Phần II - Bài 4
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT
VỀ NHÂN MINH HỌC PHẬT GIÁO
(Logic học Phật giáo)
Minh Chi
DẪN NHẬP
Nhân minh học là
gì? Môn học này của Phật giáo ở phương Tây thường gọi là logic học hay
là Luận lý học. Viện sĩ Nga Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn
"Nyaya bindu" của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti (Pháp Xứng) cũng dịch đầu đề
cuốn sách là "A short treatise of logic" tức "Một bộ luận ngắn về
logic".
Trong bài giảng
nhập môn này, tôi dùng hai khái niệm "Nhân minh học" và "logic học" như
là đồng nghĩa, với dụng ý để cho các bạn quen thuộc với môn logic học
phương Tây không bỡ ngỡ khi tiếp xúc với môn Nhân minh học của Ấn Ðộ
giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, trong bài, tôi cũng sẽ nói về những điểm
khác biệt giữa môn Nhân minh học và môn logic học phương Tây, cũng như
giữa môn Nhân minh học của Ấn Ðộ giáo (học phái Nyaya, dịch sang Hán ngữ
là học phái Chánh lý), thường gọi là Cỗ Nhân minh (Nhân minh học cổ) và
môn Nhân minh học của Phật giáo, thường gọi là Tân Nhân minh (Nhân minh
học mới).
Nếu nghiên cứu
kết cấu của các bộ luận hiện có về Nhân minh, như cuốn "Nhân minh nhập
chánh lý luận" của Luận sư Ấn Ðộ Sankaravisman (Thương Yết La Chủ), hay
cuốn "Nyaya bindu" (Một giọt logic) của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti, chúng
ta sẽ thấy, kết cấu của một bộ luận về Nhân minh học Phật giáo bao gồm
hai phần: Phần Nhận thức luận và phần Tam đoạn luận. Nếu giới thiệu theo
từ ngữ phương Tây, thì phần Nhận thức luận là Épistémology và phần Tam
đoạn luận là Syllogism. Phần Nhận thức luận lại được chia làm hai, ứng
với hai nguồn gốc khác nhau của nhận thức: nhận thức trực tiếp gọi là
hiện lượng và nhận thức gián tiếp gọi là tỷ lượng. Hiện lượng là nhận
thức trực tiếp một sự vật hiện tiền, chủ yếu bằng cảm quan, còn tỷ lượng
là nhận thức gián tiếp một sự vật không hiện hữu, hay là bị che giấu
thông qua cái mà Nhân minh học gọi là dấu hiệu logic của nó (the logical
mark).
Theo ý kiến của
tác giả viết bài giới thiệu này thì trong Nhân minh luận Phật giáo, phần
chủ yếu là Nhận thức luận. Còn phần Tam đoạn luận (Syllogism) trên thực
tế, theo quan điểm của Luận sư Trần Na (Dignaga) thì chỉ là sự diễn đạt
bằng lời của nhận thức tỷ lượng mà thôi. Ngài Trần Na gọi Tam đoạn luận
là Nhận thức luận, hay đúng hơn là nhận thức tỷ lượng cho người khác
(inference for others). Vấn đề này tôi sẽ nói rõ trong phần giới thiệu
Nhận thức luận.
Mục đích của Nhận
thức luận trong Nhân minh học Phật giáo rất là thực tiễn, như có thể
thấy trong câu của Pháp Xứng mở đầu bộ luận "Nyaya bindu" của ông:
"Nhận thức đúng
đắn mở đầu cho mọi hành động thành công của con người. Vì vậy, bộ luận
này sẽ nghiên cứu nhận thức (đúng đắn) đó". (Câu Anh ngữ của
Th.Scherbatsky như sau: "All successful human action is preceded by
right knowledge. Therefore, this knowledge is here investigated").
Ðảm bảo sự thành
công trong mọi hành động của con người, đó là mục đích thực tiễn của
Nhận thức luận Phật giáo. Tất nhiên, Dharmakirti, khi nói "mọi hành động
thành công của con người" là muốn nói tất cả mọi hành động, kể cả những
hành động thế tục, chứ không phải nói riêng hành động tu hành nhằm đạt
tới sự giác ngộ và giải thoát cho bản thân (tự ngộ) và cho tất cả mọi
chúng sinh (tha ngộ).
Môn Nhân minh học
Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là
chìa khóa của mọi thành công ở đời. Môn Nhân minh học Phật giáo, ngoài
ra, còn dạy chúng ta diễn đạt tư duy đúng đắn đó bằng lời lẽ có sức
thuyết phục, để cho những người khác, nghe chúng ta nói, đọc bài chúng
ta viết sẽ tán thành quan điểm của chúng ta, và sống, thực hành theo
quan điểm đó. Và đó chính là chức năng của phần gọi là "Tam đoạn luận"
(Syllogism) trong Nhân minh học Phật giáo.
NHẬN THỨC LUẬN PHẬT GIÁO
Phật giáo thừa
nhận có hai loại nhận thức, một là nhận thức trực tiếp; hai là nhận thức
gián tiếp. Nhận thức trực tiếp cũng gọi là hiện lượng, nhận thức gián
tiếp cũng gọi là tỷ lượng. Cuốn "Nhân minh nhập chánh lý luận" của
Thương Yết La Chủ viết về mục đích của hiện tượng và tỷ lượng như sau:
"Hiện lượng dữ tỷ lượng cập tợ duy tự ngộ".
Dịch
nghĩa: Hiện lượng và tỷ lượng, cũng như tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng,
duy chỉ có một mục đích là tự mình giác ngộ. Tợ hiện lượng là hiện lượng
sai. Tợ tỷ lượng là tỷ lượng sai. Nhưng dù có sai, cũng là nhằm mục
đích tự ngộ. Ðó là sai về phương pháp, còn mục đích thì vẫn là tìm đến
sự thật cho bản thân. Bây giờ, đầu tiên, chúng ta hãy tìm hiểu xem hiện
lượng hay nhận thức trực tiếp là thế nào? Sau đó, sẽ tiếp tục tìm hiểu
về tỷ lượng tức là nhận thức gián tiếp.
1. Thế nào là hiện lượng?
Lượng là tìm hiểu, tìm biết. Hiện là sự vật hiện tiền, có trước mặt trong hiện tại.
Ngài Thương Yết
La Chủ trong cuốn "Nhân minh nhập chánh lý luận" định nghĩa hiện lượng
là không có phân biệt. Và giải thích không có phân biệt là đối với đối
tượng, xa lìa mọi phân biệt về danh ngôn và chủng loài v.v... (ư sắc
đẳng nghĩa, ly danh chủng đẳng sở hữu phân biệt).
Ðịnh nghĩa trên
rất quan trọng, nó đặc trưng cho Nhận thức luận của Phật giáo, khác biệt
về căn bản với Nhận thức luận của Ấn Ðộ giáo. Các Luận sư của Nhân minh
học Phật giáo như Trần Na đều phân biệt minh bạch hai nguồn gốc của
nhận thức: Một là cảm quan, tạo ra nhận thức cảm quan. Hai là tâm thức
hay tri thức tạo ra nhận thức của tri thức (understanding hay
intellect).
