện Siêu, Viện Nghiên cứu Phật học VN ấn hành, 1990 (tham khảo phần Nguyên ủy các tông phái Phật giáo, tr.110-148).
* Chú thích:
(1) Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
(2) Lối trùng tụng phổ biến trong truyền thống Ấn Ðộ thời cổ đại, chỉ đọc lên bằng trí nhớ chứ chưa có văn bản.
(3) Gọi tắt là "Dị
tông luận", tác giả là ngài Thế Hữu (Vasumtra), ngài Huyền Trang dịch
sang chữ Hán, Trí Quang thượng nhân dịch ra Việt ngữ, ấn hành 1994.
(4) Sđd.
(5) Dẫn theo HT Thích Thiện Siêu, Nguyên ủy các tông phái Phật giáo.
(6) Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
(7) "Bất khả thuyết
tạng": quan niệm có một "thực thể" (Pudgala - Bổ đặc già la) thường
hằng nối kết sinh mạng con người (quá khứ - hiện tại - vị lai), hiện hữu
từ con người phàm phu cho đến cả sau khi thành Phật, nó không thuộc hữu
vi pháp và vô vi pháp (phi nhị tụ).
(8) Vô lậu chủng
tử: tuy còn là phàm phu nhưng đã sẵn có chủng tử xuất thế - khả năng đạt
đến giải thoát, chứng ngộ tối hậu. Có thể nói, đây là tiền đề của tư
tưởng "Phật tính luận" rất phổ biến ở thời kỳ Phật giáo Phát triển hưng
thịnh.
(9) Một thực thể vô thủy vô chung, dung thông cả pháp hữu lậu và vô lậu.
(10) HT Trí Quang, Dị tông luận, 1994, tr.37.
(*) Theo cách tính Phật lịch hiện nay (2543) là năm 544 trước TL.
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày nét đặc trưng của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy.
2- Trình bày nguyên nhân của bốn Hội nghị kết tập kinh điển. Bạn có suy nghĩ gì về các nguyên nhân này?
3-
Tóm tắt các quan niệm về nguyên nhân phân hóa bộ phái Phật giáo? Có ý
kiến cho rằng phân hóa bộ phái là vượt ra ngoài đặc tính của Phật giáo,
như vậy có đúng không?
4- Bạn biết gì về nhân vật đã có một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo ra ngoài Ấn Ðộ?
5- Trình bày hai hệ thống tư tưởng nổi bật trong thời kỳ Phật giáo Phát triển (Mahayana)?
6- Ý nghĩa vai trò của đại tòng lâm Na Lan Ðà trong việc truyền bá Phật giáo?
7- Bạn có suy nghĩ gì về Phật giáo sau khi được giới thiệu lược sử Phật giáo tại quê hương của Ðức Phật? |