Nhận thức cảm
quan là nhận thức không có phân biệt, như Thương Yết La Chủ nói. Khi đã
có phân biệt, thì phải có sự can thiệp của tri thức. Trên thực tế, nhận
thức cảm quan không nên gọi là nhận thức (perception) mà chỉ là cảm giác
(sensation). Khi chúng ta thấy cái bàn trước mặt, như là cái bàn trước
mặt tôi đây, thì đó là có phân biệt, không phải là hiện lượng theo đúng
nghĩa của nó nữa. Chính tâm thức hay tri thức phân biệt rõ đối tượng
trước mặt thuộc loại cái bàn (không phải là tủ, là ghế v.v...), và tiến
thêm một bước còn phân biệt cả cái bàn này khác với cái bàn kia.
Nói tóm lại, cái
bàn cũng như mọi sự vật và hiện tượng khác trong thế giới hiện tượng mà
chúng ta tiếp xúc hàng ngày không phải là những cái gì hoàn toàn khách
quan như các nhà thực tại luận (realists) lầm tưởng, mà là sản phẩm được
tạo ra bởi sự kết hợp của các cảm giác cảm quan và hoạt động của tâm
thức hay tri thức. Người không nghiên cứu khi nói "thấy cái bàn" vội
tưởng rằng con mắt thấy cái bàn, nhưng trên thực tế, con mắt vì là một
cảm quan, nên chỉ có cảm giác đại khái về màu sắc, hình dáng, những cái
gì mà tâm lý học hiện đại gọi là dữ kiện cảm quan (sense-data), sau đó
tri thức, tức là tâm thức với những khả năng mà con mắt hay những cảm
quan khác không có được, như trí nhớ, so sánh, khái niệm hóa, tạo hình
ảnh v.v..., cuối cùng mới phân biệt đó là cái bàn, thậm chí còn tiến hơn
nữa, phân biệt cái bàn kiểu này với cái bàn kiểu khác.
Ðó là thuyết Nhận
thức luận độc đáo của Nhân minh học Phật giáo, phân biệt rõ hai nguồn
gốc khác nhau của nhận thức: Một là cảm quan như mắt, tai, mũi... khi
tiếp xúc với đối tượng, thí dụ cái bàn, thì trong giây phút đầu tiên sự
tiếp xúc đó chỉ cung cấp cho chúng ta một cảm giác thuần túy về một đối
tượng trước mặt; cảm giác đó, Luận sư Thương Yết La Chủ gọi là vô phân
biệt, các sách Anh ngữ dịch là indeterminate perception, có thể dịch
nghĩa là một nhận thức không xác định. Trên thực tế, gọi cảm giác ban sơ
đó là một nhận thức không xác định cũng không được đúng lắm, bởi lẽ, đã
là không có phân biệt, không được xác định thì không thể gọi đó là nhận
thức được. Vì vậy mà Luận sư Dharmakirti gọi đó là cảm giác thuần túy
(pure sensation). Ðó là một cảm giác thuần túy không xác định nhưng đó
lại là điểm xuất phát của mọi nhận thức sâu nông, đúng sai của chúng ta
đối với thế giới thực tại. Hơn nữa, cảm giác thuần túy lại chỉ tồn tại
trong giây lát (sách Phật gọi là sát na,ksana), vì trực tiếp, nối theo
sau là sự xuất hiện của một cảm giác khác, mà Luận sư Dharmakirti gọi là
cảm giác tâm thức (mental sensation, theo cách dịch của
Th.Scherbatsky). Cảm giác này tuy là cảm giác nhưng không còn thuộc về
cảm quan nữa, mà là thuộc về tâm thức hay tri thức hay hay ý thức (Ý
thức là một từ ngữ của môn Duy thức học Phật giáo chỉ cho thức thứ sáu
của con người với tất cả những thao tác quen thuộc như trí nhớ, khái
niệm, tạo hình ảnh, đặt tên...).
Nhận thức của
chúng ta đối với thế giới hiện tượng có được minh bạch và xác định hay
không chính là nhờ vào ý thức, hay thức thứ sáu này. Viện sĩ
Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn "Nyaya bindu" hay dùng các
từ intellect hay understanding, mà tôi tạm dịch là tri thức chính là nói
thức thứ sáu này. Ðiều mâu thuẫn là nhờ thao tác của ý thức mà nhận
thức của chúng ta đối với thế giới và hiện tượng được minh bạch và xác
định rõ ràng, nhưng lại cũng vì tính phức tạp của tri thức này trong
những thao tác nhiều mặt của nó, như trí nhớ, đặt tên, tạo hình ảnh,
tưởng tượng v.v... mà nhận thức của chúng ta hay phạm sai lầm. Mà cũng
vì lẽ đó mà môn Nhân minh học Phật giáo ra đời với Luận sư Trần Na với
các thế hệ đệ tử nỗi danh của ông như Thương Yết La Chủ (Sankaravisman),
Dharmakirti (Pháp Xứng), Dharmottara (Pháp Thượng) v.v... nhằm mục đích
dạy chúng ta nhận thức đúng đắn (tự ngộ), và diễn đạt nhận thức đó cho
những người khác một cách logic, có sức thuyết phục (ngộ tha). Nhiệm vụ
ngộ tha do phần Tam đoạn luận (cũng gọi là Tam chi tác pháp) trong Nhân
minh học Phật giáo phụ trách.
Bốn loại hiện lượng:
Nhân minh học Phật giáo phân biệt có bốn loại nhận thức trực tiếp, tức hiện lượng.
* Một là nhận
thức cảm quan là nhận thức trực tiếp bằng cảm quan như mắt, tai, mũi...
đối với một đối tượng hiện hữu, có trước mặt, không thông qua một khâu
trung gian nào.
* Hai là cảm giác
tâm thức là cảm giác không phải của cảm quan mà là của tâm thức. Với từ
cảm giác, rõ ràng Luận sư Dharmakirti xem tâm thức (ý thức) cũng là một
loại cảm quan, nhưng là cảm quan nội tại (inner organ). Với từ tâm
thức, Dharmakirti muốn phân biệt rõ đây không còn là cảm quan lộ ra bên
ngoài như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, vốn được gọi chung là cảm quan bên
ngoài (the outer organs), mà là thức hay tâm thức. Nhãn thức khác với
nhãn căn, tức là tâm thức của mắt khác với con mắt, cũng như tâm thức
của tai khác với cái tai v.v... Căn và thức khác nhau nhưng phối hợp với
nhau. Kinh sách của Phật giáo Nguyên thủy thường chỉ nói một cách đơn
giản, thí dụ trong trường hợp của nhãn thức (tâm thức của mắt) tức là
nhãn thức hình thành do sự tiếp xúc của con mắt (nhãn căn) với đối tượng
tức sắc pháp.
Ðối với Nhận thức
luận của Nhân minh học, thì đây là một quá trình: Một là: Cảm giác
thuần túy của cảm quan (pure sensation). Hai là: Cảm giác tâm thức, tuy
cũng là hiện lượng, nhưng không phải là của cảm quan nữa mà là của tâm
thức, kèm theo sau là một loạt thao tác của tâm thức như trí nhớ, tạo
hình ảnh, đặt tên v.v... Cần chú ý là các sự kiện như cảm quan hay cảm
giác thuần túy, rồi cảm giác tâm thức với các thao tác tiếp theo diễn ra
một cách tự phát, nhưng tuần tự, theo nguyên lý nhân duyên sinh.
* Loại hiện lượng
thứ ba gọi là hiện lượng tự ý thức. Theo Nhân minh học, mọi trạng thái
hay hoạt động tâm thức cũng đều là hiện lượng và là tự ý thức. Thí dụ,
khi chúng ta có cảm giác vui, thì chúng ta tự biết, một cách trực tiếp
là chúng ta đang vui. Còn nếu chúng ta vui mà không biết thì tức là
chúng ta thiếu tỉnh giác mà thôi. Vấn đề tỉnh giác đối với đạo Phật sở
dĩ quan trọng là vì như vậy. Khi chúng ta thấy cái bàn, thì chúng ta
tỉnh giác, tự biết mình đang thấy cái bàn. Ðó cũng là hiện lượng.
* Loại hiện lượng
thứ tư gọi là trực giác thiền định của bậc Thánh đối với thực tại siêu
việt. Trong thiền định, tâm thức của bậc Thánh nắm bắt đối tượng không
thông qua cảm quan, mà trực tiếp bằng tâm thức. Ðây cũng là trực cảm,
nhưng là trực cảm bằng tâm thức. Th.Scherbatsky dịch là intelligible
intuition. Bậc Thánh của đạo Phật không cần phối hợp tâm thức với cảm
quan để nắm bắt ngoại cảnh. Bậc Thánh trực cảm nắm bắt ngoại cảnh bằng
tâm thức của Ngài đã được giác ngộ và giải thoát, không cần dựa vào
những cảm quan rất hạn chế của con người. Vì vậy, chúng ta không lấy làm
lạ khi trong "Bát Nhã Tâm kinh", viết là Bồ tát Quán Tự Tại thực hành
trí tuệ Bát Nhã siêu việt, quán chiếu năm uẩn đều là không và thoát khỏi
mọi khổ ách... Bồ tát không phải thấy bằng mắt mà quán chiếu với trí
tuệ Bát Nhã siêu việt. Các bậc Bồ tát trình độ như Bồ tát Quán Tự tại,
tuy gọi là năm căn viên thông, nhưng thật ra đâu có nhờ vào các căn mà
quan sát thế giới, tuy là khi các Ngài xuất hiện dưới dạng người như
chúng ta, thì các Ngài cũng thị hiện "năm căn viên thông" như thấy bằng
tai, nghe bằng mắt, nói bằng mùi hương v.v... Mà cũng không chờ đạt tới
trình độ Bồ tát tầm cỡ như Ngài, các chúng sanh ở cõi trời Quang Âm (một
cõi trời thuộc Sắc giới) cũng nói được không phải bằng âm thanh mà bằng
ánh sáng phát ra từ miệng (vì vậy mà gọi là Quang Âm), hay là chúng
sanh ở cõi trời Hương Tích (nơi vốn là trụ xứ của ngài Duy Ma Cật), nói
chuyện với nhau bằng mùi hương...
Sai lầm của nhận thức hiện lượng:
Cuốn "Nhân minh
nhập chánh lý luận" của Thương Yết La Chủ gọi hiện lượng sai lầm là tợ
hiện lượng, nghĩa là hiện lượng tương tợ, không phải là hiện lượng đích
thực. Hiện lượng sai lầm xảy ra, theo Dharmakirti, khi con mắt bị bệnh,
đối tượng chuyển động nhanh, khi đi trên tàu, khi có bệnh hay do một số
nguyên nhân khác.
Nói chung lại,
hiện lượng sai lầm xảy ra khi các cảm quan vì một nguyên nhân nào đó,
như bệnh tật v.v... mà không còn ở trong trạng thái bình thường nữa. Vấn
đề hiện lượng có thể phạm sai lầm không những được Dharmakirti, Luận sư
Nhân minh nỗi tiếng công nhận, mà cả học phái Nyaya của Ấn Ðộ giáo cũng
khẳng định.
Ðến đây, tạm thời
kết thúc phần hiện lượng (nhận thức trực tiếp) của giáo tài, chúng ta
chuyển sang nghiên cứu phần tỷ lượng (nhận thức gián tiếp).
2. Nhận thức tỷ lượng (inference hay inferential knowledge)
Ðịnh nghĩa:
Luận sư Dharmakirti trong cuốn "Nyaya bindu" đã định nghĩa về nhận thức tỷ lượng như sau:
"Một nhận thức
được tạo ra gián tiếp, thông qua một dấu hiệu có ba đặc điểm, và nhằm
tới một đối tượng không phải được nhận thức trực tiếp mà được suy diễn
mà biết, thì gọi là tỷ lượng nội tại". "A cognition which is produced
indirectly through a mark that has threefold aspect and which refers to
an object, not perceived but inferred is internal reference". ("Nyaya
bindu", p.48).
Ðịnh nghĩa trên có một số từ ngữ cần giải thích:
a) Dấu hiệu có ba đặc điểm:
Chính vì nhận
thức tỷ lượng không trực tiếp nắm bắt đối tượng như nhận thức trực tiếp
của cảm quan, cho nên mới gọi là nhận thức gián tiếp. Và nhận thức gián
tiếp đó được thực hiện ngang qua một dấu hiệu, mà logic học gọi là dấu
hiệu logic (logical mark). Ví dụ sau đây minh họa rõ vấn đề:
Trên núi ở đàng xa có lửa.
Vì là có khói bốc lên.
Chúng
ta đứng đàng xa nhìn không thấy lửa, chỉ thấy có khói. Khói là dấu hiệu
logic, thông qua đó, chúng ta biết là có lửa. Sao gọi là dấu hiệu
logic? Bởi vì kinh nghiệm cho thấy rằng nơi nào có lửa là có khói, hễ
thấy lửa là có khói, hoặc là thấy có khói biết rằng có lửa. Vì vậy, mà
định nghĩa nói là đối tượng (lửa) không được nhận thức trực tiếp mà do
suy diễn mà biết. Suy diễn như thế nào? Suy diễn từ hiện tượng có khói.
Bây giờ đến từ ngữ dấu hiệu có ba đặc điểm là thế nào?
Logic học Phật
giáo có một từ chuyên môn để chỉ cho dấu hiệu logic tức là Nhân, từ
Sanskrit là Hetu, Th.Scherbatsky dịch ra tiếng Anh là the Reason. Dịch
là Nhân vì rằng, như trong ví dụ khói và lửa, thì khói là cái nhân giúp
chúng ta biết là có lửa trên đồi, mặc dù mắt chúng ta không trực tiếp
thấy có lửa.
Vì sao nói cái nhân đó có ba đặc điểm và đó là ba đặc điểm gì?
Ý tứ là khi lập
cái nhân có khói, nhằm chứng minh trên đồi xa có lửa, thì cái nhân đó
phải có đủ ba đặc điểm mới là cái nhân đúng đắn, đủ sức thuyết phục.
Sách Hán gọi ba đặc điểm là ba tướng. (Xem cuốn "Nhân minh nhập chánh lý
luận").
Ðặc điểm thứ nhất
là cái nhân đó phải có mặt ở nơi đối tượng được nhận thức tỷ lượng. Như
trong trường hợp lửa và khói, thì cái nhân khói phải có mặt ở lửa là
đối tượng được nhận thức bằng tỷ lượng. Vì sao? Vì khói chính là dấu
hiệu logic của lửa.
Ðặc điểm thứ hai
của cái nhân đó là nó phải hiện hữu ở khắp mọi trường hợp đồng phẩm.
Ðồng phẩm có nghĩa là đồng loại. Thí dụ, tất cả mọi trường hợp có lửa,
nghĩa là đồng loại đều có cái nhân khói. Bếp lò chẳng hạn có lửa, nhất
định là có khói. Th.Scherbatsky dịch trường hợp đồng phẩm là "similar
cases".
Ðặc điểm thứ ba
là cái nhân đó tuyệt đối phải vắng mặt trong mọi trường hợp dị phẩm. Dị
phẩm là khác loại. Nếu trường hợp đồng phẩm là trường hợp có lửa như cái
bếp lò, thì trong mọi trường hợp dị phẩm là trường hợp không có lửa,
thí dụ như mặt nước hồ, tuyệt đối không có khói. Th.Scherbatsky dịch ra
tiếng Anh là "dissimilar cases". Dharmakirti còn giải thích rõ thêm đó
là những trường hợp khác biệt (với trường hợp đồng phẩm), "hoặc đối lập,
hoặc là không tồn tại của vật đồng phẩm".
Thí dụ, vật đồng
phẩm là lửa thì vật dị phẩm có thể là khác biệt với lửa, như đất, đối
lập với lửa như nước, hay là một cách đơn giản không có lửa tồn tại.
Ở trên đây, tôi
đã giải thích thế nào là ba đặc điểm hay là ba tướng của nhân. Khi đưa
ra một mệnh đề hay một thuyết (sách Phật gọi là lập tôn), và để chứng
minh tôn mà chúng ta thành lập là đúng đắn không sai, thì chúng ta phải
lập một cái nhân đúng đắn làm minh chứng. Và cái nhân đó, nếu là đúng
đắn thì phải thỏa mãn ba điều kiện hay là ba đặc điểm như trên đã trình
bày.
Ba đặc điểm ấy,
sách Hán gọi là ba tướng. Và nếu diễn đạt theo chữ Hán như trong cuốn
"Nhân minh nhập chánh lý luận" của Thương Yết La Chủ thì sẽ là:
- Biến thị tôn pháp tánh
- Ðồng phẩm định hữu tánh
- Dị phẩm biến vô tánh
Lối diễn đạt bằng
chữ Hán như trong bộ luận khiến chúng ta gặp một số khái niệm và từ ngữ
mới. Như trong đặc điểm I: Biến thị tôn pháp tánh. Chúng ta gặp từ tôn,
có nghĩa là thuyết, hay mệnh đề. Như lập tôn: Âm thanh là vô thường.
Một tôn như vậy là một mệnh đề thường gồm hai phần: Phần đứng trước âm
thanh gọi là tiền trần hay là hữu pháp. Phần đứng sau gọi là hậu trần
hay là pháp. Người nào quen thuộc với từ ngữ tiếng Anh đều biết phần
đứng trước là chủ ngữ (subject) và phần đứng sau là vị ngữ (predicate).
Bây giờ, trở lại cái tôn được lập: Âm thanh là vô thường. Người lập tôn
nói: âm thanh là vô thường (tôn), vì âm thanh là cái bị làm ra (nhân).
Yêu cầu hay đặc điểm của cái nhân bị làm ra là phải hiện hữu, tức có mặt
trong cả hai thành phần của tôn, hữu pháp (tiền trần hay chủ ngữ) và ở
pháp (hậu trần hay vị ngữ). Ðúng như vậy, mọi âm thanh đều do người làm
ra hay là do các nguyên nhân khác hợp thành mà có. Và, mọi cái vô thường
cũng đều do người làm ra hay là do các nguyên nhân khác kết hợp tạo ra.
Chúng ta trở lại ví dụ lửa và khói, có thể dễ hiểu hơn:
Tôn: Trên đồi có lửa
Nhân: Vì có khói.
Cái nhân khói phải có mặt trên đồi (tiền trần hay là hữu pháp), đồng thời và chủ yếu là có mặt ở nơi cụ thể có lửa.
Hai đặc điểm:
Ðồng phẩm định hữu tánh và Dị phẩm biến vô tánh thì có thể hiểu dễ dàng.
Cái gì đồng phẩm - tức là lửa thì nhất định có khói. Và tất cả những gì
không phải lửa thì nhất định không có khói.
Như vậy là đã giải thích rõ ba đặc điểm hay là ba tướng của nhân.
Bất cứ một cái
nhân nào thành lập mà thiếu một trong ba tướng hay là ba đặc điểm nói
trên đều là những cái nhân sai lầm, thiếu sức thuyết phục.
Tất cả mọi nhận
thức tỷ lượng, đều thông qua cái nhân đúng đắn mà được thành tựu. Nếu
nhân lập ra mà có sai sót, không có đầy đủ ba tướng hay ba đặc điểm nói
trên thì việc lập thuyết (tức tôn) sẽ không thành. Do đó mà trong nhận
thức tỷ lượng, nhân đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
b) Ba định nghĩa về tỷ lượng:
Có thể tỗng kết có ba định nghĩa tỷ lượng:
- Tỷ lượng là nhận thức một đối tượng thông qua dấu hiệu của nó. Dấu hiệu đó, Nhân minh học gọi là nhân (the reason).
- Tỷ lượng là
nhận thức một đối tượng bị che giấu, cảm quan không thể nắm bắt trực
tiếp được. Chính vì đối tượng bị che giấu nên phải thông qua dấu hiệu,
từ đó suy diễn ra đối tượng. Chính vì suy diễn mà biết được một cách
gián tiếp cho nên gọi là tỷ lượng. Lượng là biết. Suy diễn, so đo mà
biết được nên gọi là tỷ lượng.
- Tỷ lượng là
nhận thức một sự vật che giấu, cảm quan không nắm bắt trực tiếp được,
dựa vào mối liên hệ tất yếu giữa đối tượng đó với dấu hiệu của nó. Người
quan sát đã từng nhiều lần quan sát thấy có mối liên hệ tất yếu giữa
đối tượng và dấu hiệu của nó, cho nên có thể kết luận chắc chắn, nơi nào
có dấu hiệu đó, thì nơi ấy phải có đối tượng. Thí dụ, vì đã từng quan
sát thấy nhiều lần nơi nào có lửa thì ở đấy có khói cho nên chỉ cần thấy
khói là biết có lửa.
Ba định nghĩa trên tất nhiên là có liên quan với nhau.
Ðịnh nghĩa thứ
nhất cho biết nguồn gốc của tỷ lượng thông qua một dấu hiệu. Ðịnh nghĩa
thứ hai cho biết đối tượng được nắm bắt là một vật bị che giấu, cảm quan
không nắm bắt được, và định nghĩa cuối cho thấy mối liên hệ tất yếu, có
quy luật giữa đối tượng và dấu hiệu.
c) Phân loại tỷ lượng:
Như chúng ta biết, hiện lượng tức nhận thức trực tiếp, có bốn loại là:
(1) Nhận thức cảm quan, hay cảm giác thuần túy
(2) Cảm giác tâm thức
(3) Hiện lượng tự ý thức
(4) Trực cảm thiền định của bậc Thánh trong đạo Phật.
Còn tỷ lượng thì có ba loại: tỷ lượng phủ định, tỷ lượng đồng nhất và tỷ lượng nhân quả.
Thế nào là tỷ lượng phủ định?
Ví dụ sau đây sẽ cho thấy rõ:
Lập tôn: Ở đây không có cái bàn.
Nhân: Vì rằng không thấy có cái bàn nào cả, mặc dù các điều kiện thấy có đầy đủ.
Loại tỷ lượng như được trình bày trong ví dụ trên gọi là tỷ lượng phủ định.
Còn thế nào là tỷ lượng đồng nhất?
Ví dụ sau đây cho thấy thế nào là tỷ lượng đồng nhất.
Lập tôn: Trên núi đàng kia có cây.
Nhân: Vì thấy ở đấy có cây lan.
Cây lan là một
loại cây. Chỉ cần biết trên núi có cây lan là có thể phán xét trên núi
có cây. Vì cây và cây lan là đồng nhất. Loại tỷ lượng như vậy gọi là tỷ
lượng đồng nhất.
Cuối cùng, thế nào là loại tỷ lượng nhân quả?
Ví dụ:
Lập tôn: Trên đồi đàng xa có lửa.
Nhân: Vì thấy có khói bốc lên.
Lửa và nhân, khói
là quả. Lửa và khói có liên hệ nhân quả tất yếu với nhau. Thấy có khói
(quả), thì phán xét biết ở đó có lửa (nhân). Mọi nhận thức tỷ lượng dựa
trên nguyên lý nhân quả đều gọi là tỷ lượng nhân quả.
Như chúng ta
thấy, sự phân loại trên đây dựa vào tính chất của cái nhân được sử dụng.
Với cái nhân phủ định, chúng ta có loại tỷ lượng phủ định. Với cái nhân
đồng nhất, chúng ta có loại tỷ lượng đồng nhất. Với cái nhân là nguyên
lý nhân quả, chúng ta có loại tỷ lượng nhân quả.
d) Phân loại tỷ lượng dựa theo mục đích:
Luận sư Trần Na
phân biệt có hai loại tỷ lượng tùy theo mục đích. Một là tỷ lượng cho
bản thân, hay tỷ lượng nội tại, mà Th.Scherbatsky dịch ra Anh ngữ là
internal inference, còn nếu dịch ra chữ Hán là tự tỷ lượng. Loại tỷ
lượng này có mục đích tự mình tìm hiểu vấn đề, tự mình suy tư để tìm ra
chân lý cho bản thân mình, mục đích là tự ngộ.
Loại tỷ lượng thứ
hai gọi là tỷ lượng cho người khác, sách Anh ngữ gọi là inference for
others. Sách Hán dịch là tha tỷ lượng. Người lập thuyết, muốn thuyết
phục đối phương thực hành một thao tác tỷ lượng, minh chứng rõ ràng
thuyết của mình lập là đúng. Quá trình thao tác tỷ lượng mà người lập
thuyết chỉ bày cho đối phương gọi là tha tỷ lượng hay là tỷ lượng cho
người khác. Ðúng như Luận sư Trần Na khẳng định, Tam đoạn luận Phật giáo
không phải gì khác mà là một hình thức của tha tỷ lượng.
Trình bày xong
những nét lớn khái quát của hiện lượng và tỷ lượng cũng là trình bày
xong phần I của Nhân minh học Phật giáo là Nhận thức luận. Tôi xin nói
lại, đây là những nét cơ bản và khái quát của Nhận thức luận Phật giáo.
Còn nếu đi vào chi tiết, ngọn ngành của Nhận thức luận Phật giáo, thì
phải có nhiều bài bỗ sung khác, thậm chí cả một bộ sách chuyên khảo.
Bây giờ, chúng ta
chuyển sang phần hai của Nhân minh học Phật giáo: phần Tam đoạn luận mà
từ ngữ tương đương trong Nhân minh là tam chi tác pháp. Tuy nhiên, vì
từ ngữ Tam đoạn luận phổ thông hơn, ở phương Tây cũng như phương Ðông,
cho nên tôi vẫn dùng ở đây từ "Tam đoạn luận" (syllogism).
3. Tam đoạn luận (syllogism)
Trong toàn bộ môn logic học Phật giáo thì Nhận thức luận là phần chính yếu, còn Tam đoạn luận chỉ là phần phụ thuộc. Vì sao?
Vì rằng, như
Th.Scherbatsky khẳng định rõ trong cuốn "Logic học Phật giáo" (Buddhist
logic), mục đích của logic học Phật giáo là nghiên cứu các nguồn gốc của
nhận thức chúng ta... mà Tam đoạn luận không phải là một nguồn gốc của
nhận thức (Syllogism is not a source of knowledge, p.275). Tam đoạn
luận, như viện sĩ Th.Scherbatsky nói, gồm những mệnh đề được dùng để
truyền đạt cho người khác một nhận thức đã có sẵn. Chính vì vậy mà Trần
Na gọi Tam đoạn luận là "nhận thức tỷ lượng cho người khác" (inference
for others), (sđd, tr.275).
Dưới con mắt của
Luận sư Trần Na, người sáng lập Nhân minh học Phật giáo, Tam đoạn luận
trên thực tế chỉ là "cái đuôi" của Nhận thức luận mà thôi, tuy rằng cái
đuôi ấy cũng quan trọng. Bởi lẽ, vấn đề không phải là tự mình nhận thức
đúng đắn, mà còn phải diễn đạt nhận thức đúng đắn đó làm cho người khác
cũng nhận thức đúng đắn như mình. Ðạo Phật trong quá trình truyền bá
khắp nơi trên thế giới từ Á sang Âu-Mỹ, từ Ðông sang Tây, tuyệt đối
không bao giờ dùng bạo lực, mà chỉ thuyết phục và thuyết phục. Mà vũ khí
chính để thuyết phục là logic học hay Nhân minh học.
Trong cuốn "Triết học Ấn Ðộ" (Indian philosophy) tập II, tiến sĩ Radhakrishnan, ngay trong bài dẫn nhập ở trang 17, đã nói rõ:
"Ðối với các tư tưởng gia Phật giáo lớn, logic học là kho vũ khí chủ yếu, tạo ra những vũ khí phê phán hủy diệt phỗ biến".
Phê phán gì và hủy diệt gì? Tác giả viết tiếp:
"Phật giáo phục vụ như một liều thuốc tẩy quét sạch tâm thức khỏi hậu quả xơ cứng của những trở ngại cỗ xưa...".
(Nguyên bản: "For
the great Buddhist thinkers, logic was the main arsenal, where were
forged the weapons of universal destructive criticism... Buddhism served
as a cathartic in clearing the mind of the cramping effects of ancient
obsttructions..." - sđd, p.17).
Với môn Nhân minh
học Phật giáo được hoàn chỉnh bởi Luận sư Trần Na vào thế kỷ VI Tây
lịch, sự nghiệp giác tha của đạo Phật được đẩy lên một bước mới. Công
trình logic học đồ sộ của ông, "Pramana samuccaya" (Hán dịch: Tập lượng
luận) là một tập hợp nhiều công trình logic học của ông viết rải rác
trong một thời gian dài, được ông soạn thống nhất trong một bộ sách duy
nhất, có bản sớ giải của Jinendrabuddhi. Ðáng tiếc là trong bản Hán dịch
của Nghĩa Tịnh đã bị thất lạc. Sự nghiệp truyền bá đạo Phật của Trần
Na, thông qua các công trình logic học của ông và học trò ông đã được
nỗi tiếng một thời với danh xưng "chinh phục thế giới" (The conquest of
the world, Th.Scherbatsky, Buddhist logic, trang 34). Cũng như bậc
Chuyển Luân Vương chinh phục toàn cõi Ấn Ðộ, và đặt Ấn Ðộ dưới quyền
thống trị của mình, Luận sư Trần Na cũng chinh phục thế giới tức là toàn
cõi Ấn Ðộ, và đặt Ấn Ðộ dưới sự thống trị của Phật giáo.
a) Ðiểm khác biệt chủ yếu giữa Tam đoạn luận của Nhân minh học Phật giáo và Tam đoạn luận của phương Tây:
Tam đoạn luận
(syllogism) của phương Tây chủ yếu là của Aristotle. Tuy phương Ðông hay
phương Tây (Aristotle) đều dùng từ syllogism, tức Tam đoạn luận, nhưng
giữa hai bên có một sự khác biệt căn bản, cần lưu ý ngay từ đầu.
Tam đoạn luận của
Aristotle là ba phần hay ba mục của một quá trình tư duy, để tìm ra sự
thật cho chính bản thân mình. Nếu nói theo từ ngữ Phật giáo, thì Tam
đoạn luận của Aristotle nhằm mục đích tự ngộ. Hãy dùng một ví dụ quen
thuộc của logic học phương Tây:
Ðại tiền đề: Tất cả mọi người đều phải chết (mục I)
Tiểu tiền đề: Socrates là người (mục II)
Kết luận: Cho nên Socrates cũng chết (mục III)
Mục I của Tam
đoạn luận gọi là Ðại tiền đề (tiếng Anh là Major premise). Mọi người đều
phải chết là một chân lý mọi người đều đồng thuận.
Mục II là Tiểu tiền đề cũng là một chân lý nữa mà mọi người đều đồng thuận.
Xuất phát từ hai tiền đề lớn và nhỏ nói trên, chúng ta đi đến kết luận là Socrates, vì cũng là người cho nên cũng phải chết.
Nói chung lại,
Tam đoạn luận là quá trình tư duy đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.
Một quá trình tư duy logic, nhằm giải quyết một vấn đề mà bản thân mình
còn phân vân. Socrates, bậc vĩ nhân Hy Lạp cỗ đại, thầy dạy của Platon
và bao nhiêu danh nhân khác, phải chăng là thần thánh, là bất tử?
Nhưng đâu có
phải, Socrates cũng chỉ là con người, tuy là con người vĩ đại, và như
tất cả mọi người, ông cũng phải chết, không thể là bất tử.
Tam đoạn luận của
Phật giáo không phải xuất phát từ một vấn đề mà mọi người đồng thuận,
trái lại xuất phát từ một vấn đề đang tranh luận, ít nhất là giữa người
lập thuyết và đối phương. Hãy trở lại ví dụ đã dẫn chứng.
Người lập thuyết nói: Trên đồi đàng xa có lửa.
Ðứng đàng xa,
không ai thấy có lửa cả. Nhiều người đặt nghi vấn và phân vân, không rõ
là có lửa hay không có lửa, cho nên cãi nhau. Người lập thuyết bèn nói:
Trên đồi, đúng là không thấy có lửa, nhưng chúng ta thấy có khói. Mà nơi
nào có khói là có lửa, cho nên biết là có lửa. Anh ta nói:
Nơi nào có khói là có lửa. Trên đồi có khói, cho nên ở đấy có lửa.
Như chúng ta
thấy, điểm xuất phát của Tam đoạn luận Phật giáo là một điểm tranh luận,
trong khi điểm xuất phát của Tam đoạn luận của logic học của Aristotle
là một điểm đồng thuận.
Ngoài ra, còn có
một số điểm khác biệt nữa, như trong từ ngữ sử dụng. Trong khi ba mục
chủ yếu của tam đoạn luận Phật giáo là tôn, nhân, dụ, thì ba mục của Tam
đoạn luận của Aristotle là Ðại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận.
b) Về các lỗi logic trong Tam đoạn luận Phật giáo:
Vì Tam đoạn luận
của Nhân minh học Phật giáo được sáng lập để phục vụ những cuộc tranh
luận khoa học công khai giữa Phật giáo và Ấn Ðộ giáo, lúc bấy giờ, đang
có chiều hướng phục hưng và bắt đầu công kích Phật giáo kịch liệt, cho
nên, trong tranh luận, bên nào cũng phấn đấu giành thắng lợi bằng cách
lập thuyết hoàn hảo, không phạm lỗi.
Hơn nữa, các cuộc
tranh luận công khai như vậy đều có người chủ tọa và đông đảo học giả,
người nghiên cứu thuộc cả hai phái, phái người lập thuyết cũng như phái
người phản bác, và tất nhiên là có đông đảo quần chúng cũng tham gia. Ðể
cho công việc điều khiển đi vào nề nếp, không thiên vị, người ta soạn
ra những cuốn sách hướng dẫn tranh luận, thí dụ như cuốn sách mang tựa
đề "Sách về lỗi của người lập thuyết" ("Vigraha sthana sastra", mà
Th.Scherbatsky dịch ra Anh ngữ là "Manual of the Respondent's
failures"). Cuốn sách cho thấy người lập thuyết có thể phạm tới 22 lỗi.
Nếu xác nhận là người lập thuyết phạm một hay vài lỗi trong số 22 lỗi,
thì không chờ đợi bị phản bác, người lập thuyết xem như bị thua cuộc và
cuộc tranh luận kết thúc ngay lập tức. Sau đây là nội dung 22 lỗi, qua
sự giới thiệu của Th.Scherbatsky:
(1) Tự mình, một cách vô ý thức phản bác thuyết của mình, do đưa ra những ví dụ sai lầm.
(2) Trong quá trình tranh luận, tự động chuyển sang một thuyết khác không phải thuyết mình chủ trương lúc ban đầu.
(3) Bản thân thuyết của mình đầy dẫy mâu thuẫn nội tại.
(4) Trong quá trình thảo luận, tự động từ bỏ thuyết của mình.
(5) và (6) Thay thế cái nhân lúc ban đầu dùng để minh chứng thuyết của mình, bằng một cái nhân khác.
(7-10) Ðưa ra những lý lẽ vô nghĩa, lộn xộn, không ai hiểu.
(11-12) Lối diễn đạt dài dòng, tối nghĩa.
(13) Nói trùng lắp nhiều làm mất thời giờ.
(14) Ðột nhiên im lặng, không nói nữa.
(15) Thú thật mình dốt.
(16) Không hiểu nổi lời chất vấn của người phản bác và người chủ trì.
(17) Xin tạm thời hoãn cuộc tranh luận, lấy cớ bận việc, nhưng thật ra là biết mình sắp thua cuộc.
(18) Gián tiếp thừa nhận mình có lỗi.
(19-20) Không trả lời người phản bác khi cần thiết lại trả lời khi không phải lúc.
(21) Không lập luận theo đúng những nguyên tắc mình nêu ra lúc ban đầu.
(22) Ðưa ra những lập luận logic sai lầm, không thể chấp nhận.
Vì cuốn sách này
xuất hiện kèm theo cuốn "Những cách ngôn của học phái Nyaya", cho nên
Th.Scherbatsky phỏng đoán tác giả phải là một người thuộc học phái
Nyaya. Xin nhắc lại, học phái Nyaya là học phái logic của Ấn Ðộ giáo,
sách Hán dịch là học phái Chánh lý.
Do thời lượng
dành cho bài "Nhân minh học Phật giáo nhập môn" bị hạn chế, cho nên
không thể trình bày chi tiết tất cả mọi lỗi có thể phạm, vốn được gọi là
lỗi lầm logic (logical fallacies). Nhân minh học Phật giáo phân biệt có
tất cả 33 lỗi lầm logic, chia thành:
a) 9 lỗi của tôn
(lập tôn cũng như nói lập thuyết vậy, và tôn thường được diễn đạt thành
mệnh đề gồm có chủ ngữ logic và vị ngữ logic).
b) 14 lỗi của nhân. Nhân là đạo lý được viện ra để chứng minh tôn hay là thuyết được lập ra là đúng đắn, không sai lầm.
c) 10 lỗi của dụ hay ví dụ được dùng để minh họa, khiến cho tôn và nhân thêm sức thuyết phục.
Sau đây là bản tóm tắt liệt kê các lỗi logic và tên gọi chuyên môn của mỗi lỗi:
Các lỗi logic:
Các lỗi logic theo Nhân minh học Phật giáo có thể thấy rõ ở biểu sau đây:
Tôn: 9 lỗi
4 lỗi bất cực thành: - Năng biệt bất cực thành
- Sở biệt bất cực thành
- Câu bất cực thành
- Tương phù bất cực thành.
5 lỗi tương vi: - Hiện lượng tương vi
- Tỷ lượng tương vi
- Tự giáo tương vi
- Thế gian tương vi
- Tự ngữ tương vi.
Nhân: 14 lỗi: chia ra 4 lỗi bất thành: - Sở y bất thành
- Do dự bất thành
- Tùy nhất bất thành
- Lưỡng câu bất thành.
6 lỗi bất định: - Cộng bất định
- Bất cộng bất định
- Ðồng phần dị toàn bất định
- Dị phần đồng toàn bất định
- Câu phần bất định
- Tương vi quyết định
4 lỗi tương vi: - Pháp tự tướng tương vi
- Pháp sai biệt tương vi
- Hữu pháp tự tướng tương vi
- Hữu pháp sai biệt tương vi
Dụ: 10 lỗi: 5 lỗi đồng dụ: - Năng lập bất thành
- Sở lập bất thành
- Câu bất thành
- Vô hợp
- Ðảo hợp
5 lỗi dị dụ: - Năng lập bất khiển
- Sở lập bất khiển
- Bất ly
- Ðảo ly.
-ooOoo-
Phụ lục I
Sự khác biệt giữa logic tức Nhân minh học Phật giáo và logic của phương Tây
Ðại diện điển
hình của logic học phương Tây là logic học hình thức của Aristotle, sau
này được bổ sung và cải tiến bởi logic học của phái Khắc kỷ (Stoiciens)
và logic toán học.
Trong bài này,
tôi chủ yếu giới thiệu những nét cơ bản của logic học hình thức của
Aristotle. Aristotle là học trò của triết gia Platon. Ông cũng là thầy
dạy của hoàng đế Alexander vĩ đại. Ông sinh năm 382 và mất năm 322 trước
Tây lịch.
Công thức luận lý
hình thức của ông bắt đầu bằng hai tiền đề (premise, theo Anh ngữ), và
từ hai tiền đề đó, rút ra kết luận thích đáng. Tiền đề thứ nhất gọi là
Ðại tiền đề (Major premise), như nói: Tất cả mọi người đều phải chết.
Thứ hai là tiểu tiền đề (Minor premise), như nói: Socrates là người.
Thứ ba là kết luận hay đoán án, rút ra từ hai tiền đề trên: Vì Socrates là người cho nên ông ta cũng chết.
Tất nhiên, chúng
ta giả định là đại tiền đề và tiểu tiền đề chính xác, đó là điều kiện
tiên quyết. Bởi lẽ, có trường hợp, kết luận có thể rất đúng, rút ra một
cách thích đáng từ hai tiền đề trên. Nhưng hai tiền đề này lại sai. Một
ví dụ để minh họa:
Ðại tiền đề: Trái đất là hình vuông
Tiểu tiền đề: Cái gì vuông đều tròn
Kết luận: Do đó, trái đất là tròn.
Ai cũng có thể thấy hai tiền đề sai như thế nào rồi.
Khi lập luận,
Aristotle thiên về kiểu hình thức các mệnh đề hay luận thức đều theo mô
thức chủ ngữ, vị ngữ. Như nói: Mọi người đều phải chết. Mọi người là chủ
ngữ, đều phải chết là vị ngữ. Hay trong câu Socrates là người. Socrates
là chủ ngữ, là người là vị ngữ. Có thể vì Aristotle không thích toán,
cho nên ông không dùng mô thức toán để lập luận, đơn giản hơn.
Một con đường
thẳng, trên có ba điểm A, B, C. Và A đứng giữa B và C. Bây giờ, hãy thêm
một điểm D ở bên ngoài. Chúng ta có chuỗi các điểm D, B, A, C. Chúng ta
có thể kết luận ngay là A nằm giữa D và C.
Hãy đem Tam đoạn
luận (syllogism) gồm 3 thành tố đại tiền đề, tiểu tiền đề và kết luận
của công thức của Aristotle, so sánh với công thức ngũ chi tác pháp của
triết phái Nyaya, và tam chi tác pháp của Trần Na. Chỉ cần đưa ví dụ
minh họa là thấy ngay sự khác biệt.
Trong đại tiền đề
của lập luận của Aristotle: Tất cả mọi người đều phải chết, rõ ràng đó
là một khái quát hóa mà mọi người đều đồng thuận.
Còn trong lập
luận của Nhân minh, dù là cũ hay mới, thì mệnh đề đầu tiên gọi là tôn,
lại chính là đề tài tranh chấp giữa bên lập và bên phá, tức là giữa
người lập thuyết và người phản bác, như nói:
Tôn: Trên núi đàng xa có lửa.
Nhưng đứng đàng
xa làm sao mà thấy được lửa, cho nên người nghe phân vân, hay ít nhất
cũng nói điều nghi của mình: Lửa có thấy đâu?
Người lập thuyết bèn nói: Bởi vì khói um lên.
Khói là yếu tố
thứ ba, cũng gọi là thành tố trung gian (the middle term). Ðó là thành
tố quan trọng nhất của Tam đoạn luận của Nhân minh học Phật giáo, bởi vì
nó minh chứng cho mệnh đề: trên núi đàng xa có lửa.
Hai bên có đồng thuận là đồng thuận ở thành tố trung gian này. Ðúng là trên núi có khói, ai cũng thấy.
Bên lập bèn nói
tiếp: bất cứ ở đâu có khói là có lửa. Về điểm này, thì tất cả hai bên
lập và phá đều đồng thuận, cũng giống như đại tiền đề trong lập luận của
Aristotle. Ðó là một khái quát hóa từ rất nhiều hiện tượng đã được quan
sát: Ở đâu có khói là có lửa. Ðó là một thao tác quen thuộc của tư duy
gọi là quy nạp (induction). Nghĩa là từ rất nhiều hiện tượng, cụ thể cá
biệt quy nạp lại thành một khái quát hóa chung, tiếng Anh gọi là
generalisation.
Các mệnh đề như:
"Tất cả mọi người đều phải chết" (Aristotle) hay như: "Ở đâu có khói là
có lửa", cũng đều là những khái quát hóa, quy nạp nhiều hiện tượng, sự
vật hay quá trình cá biệt và cụ thể.
Và cả hai luận lý
học phương Tây và luận lý học phương Ðông (Ấn Ðộ giáo và Phật giáo),
cũng đều rút ra kết luận, một bên (Aristotle) thì rút từ hai tiền đại và
tiểu, và một bên (phương Ðông) thì rút ra từ thành tố thứ ba là nhân,
tức là cái dấu hiệu logic liên hệ tất yếu với sự vật, hiện tượng hay quá
trình bị che giấu, mà cảm quan không nắm bắt được trực tiếp, như lửa
trong trường hợp ở trên núi đàng xa. Khói là cái nhân, cái dấu hiệu
logic, giúp chúng ta biết là trên núi có lửa, mặc dù chúng ta không trực
tiếp thấy có lửa.
-ooOoo-
Phụ lục II
Phân biệt giữa Nhân minh học mới của Phật giáo với Nhân minh cũ của Ấn Ðộ giáo,
cụ thể là của học phái Nyaya (Chánh lý phái)
Lập luận của Nhân
minh học của triết phái Nyaya dựa trên cái gọi là ngũ chi tác pháp. Tác
pháp là kiểu thức hay mô thức hoạt động. Ngũ chi là năm thành tố. Thí
dụ lập:
(Lập tôn cũng như nói lập thuyết vậy)
1. Tôn: Trên núi có lửa.
2. Nhân: Vì trên núi có khói.
3. Dụ: Nơi nào có khói thì có lửa, ví dụ cái bếp.
4. Hợp: Trên núi, đã có khói thì phải có lửa.
5. Kết: Trên núi kia có lửa.
Lập như trên, có
tới 5 thành tố, gọi là 5 đoạn hay 5 chi. Nhân minh mới của Trần Na rút 5
đoạn xuống còn ba đoạn, gọi là tam chi tác pháp, về số lượng thành tố,
thì cũng tương đương với Tam đoạn luận của logic học phương Tây
(syllogism).
Trong 5 chi của
Nhân minh luận cũ, chỉ có ba thành tố tôn, nhân, dụ là cần thiết, không
có không được, còn hai thành tố hợp và kết, bất quá chỉ là rút ra từ ba
thành tố trên mà thôi. Vì vậy, với Trần Na, chỉ còn để lại ba thành tố
là tôn, nhân, và dụ.
Tôn: Trên núi có lửa.
Nhân: Vì trên núi có khói.
Dụ: Tất cả những nơi nào có khói đều có lửa, như cái bếp.
Như vậy là đủ,
không cần hai thành tố hợp và kết nữa. Hơn nữa, trong dụ, có thêm: Tất
cả những nơi nào có khói đều có lửa. Hai từ tất cả nhấn mạnh tính khẳng
định của dụ, không những có tính cá biệt mà mang tính phỗ biến.
Ðiểm khác biệt thứ hai là nội dung khác nhau của năng lập và sở lập.
Ðối với Nhân minh
cũ, thì cả ba tôn, nhân, dụ đều cấu thành năng lập và lấy hai thành tố
tự tánh (như âm thanh trong tôn âm thanh là vô thường), và sai biệt (tức
vô thường) là sở lập. Còn đối với Trần Na, thì trong ba thành phần tôn,
nhân, dụ thì nhân và dụ tạo thành năng lập, còn tôn là sở lập. Như
chúng ta dễ thấy, tôn là cái tranh chấp giữa bên lập và bên phá, còn
nhân và dụ lại là cái nhất trí giữa hai bên.
Ðiểm khác biệt
thứ ba thuộc về nhận thức về hai thành phần của tôn, tức phần trước gọi
là tiền trần, phần sau gọi là hậu trần. Như trong mệnh đề quen thuộc: Âm
thanh là vô thường. Âm thanh là tiền trần, vô thường là hậu trần. Ðiểm
tranh luận của hai bên ở chỗ nào? Trong Nhân minh cũ, có sự tranh cãi về
điểm này. Có người nói đó là tiền trần, có người nói là hậu trần, có
người nói là cả hai. Với Nhân minh mới của Trần Na, tiền trần hay hậu
trần đều không phải là điểm tranh luận, mà điểm tranh luận chính là sự
liên kết giữa tiền trần và hậu trần thành một mệnh đề, như âm thanh là
vô thường, hay là trên núi có lửa.
Ngài Khuy Cơ, học
trò ngài Huyền Tráng, giải: hai thành phần tiền trần và hậu trần gọi là
tôn y, còn sự liên kết giữa hai tôn y lại gọi là tôn thể. Tôn thể là
đầu mối của tranh luận.
Còn hai điểm khác
biệt nữa liên quan tới nhân và dụ, nội dung khá phức tạp, không tiện
giới thiệu ở đây. Trong bài dẫn nhập, chỉ bàn sự khác nhau đại khái giữa
hai môn Nhân minh mới và cũ mà thôi.
-ooOoo-
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt:
1. Lối
vào Nhân minh học của Hòa thượng Thích Thiện Siêu do Viện Nghiên cứu
Phật học ấn hành, 1994. (Trong cuốn sách này, có đăng lại bài giảng của
cụ Lê Ðình Thám về Nhân minh học ở Phật học đường Báo Quốc. Ðồng thời
cũng đăng bộ luận "Nhân minh nhập chánh lý luận" của ngài Thương Yết La
Chủ kèm theo bản Việt dịch).
2. Ðông phương luận lý học của Nhất Hạnh.
Tiếng Anh: 1. Nyaya bindu của Luận sư Dharmakirti, sớ giải của Luận sư Dharmottara. Bản dịch ra Anh ngữ của viện sĩ Nga Th.Scherbatsky.
2. Buddhist logic của viện sĩ Nga Th.Scherbatsky (bản Anh ngữ).
Tiếng Hoa: 1. Nhân minh chánh lý môn luận bổn (1 cuốn). Ðại Vực Long soạn, Huyền Tráng dịch.
2. Nhân minh chánh lý môn luận (1 cuốn). Ðại Vực Long soạn, Nghĩa Tịnh dịch.
3. Nhân minh nhập chánh lý luận (1 cuốn). Thương Yết La Chủ soạn, Huyền Trááng dịch.
4. Hồi Tranh luận, Long Thọ soạn.
5. Nhân minh thanh minh dữ Phật học nghiên cứu pháp. Tuyết Phàm soạn (Hội Phật học Ðài Loan xuất bản)
-ooOoo-
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nhân minh học Phật giáo là gì?
2. Trình bày tóm tắt về nhận thức luận Phật giáo.
3. Nhân minh học (logic học) Phật giáo khác với logic học phương Tây ở những điểm căn bản nào?